Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Khí tượng hải dương học - Chương 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 58 trang )


42
Chương 2
CÁC HIỆN TƯỢNG VÀ HỆ THỐNG
THỜI TIẾT BIỂN VIỆT NAM
Vùng biển nước ta nằm trong vùng nội chí tuyến, là nơi giao lưu của các
loại hình thời tiết, trong đó có thời kỳ do một hệ thống thời tiết khống chế, có
thời kỳ xen kẽ hoạt động của một số hệ thống. Để hiểu rõ thêm sự hoạt động của
các hệ thống thời tiết, chúng ta cần nắm một số khái niệm mang tính chất về
đặc
điểm cơ cấu, cấu trúc của chúng.
2.1. Khối khí và hoàn lưu khí quyển
2.1.1. Khối khí
a, Khái niệm về khối khí
Khối không khí hay còn gọi là khí đoàn và những bộ phận không khí cỡ
lớn chiếm cứ trên một phạm vi rộng của lục địa hay đại dương. Đặc trưng nổi
bật của khối khí là có sự phân bố các yếu tố khí tượng, điển hình là nhiệt độ và
độ ẩm tương đối đồng nhất theo phương ngang. Từ đó, hai yếu tố này được coi
nh
ư chỉ tiêu để xác định đặc tính thời tiết của các khối khí.
Nguồn gốc hình thành các khối khí có hai nguyên nhân chính là tính chất
“mặt đệm” và bức xạ mặt trời. Nơi phát sinh các khối khí gọi là “ổ phát sinh”.
b, Phân loại khối khí
Người ta thường phân loại các khối khí theo các cơ sở như sau:
- Phân loại theo khu vực địa lý hình thành các khối khí. Theo cách phân
loại này bao gồm các khối khí như: khối khí cực đới, khối khí ôn đới, khối khí
nhiệt đới, khối khí xích đạo.
Ngoài ra, có thể kết hợp với tính chất mặt đệm mà điển hình là bề mặt lục
địa và biển để phân loại khối khí. Ví du: khối khí nhiệt đới biển, khối khí ôn đới
lục địa.v.v.
- Phân loại theo tính chất các yếu tố khí tượng mà điển hình là nhiệt độ và


độ ẩm: khối không khí nóng, khối không khí lạnh, khối không khí nóng ẩm, khối
không khí nóng khô, khối không khí lạnh khô…
Như vậy, nếu ta xem xét một khối không khí được phân loại theo phương
pháp địa lý thì tương ứng ta có thể hiểu được nó qua việc phân loại theo nhiệt độ và
độ ẩm. Chẳng hạn, khối không khí nhiệt đới hải dương sẽ là khối không khí nóng
ẩm, khối không khí cực đới là khối không khí lạnh khô…
Do tính chất qui mô lớn và được đặc thù bởi chế độ thời tiết của mình nên
khối khí có tính khống chế và thị
nh hành thời tiết ở các khu vực mà nó bao trùm.
Tuy nhiên, các khối khí không phải ở cố định trên “quê hương” sinh ra nó
mà trong quá trình vật lý khí quyển, chúng di chuyển qua các vùng địa lý khác
nhau, tức là sẽ thay đổi mặt đệm và sự tiếp nhận bức xạ mặt trời. Vì vậy, sẽ có

43
sự biến đổi về tính chất các yếu tố khí tượng (điển hình là nhiệt độ và độ ẩm)
“người ta gọi sự biến đổi ấy là sự biến tính của khối khí”.
Một ví dụ điển hình của sự biến tính là vào thời gian cuối của chế độ gió
mùa Đông Bắc (tháng 1 đến tháng 3), khối không khí lạnh khô lục địa Xibia trước
khi đến nước ta đ
ã tràn qua vùng biển Đông Nam Trung Quốc tiếp nhận lượng ẩm
cao đã tạo nên thời tiết lạnh ẩm, mưa phùn ở miền Bắc Việt Nam.
2.1.2. Hoàn lưu khí quyển
Khái niệm “hoàn lưu” để chỉ sự chuyển động của không khí trong khí
quyển có tính chất tuần hoàn.
Như vậy, hoàn lưu khí quyển là tập hợp các dạng chuyển động quy mô
lớn trong phạm vi khí quyển tầng thấp, nhờ có sự trao đổi không khí theo theo
hướng thẳng đứng và nằm ngang.
Các nhà khí tượng đã xây dựng mô hình hoàn lưu khí quyển theo các
dạng sau:
a, Mô hình hoàn lưu giả thiết

Đây là mô hình đơn giản hóa về hoàn lưu khí quy
ển. Giả thiết rằng, bề
mặt trái đất có tính chất mặt đệm đồng nhất, không có sự tác động của lực làm
lệch hướng. Từ đó, dưới tác dụng của bức xạ mặt trời sẽ hình thành sự phân bố
các trung tâm nhiệt – áp đơn giản: tại vùng xích đạo nhiệt độ cao, tồn tại dải áp
thấp còn ở vùng cực, nhiệt độ thấp và tồn tại áp cao.
Không khí trên b
ề mặt sẽ chuyển động từ hai cực về xích đạo nóng lên và
bốc lên cao rồi tuần hoàn trở lại đi xuống vùng cực hình thành hoàn lưu khép
kín dạng “kinh hướng”. Hình 2.1 dưới đây mô tả dạng hoàn lưu giả thiết.















Hình 2.1. Mô hình hoàn lưu giả thiết

44
b, Mô hình hoàn lưu khí quyển thực tế
Trong thực tế, bề mặt trái đất có cấu trúc mặt đệm rất đa dạng mà điển

hình là sự phân bố hải - lục, đồng thời với sự tự quay của trái đất sẽ phát sinh ra
lực làm lệch hướng (lực Koriolis) tác động lên sự chuyển động của không khí
làm lệch hướng hoàn lưu. Từ đó, cùng với sự phân bố bức x
ạ mặt trời, sự khác
biệt của tính chất mặt đệm nên sự phân bố các trung tâm nhiệt áp trên toàn cầu
bị cắt xẻ và thay đổi theo mùa. Điển hình của sự khác biệt này là hình thế khí áp
ở Bắc bán cầu, nơi có sự phân bố rõ nét về lục địa và đại dương.
Ví dụ cụ thể của sự phân bố đó như sau:
- Trên cực Bắc hình thành cao áp lạnh.
- Vùng vĩ độ 60
0
hình thành một áp thấp.
- Vùng ngoại chí tuyến (vĩ độ 30 – 35
0
) hình thành vùng cao áp đại dương
ngoại chí tuyến.
- Vùng áp thấp xích đạo.
Với sự phân bố như trên, ta có thể mô tả một sơ đồ hoàn lưu thực tế trên bề
mặt trái đất trong hầu hết thời gian trong năm (hình 2.2). Theo sơ đồ phân bố, ta thấy
áp cao ở cực, dải áp thấp phụ ở vĩ độ 60
0
, dải áp cao cận nhiệt và áp thấp xích đạo.

Hình 2.2. Sơ đồ hoàn lưu khí quyển thực
Theo sơ đồ này, trên bề mặt sẽ có dạng hoàn lưu như sau:
Từ cực về vùng vĩ độ 60
0
N có dòng hướng Đông Bắc (NE), từ vùng vĩ độ
35
0

N đến 60
0
N có hướng Tây Nam (SW), từ vĩ độ 35
0
N đến xích đạo có hướng
Đông Bắc (NE).

45
Trên cao, ở từng khu vực, hoàn lưu có hướng ngược lại, theo quy tắc vùng
áp cao dòng khí đi xuống, vùng áp thấp không khí chuyển động lên cao. Tóm
lại, mô hình hoàn lưu khí quyển thực (áp dụng điển hình cho Bắc bán cầu) sẽ có
dạng như sau:
- Trên bề mặt từ cực đến vĩ độ 60
0
N hoàn lưu có hướng Đông Bắc (NE),
trên cao có hướng ngược lại (SW).
- Từ vĩ độ 30
0
– 35
0
N trên bề mặt hoàn lưu có hướng Tây Nam (lệch Tây),
trên cao có hướng ngược lại (đáng chú ý là ranh giới giữa vùng này và vùng chí
tuyến xuất hiện vùng gió Tây với vận tốc hàng trăm km/h “vĩ độ ngựa” ở độ cao
≈ 20km).
- Từ vĩ độ 30
0
– 35
0
N đến xích đạo trên bề mặt hoàn lưu có hướng NE,
trên cao có hướng SW (thiên về Tây như đã nói ở trên).

Thực ra, nếu ta gọi hoàn lưu khí quyển thực thì có thể nói rất đa dạng, thay
đổi liên tục theo thời gian, không gian. Để có thể mô tả chính xác một dạng hoàn
lưu cụ thể, các nhà khí tượng phải dựa trên chuỗi số liệu quan trắc bề mặt và cao
không thể hiện trên các bản đồ thời tiết phục v
ụ cho công tác dự báo thời tiết.
2.2. Front khí quyển (Phờ rông)
2.2.1. Khái niệm về front khí quyển
a, Sự hình thành và tan front
Front (F) là thuật ngữ để chỉ một vùng có sự tranh chấp.Trong khí tượng,
khái niệm front khí quyển để xác định “một vùng khí quyển hẹp nằm giữa hai
khối khí đang tranh chấp nhau mà sự tranh chấp đó được đặc trưng bởi sự khác
biệt về các yếu tố khí tượng” (điển hình là nhiệt độ không khí). Vì lẽ đó, trên
bản đồ thời tiết, để xác định đườ
ng front, người ta cần tìm khu vực mà trong đó
có sự chênh lệch nhiệt độ không khí theo chiều ngang lớn, thông thường có thể
chênh lệch nhiệt độ theo phương ngang từ 10-15
0
C, (kèm theo đó là các yếu tố
cần quan tâm như khí áp, hướng gió).
Như vậy, sự tạo thành front thường liên quan đến quá trình dịch chuyển
của các khối khí lại gần nhau, từ đó tạo nên vùng khí quyển hẹp giáp ranh có độ
chênh lệch nhiệt độ lớn và sự khác biệt ấy dẫn đến tính tranh chấp của hai hệ
thống thời tiết khác nhau.
Front tồn tại trong khí quyển dưới dạng một mặt nghiêng, góc nghiêng
củ
a mặt front trên bề mặt nằm ngang rất nhỏ (<1
0
), độ cao của vùng front có thể
lan đến đỉnh tầng đối lưu nhưng thường tính chất front biểu hiện rõ nét ở các lớp
khí quyển dưới 5 km. Bề rộng của vùng front không có kích thước rõ rệt, từ vài

trăm km và đôi khi chỉ trong phạm vi vài km. Giao tuyến của vùng front trên bề
mặt tại thành đường front.

46
Do mật độ không khí khác nhau và được hình thành trong quá trình động
nên front tồn tại khí quyển sao cho không khí lạnh ở dưới, không khí nóng ở
trên mặt front.
Sự tan front gắn liền với sự biến tính của khối khí, vì do biến tính, các yếu
tố khí tượng dần dần được cân bằng làm mất tính đối kháng.
b, Phân loại và ký hiệu front
Việc phân loại front có thể dựa trên các cơ sở:
* Theo khu vực địa lý tồn tại của front, người ta chia thành các loại:
- F c
ực là F ngăn cách giữa khối khí cực đới và khối khí ôn đới;
- F ôn đới là F ngăn cách giữa khối khí ôn đới và khối khí nhiệt đới;
- F nhiệt đới là F ngăn cách giữa khối khí nhiệt đới và khối khí xích đạo.
* Phân loại dựa theo sự di chuyển của các khối khí đồng thời front cũng di
chuyển, theo cơ sở này front được phân loại thành hai loại cơ bản:
- Front nóng là front được hình thành khi khối không khí nóng di chuyển
gần lại khố
i không khí lạnh.
- Front lạnh là front được tạo thành khi có khối không khí lạnh di chuyển
đến vùng không khí nóng. Trong front lạnh, nếu không khí lạnh di chuyển chậm
gọi là front lạnh loại 1, nếu không khí lạnh di chuyển nhanh gọi là front lạnh loại 2.
Ký hiệu front trên bản đồ thời tiết thường được vẽ bằng đường chì đen
đậm nét với các răng cưa nhọn nếu là front lạnh và các răng cưa hình bán nguyệt
với front nóng. Ký hiệu hai loại front được mô tả
ở hình 2.3.




Front lạnh Front nóng
Hình 2.3. Ký hiệu front trên bản đồ thời tiết
2.2.2. Đặc điểm thời tiết trong khu vực front

Như đã nói ở trên, vùng front tuy là đới khí quyển hẹp, song là vùng tranh
chấp đột biến giữa các khối không khí có các hệ thống thời tiết khác biệt nhau
nên nhìn chung, thời tiết ở vùng front là xấu và có lúc trở nên nguy hiểm.
a, Thời tiết trong front nóng
Khối không khí nóng di chuyển về khối không khí lạnh sẽ trượt lên trên
không khí lạnh và hình thành một vùng tiếp giáp gọi là front nóng.
Không khí nóng chuyển động trượt trên bề mặt nghiêng đi lên cao sẽ hình
thành hệ mây front nóng kéo dài dọc theo front thành một dả
i ước chừng từ 700
– 900 km, thường bao gồm các mây dạng tầng: Ti (Ci), Ti tầng (Cs), Trung tầng
(As). Thấp dần xuống vùng gần đường front là các đám mây Vũ tầng (Ns) gây

47
mưa và hệ mây này kết thúc khi front di qua. Hình 2.4 mô tả sự tạo thành hệ
mây front nóng.
Kế theo hệ mây, khi front nóng đi qua có thể xuất hiện gió giật mạnh và
đổi hướng, nhiệt độ không khí đột ngột tăng, áp giảm. Thời gian xảy ra sự thay
đổi thường vài chục phút, khi front đi qua, thời tiết chuyển sang chế độ của thời
tiết trong khối không khí nóng.
b, Thời tiết trong front lạnh loại 1
Ngược lại với front nóng, khi khố
i không khí lạnh tràn đến phía khối
không khí nóng sẽ hình thành một front lạnh. Khối không khí lạnh đi tới sẽ đẩy
khối không khí nóng trượt trên mặt front đi lên và trôi về phía sau. Do ảnh
hưởng của ma sát, lớp không khí lạnh ở sát bề mặt chuyển động chậm lại nên

mặt front ở đây dốc hơn. Vì vậy, ngay tại đây có một bộ phận không khí nóng bị
đẩy lên cao theo chiều thẳng đứng hình thành mây Vũ tích (Cb), tiếp theo không
khí nóng tiế
p tục trượt trên mặt front lạnh đi lên hình thành các loại mây Vũ
tầng (Ns), mây Trung tầng (As), Ti tầng (Cs) song thứ tự xuất hiện sẽ ngược lại
so với front nóng. Hệ mây front lạnh loại 1 được mô tả ở hình 2.5.
Front lạnh đi qua cũng gây ra gió giật mạnh, vùng có mây vũ tích gây
mưa rào, giông và có thể có lốc xoáy, nhiệt độ hạ đột ngột, áp tăng lên, sau đó
thời tiết hoàn toàn do khối không khí lạnh chiếm cứ khống chế
.

Hình 2.4. Hệ mây trong front nóng
c, Thời tiết trong front lạnh loại 2
Khi sự chênh lệch lớn về nhiệt độ và khí áp giữa khối không khí lạnh đi
tới và khối không khí nóng địa phương, không khí lạnh di chuyển nhanh tới đẩy
không khí nóng trước front chuyển động hầu như thẳng đứng lên cao đột ngột,
không khí nóng phía sau trườn xuống thay thế. Vì vậy, trước front lạnh khoảng
50 – 100 km xuất hiện vùng hạ áp và mây Vũ tích (Cb) gây giông, mưa rào. Khi
front lạnh đi qua có mây Tầng tích (Sc), mây Tích (Cu), Trung tích (Ac) và có

48
thể có mây Vũ tích nếu xuất hiện các front lạnh phụ, sau đó mây cao dần và trời
trong sáng (hình 2.6).
Như vậy, thời tiết trong front tuy phạm vi hẹp và thời gian xảy ra ngắn,
song là sự thay thế giữa hai hệ thống khác biệt nhau nên thường xảy ra đột ngột
và xấu nên cần phải theo dõi đề phòng.


Hình 2.5. Hệ mây front lạnh loại 1



Hình 2.6. Hệ mây front lạnh loại 2
Ở Việt Nam, tính chất thời tiết front thường biểu hiện rõ là front lạnh vì
về mùa gió Đông Bắc, không khí lạnh tràn về, đi trước nó là front lạnh. Các đợt
không khí lạnh vào cuối mùa (tháng 3,4) thường có tính chất front lạnh loại 2
nên rất nguy hiểm. Vì vậy, cần chú ý đề phòng hiện tượng giông, tố, lốc, vòi
rồng có thể xảy ra trên biển khi gió mùa Đông Bắc hoạt động.
2.3. Dải hội tụ nhiệt đới
2.3.1. Khái niệm và sự hình thành dải hội tụ nhiệt đới

Không khí lạnh
Không khí nóng

49
Dải hội tụ nhiệt đới là một đới hội tụ gió, hình thành ở vùng biển nhiệt đới
trong vùng bất liên tục của đới gió áp thấp xích đạo. Điều đáng chú ý là ở vùng
hội tụ gió là sự gặp gỡ của hai đới gió thuộc hai khối khí có nguồn gốc nóng ẩm.
Vì vậy, xét về tính chất thì vùng hội tụ nhiệt đới khác front.
Ở vùng biển nước ta, dải hội t
ụ nhiệt đới là nơi gặp gỡ của gió mùa Tây
Nam có nguồn gốc ở vùng biển Nam bán cầu và gió Đông Bắc từ áp cao phó
nhiệt đới ở trung tâm Thái Bình Dương thổi xuống.
Dải hội tụ hình thành trên vùng biển Việt Nam trải dài trên tuyến Tây Tây
Bắc – Đông Đông Nam vắt qua biển Đông. Cấu trúc thẳng đứng của dải hội tụ
nhiệt đới thể hiện qua dòng thăng phát triển mạnh c
ả về hai phía của dải (Hình 2.7).













Hình 2.7. Cấu trúc theo phương ngang và thẳng đứng của dải HTNĐ
2.3.2. Đặc điểm hoạt động của dải hội tụ ở vùng biển Việt Nam

Vào đầu mùa hè, khi đới gió Tây Nam vượt qua xích đạo lên Bắc bán cầu,
đồng thời áp cao phó nhiệt đới cũng phát triển mạnh bành trướng xuống phía Nam
sẽ hình thành vùng hội tụ gió. Sự di chuyển của dải hội tụ cơ bản phụ thuộc vào vị
trí của áp cao phó nhiệt đới và sự tăng cường của gió Tây Nam.
Vị trí trung bình của dải hội tụ đi qua vịnh Thái Lan vào tháng 5, sang
tháng 6 đi qua vùng vĩ độ 10
0
N – 12
0
N (Nam Trung Bộ). Sang tháng 7, vị trí dải
hội tụ trải dài từ đồng bằng Bắc Bộ vắt qua đảo Hải Nam. Tới tháng 8, 9, vị trí
cao nhất của dải hội tụ đi qua Bắc vĩ tuyến 20
0
N. Từ cuối tháng 9 dải lùi xuống
phía Nam và tới tháng 10, 11 hoạt động ở vùng vĩ độ 9
0
÷ 10
0
N sau đó dải lùi

xuống hoạt động ở Nam bán cầu.
Như vậy, là một vùng hội tụ gió hoạt động theo sự tăng cường của hai đới
gió cơ bản của hai bán cầu nên theo thời gian, dải sẽ có cường độ hoạt động
khác nhau. Đồng thời trong suốt thời gian hoạt động, dải sẽ tác động đến các

50
khu vực theo thời kỳ hoạt động của nó.
Thời tiết trong dải hội tụ nhiệt đới phổ biến gồm các hiện tượng: mưa và
giông trong đới hội tụ, mưa không đều (“sụt sùi mưa ngâu” hoặc mưa dầm) do
dải hội tụ tăng cường tạo nên vùng hội tụ mạnh có thể tạo thành các xoáy thấp
nhiệt đới hoặc phát triển thành bão.
2.4. Chế độ gió mùa
Với vị trí địa lý của nước ta, một chế độ thời tiết khá điển hình là sự hoạt
động của gió mùa. Đây là một chế độ thời tiết quy mô lớn hoạt động trong một
không gian rộng và thời gian kéo dài, tác động lớn đến chế độ thời tiết và khí
hậu ở vùng biển Việt Nam.
2.4.1. Chế độ gió mùa Đông Bắc
Về cuối Thu đầu Đông, ở vùng lục địa phía Bắc (khu vực Xibia – Cộng
hòa liên bang Nga) hình thành áp cao lạnh. Với sự chênh lệch khí áp từ vùng
phía Bắc xuống phía Nam tạo nên hoàn lưu gió Đông Bắc ảnh hưởng trực tiếp
đến vùng biển nước ta từ cuối tháng 9 đến tháng 4 năm sau.
Gió Đông Bắc hoạt động trên vùng biển suốt từ Bắc xuống Nam, nhưng
rõ nét nhất là từ Bắc biển Đông tới vùng v
ĩ độ 16
0
N. Vùng ven bờ cấp 4 – 5,
ngoài khơi cấp 6, cấp 7. Trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 1, gió Đông Bắc
hoạt động mạnh có thể tới cấp 8 hoặc trên cấp 8, biển động mạnh.
Gió Đông Bắc hoạt động thành từng đợt kéo dài vài ba ngày, trung bình
trong tháng có khoảng 4 đợt không khí lạnh tràn về. Vào thời kỳ hoạt động

mạnh, gió Đông Bắc có thể kéo dài 5 đến 7 ngày.
Điều đáng chú ý là trước gió mùa Đông Bắc thường có front l
ạnh hoạt
động, gây ra thời tiết xấu, đặc biệt là các đợt gió hoạt động đầu và cuối mùa
(tháng 9, 10 và tháng 4) phải đề phòng thời tiết nguy hiểm có thể xảy ra do front
lạnh mang tính chất loại 2 gây ra.
2.4.2. Chế độ gió mùa Tây Nam
Ngược với cơ chế gió mùa Đông Bắc là cơ chế gió Tây Nam. Vào đầu
mùa hè, ở Bắc bán cầu có sự chênh lệch khí áp với Nam bán cầu, từ đó không
khí từ phía Nam vượt qua xích đạo lên Bắc bán cầu lệch hướng sang phải tạo
thành gió Tây Nam. Do ảnh hưởng của địa hình nên từng khu vực gió Tây Nam
lệch sang Tây hoặc Nam. Từ tháng 5, tháng 6 gió Tây Nam hoạt động từ Nam
biển Đông lan dần lên Bắc biển Đông và đến đầu tháng 8 bao trùm hầ
u hết các
vùng biển Đông.
Cường độ gió Tây Nam có yếu hơn gió Đông Bắc. Ngoài khơi có thể có
gió cấp 6, cấp 7. Do nguồn gốc gió Tây Nam từ vùng biển phía Nam xích đạo
thổi lên nên có nhiệt độ cao, giàu độ ẩm. Vì vậy, mùa gió Tây Nam thường kèm
theo mùa mưa và sự tăng nhiệt độ không khí. Cũng do ảnh hưởng của địa hình

51
núi cao phía biên giới Việt Nam – Lào – CamPuChia khi gió mùa Tây Nam hoạt
động thường gây ra hiện tượng “Phơn” - gió khô, nóng ở Tây Nguyên, Nam
Trung bộ -Trung bộ và Thanh - Nghệ – Tĩnh (gió Lào).
Khác với gió mùa Đông Bắc, gió mùa Tây Nam thường bị gián đoạn bởi
các hiện tượng thời tiết như gió Đông, Đông Nam từ áp cao phó nhiệt đới (Thái
Bình Dương) hoạt động xen kẽ trong tháng 4, tháng 5 hoặc thời tiết trong áp
thấp nhiệt đới, bão lấn át sự thịnh hành của gió Tây Nam.
2.5. Các hiện tượng thời tiết quy mô nhỏ
2.5.1. Gió đất - Gió biển

Gió đất, gió biển (hiện tượng Brizơ) là chế độ gió hoạt động ở vùng ven
biển (hay hồ lớn) luân phiên nhau thổi theo chu trình ngày đêm.
a, Gió biển
Là chế độ gió từ biển thổi vào đất liền. Ban ngày, do tính chất hấp thụ
nhiệt của mặt biển và đất liền khác nhau dẫn đến nhiệt độ không khí trên biển
thấp hơn trên bờ, hình thành vùng áp thấp trên bờ và áp cao trên biển. Không khí
từ biển thổi vào bờ trên b
ề mặt tạo thành gió biển. Trên cao, luồng không khí
chuyển động từ bờ ra biển tạo thành hoàn lưu khép kín (hình 2.8).
Gió biển thường hoạt động từ khoảng 9 – 10 giờ sáng đến khoảng 17 – 18
giờ chiều vào những ngày trời quang và có thể đạt tới cấp 3 cấp 4.
b, Gió đất
Đêm về, khi bức xạ mặt trời trực tiếp đi tới bề mặt không còn, bề mặt đất
liền bị
mất nhiệt nhanh dẫn đến lớp không khí sát bề mặt bị lạnh đi, nhiệt độ hạ
thấp tạo thành vùng áp cao. Trong khi đó, trên biển do tính chất giữ nhiệt lâu của
nước nên nhiệt độ trong biển cao, hình thành một áp thấp. Không khí từ đất liền
thổi ra biển trên bề mặt tạo thành gió đất (hình 2.9).
Hình 2.8. Gió biển Hình 2.9. Gió đất
Gió đất thường hoạt động vào những ngày đẹp trời, trong khoảng thời
gian từ nửa đêm về sáng.
Gió đất và gió biển không chỉ có tác dụng điều hòa khí hậu địa phương
mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của tàu thuyền khi cập rời bến. Vì vậy, khi
Ban ngày
Ban đêm

52
điều động tàu cập rời cảng trong điều kiện có gió đất, gió biển cần tính toán sức
gió và hướng gió để có biện pháp điều động thích hợp, bảo đảm an toàn cho tàu.
2.5.2. Một số hiện tượng thời tiết nguy hiểm mang tính chất địa phương

a,Giông
Về bản chất, giông là hiện tượng phóng điện trong khí quyển. Sự phóng
điện này liên quan đến sự hình thành các điện trường trong các đám mây giông
(Cb), điện trường cảm ứng giữa các đám mây và giữa mây với bề mặt trái đất. Tia
lửa điện được phóng ra trong các đám mây hoặc giữa các đám mây gần nhau ta gọi
là Chớp, giữa mây với các vật thể trên bề mặt trái đấ
t gọi là Sét. Trong quá trình tia
lửa điện với điện áp hàng ngàn vôn phóng ra trong không khí làm cho không khí
nóng lên đột ngột gây ra sự giãn nở và phát ra tiếng nổ, ta gọi là Sấm, Sét.
Vì giông được sinh ra do sự phát triển mạnh của các đám mây Vũ tích (Cb)
nên kèm theo hiện tượng phóng tia lửa điện là gió xoáy giật mạnh có thể tới cấp 6,7,
mưa rào và có thể có mưa đá. Cơn giông hình thành và di chuyển gắn với sự di
chuyển của đám mây giông vớ
i tốc độ trung bình khoảng 40 km/h. Vì vậy, trên biển
khi phát hiện đám mây giông cần khẩn trương chuẩn bị cho tàu cơ động tránh giông.
Mây giông (mây Vũ tích – Cb) được hình thành do đối lưu của không khí phát
triển mạnh. Như trong phần (1.3) đã nói, mây Cb có thể được hình thành do đối lưu
nhiệt hoặc đối lưu động lực. Vì vậy, vào những ngày hè oi bức, cần đề phòng giông
nhiệt và trong thời gian hoạt động của dải hội tụ nhiệ
t đới hay trước gió mùa Đông
Bắc là lúc có đối lưu phát triển mạnh, hình thành mây Vũ tích (Cb).
b, Tố (đường tố)
Tố là hiện tượng gió mạnh đột ngột với sức gió trên dưới 100 m/s hình
thành ở dưới các đám mây Vũ tích phát triển khi có đối lưu và loạn lưu ở phần
dưới các đám mây Cb bay thấp.
Trong trường hợp không khí lạnh tràn vào vùng không khí nóng ẩm và
đẩy không khí nóng ẩm lên cao một cách đột ngột tạo thành các đám mây vũ
tích đen đặc, chân mây tối sẫm, tơi tả, hình dạng thay đổi nhanh báo hiệu một
vùng xoáy có trục nằm ngang đang hình thành một cơn tố. Phạm vi tác động của
tố thường gây ra một vệt hẹp chừng vài trăm mét song có thể kéo dài hàng chục,

thậm chí hàng trăm km, tốc độ di chuyển của tố cũng tới hàng trăm km/h. Do
vậy, việc dự đoán và phòng tránh tố là vấn đề rất khó khăn.
c, Lố
c
Lốc là hiện tượng gió xoáy cực mạnh, xuất hiện khi có những khu vực bị
đốt nóng cục bộ tạo nên dòng thăng (đối lưu) phát triển mạnh, khí áp giảm đột
ngột, không khí từ các vùng xung quanh chuyển động xoáy có trục thẳng đứng.
Lốc cũng thường xuất hiện ở dưới các đám mây giông khi đối lưu phát triển

53
mạnh, sự chênh lệch nhiệt độ theo chiều đứng lớn gây ra áp giảm đột ngột tạo
nên những cơn gió xoáy giật, có thể phá hoại các công trình xây dựng xây dựng,
làm lật chìm tàu thuyền.
d, Vòi Rồng
Khác với lốc, vòi rồng là hiện tượng một phần mây dạng xoắn trôn ốc lan
tỏa từ các đám mây vũ tích trông có dạng hình phiễu như vòi voi xuống mặt đất,
mặt biển.
Nguyên nhân phát sinh ra vòi
rồng là khi mộ
t khối không khí nóng
ẩm di chuyển dưới một khối không
khí lạnh khô hình thành nên những
xoáy khí có trục thẳng đứng lan từ
mây tới bề mặt đất, mặt biển. Với vận
tốc xoáy cực lớn lên tới 200-300 m/s
tạo nên một hiện tượng “ống rỗng”
tương tự nguyên lý của máy bơm ly
tâm làm cho khí áp của vùng trong
ống tụt 400mb, thậm chí 200mb
(trong khi đó bên ngoài ống, khí áp

trung bình 1010mb). Sự chênh lệch
khí áp đó tạo nên một s
ức hút rất
mạnh, có thể nâng các vật nặng hàng
chục tấn rời đi xa, hút các vật thể nhẹ
lên mây và di chuyển đi các vùng
khác làm rơi xuống trong các trận
“mưa cá”, “mưa tiền”.
Sức gió xoáy giật cực mạnh
cùng với sức nâng hút lớn của vòi rồng
đã gây ra tác hại rất nghiêm trọng dù kích thước vòi rồng chỉ cỡ mấy chục đến
vài trăm mét và thời gian hoạt động trong vài chục phút.
Vòi r
ồng thường xuất hiện ở phía Tây Nam của các đám mây giông khi
mây phát triển mạnh, chân mây tơi tả, luôn thò xuống các vệt như dạng móng
vuốt (mống của vòi rồng), các mống này dần lan xuống thấp tạo nên các vòi
hình phiễu hút nước lên mây (hình 2.10).
Giông, tố, lốc, vòi rồng là những hiện tượng thời tiết nguy hiểm qui mô
nhỏ, hình thành bất chợt và khó dự báo trước. Tuy vậy, các hiện tượng trên đều
liên quan đến sự hình thành và phát triển c
ủa mây giông (mây Vũ tích – Cb). Vì
Hình 2.10. Mô tả đám mây mang vòi
rồng trên biển


54
vậy, để phòng tránh thiệt hại cần tổ chức quan sát sự phát triển và di chuyển của
các đám mây giông bảo đảm an toàn cho người và phương tiện khi hoạt động
trên biển.
2.6. Bão nhiệt đới

2.6.1. Những khái niệm cơ bản về bão nhiệt đới
a, Một số thuật ngữ về bão
Theo Quyết định 581/ TTg ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1997 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành “Quy chế bão, lũ” có các thuật ngữ được định nghĩa
như sau:
1. Xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ): là vùng gió xoáy, đường kính có thể tới
hàng trăm ki lô mét, hình thành trên biển nhiệt đới, gió thổi xoáy vào trung tâm
theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, áp suất khí quyển thấp nhất ở tâm, có
mưa, đôi khi kèm theo giông, lốc, tố.
2. Áp thấp nhiệt đới (ATNĐ): là một vùng XTNĐ có sức gió mạnh nhất
từ cấp 6 đến cấp 7 và có thể có gió giật.
3. Bão: là một XTNĐ, có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở lên và gió giật mạnh.
Về Bão được phân chia thành các loại :
a. Bão thường là XTNĐ có sức gió mạnh nhất từ cấp 8 đến cấp 9 và có
thể có gió giật.
b. Bão mạnh là XTNĐ có sức gió từ cấp 10 đến cấp 11 và có thể có gió gi
ật.
c. Bão rất mạnh là XTNĐ có sức gió mạnh nhất từ cấp 12 trở lên và có thể
có gió giật.
Thuật ngữ về “Bão” ở trên thế giới cũng có nhiều tên gọi khác nhau. Ở
vùng Đại Tây Dương, người ta gọi là “Uragan” hay “Hurricane”. Ở Ấn Độ
Dương gọi là “Cyclone”, ở châu Úc thì gọi là “Villy – Villy” còn ở khu vực
Thái Bình Dương – châu Á, bão được gọi là “Typhoon”. Tất cả các tên gọi trên
qui tụ lại dưới một cái tên cơ bản là: “Tropical Cyclone” – xoáy thu
ận nhiệt đới.
Từ xoáy thuận chỉ các vùng xoáy có khí áp thấp nhất ở tâm.
Các nhà khí tượng thường chia các áp thấp hình thành ở vùng nhiệt đới
thành 4 nhóm:
1. Nhiễu động nhiệt đới: đặc trưng bởi một vòng hoàn lưu xoáy thuận nhẹ
và có một đường đẳng áp đóng kín với sức gió mạnh nhất trên dưới cấp 6.

2. Áp thấp nhiệt đới: đặc trưng bởi vùng áp thấp có hai đường đẳng áp
đóng kín với sức gió m
ạnh nhất dưới 17 m/s (không vượt quá cấp 7).
3. Bão nhiệt đới: đặc trưng bởi vùng áp thấp có từ ba đường đẳng áp đóng
kín trở lên, với sức gió mạnh nhất từ 17 m/s đến 32 m/s (từ cấp 8 đến cấp 11).
4. Cuồng phong nhiệt đới: đặc trưng bởi các áp thấp có nhiều đường đẳng
áp khép kín, với sức gió mạnh nhất từ 33 m/s trở lên (từ cấp 12 trở lên).

55
Tổ chức khí tượng thế giới (WMO) chia xoáy thuận nhiệt đới thành 4 loại sau:
1. Áp thấp nhiệt đới (Tropical Depression – TD): là các xoáy thấp có gió
mạnh từ 14 m/s đến 17 m/s.
2. Bão (Tropical Storm – TS ) có gió mạnh từ 17 m/s đến 24 m/s.
3. Bão vừa (Severe Tropical Storm - STS): có gió mạnh từ 25 m/s-32 m/s.
4. Bão mạnh (Typhoon ; Hurricane): có gió mạnh trên 32 m/s.
Cách đặt tên cho từng cơn bão, theo tổ chức khí tượng thế giới (WMO) thì
từ năm 1960 một bảng danh sách gồm 84 cơn bão định sẵn cho 4 năm (mỗi năm
21 tên) theo vần chữ cái
đầu tên của phụ nữ khá đẹp và thông dụng ở phương
Tây (Bảng chữ cái tiếng Anh- trừ mấy vần Q,U,X,Y,Z). Đến năm 1979, theo
yêu cầu của Liên đoàn phụ nữ Thế giới, bảng danh sách trên được lập lại cũng
gồm 84 tên song không phải hoàn toàn tên của phụ nữ mà xen kẽ tên của một
phụ nữ, một tên nam giới.
Từ năm 2000, được sự đồng ý của Tổ chức Khí t
ượng thế giới, các quốc
gia và vùng lãnh thổ ở Tây Thái Bình Dương gồm 14 quốc gia và vùng lãnh thổ
được lập một bảng tên bão riêng gồm 140 tên bão (mỗi quốc gia được chọn 10
tên bão). Các tên bão có thể là các danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử , các địa
danh tiêu biểu, các anh hùng dân tộc, các vị thần thánh, các động thực vật quý
hiếm.v.v. (bảng 2.1).

Ngoài ra, ở khu vực Tây Thái Bình Dương, các quốc gia còn dùng số hiệu
để biểu thị các cơn bão xuất hiện hàng năm trong khu vực. S
ố hiệu bão gồm 4 chữ
số bao gồm hai nhóm: hai số đầu là hai số cuối của năm, hai số sau chỉ số thứ tự
xuất hiện các cơn bão. Ví dụ: cơn báo số 0706 là cơn bão thứ 6 của năm 2007.
Ở nước ta, trước đây gọi theo chữ cái Việt Nam theo thứ tự A, B, C…
nhưng từ năm 1964 đến nay, tên các cơn bão gọi theo thứ tự lần lượt xuất hiện
trong n
ăm trên khu vực biển Đông: 1, 2, 3… hiện nay ngoài cách biểu thị số thứ
tự còn kèm theo tên bão ở khu vực tây Thái Bình Dương.
Bảng 2.1. Bảng tên bão khu vực Tây Thái Bình Dương
Tên các
thành viên
Tên bão
I II III IV V
CamPuChia
Dam rey Kongrey Nakri Krovanh Sarika
Trung Quốc
Longwang Yutu Fengshen Dujuan Haima
CHDCND
Triều Tiên
Kiroji Toraji Kalmaegi Maemi Meari
Hồng Kông
Kai tak Manyi Fungwong Choiwan Maon
Nhật Bản
Ten bin Usagi Kanmuri Koppu Tokage
Lào
Boloven Pabuk Phantone Ketsana Nokten

56

Macao
Chan chu Wutip Vongfong Parma Muita
Malayxia
Jelawat Sepat Rusa Melor Merbok
Micronexia
Ewinlar Fitow Sinlaku Nepartak Nanmaldol
Philippines
Bilis Danas Hagupit Lupit Talas
Hàn Quốc
Gaemi Nari Changmi Sudal Noru
Thái Lan
Prapiron Vipa Magkhla Nida Klarb
Mỹ (USA)
Maria Francisco Higos Omais Roke
Việt Nam Sao Mai Lêkima Ba Vì Côn Sơn Sơn Ca
CamPuChia
Bopha Krosa Maysak Chanthu Nesat
Trung Quốc
Wukong Haiyan Haishen Dianmu Haitang
CHDCND
Triều Tiên
Sonamu Podun Pongsona Mindule Nalgae
Hồng Kông
Shanshan Lingling Yanyan Tingting Banban
Nhật Bản
Yagi Kaziki Kuzira Kompasu Washi
Lào
Xangsane Fasai Chanhom Namthen Matsa
Macao
Benbica Vamei Limfa Malou Sanvu

Malayxia
Rumbia Tapah Nangka Meranti Mawa
Micronexia
Soulik Mitag Soudelor Rananin Guchol
Philippines
Cimaron Hagibis Imbudo Malakas Talim
Hàn Quốc
Chebi Neoguri Koni Megi Nabi
Thái Lan
Durian Ramasoon Hanuman Chaba Khanun
Mỹ (USA)
Utor Chatan Etau Kodo Vicente
Việt Nam Trà Mi Hạ Long Vàm Cỏ Sông Đà Saola
b, Điều kiện hình thành bão
Như trên đã nêu, bão là vùng xoáy thuận nhiệt đới mạnh tạo thành bởi
một trung tâm thấp áp sâu và gây ra vùng gió xoáy rất mãnh liệt. Vì vậy, điều
kiện hình thành bão thực chất là để tạo thành một áp thấp phát triển mạnh cả về
cường độ và quy mô không gian.
Việc giải thích sự hình thành của bão nhiệt đới từ trước đến nay đã có nhiều
người nghiên cứu trên cơ sở các h
ọc thuyết chuyên sâu về một số lĩnh vực trong
nhiễu động của khí quyển như: Thuyết sóng trên front, Thuyết sóng Đông hay
thuyết đối lưu. Các học thuyết đều đưa ra những cơ sở để giải thích sự hành thành
bão có nhiều điểm thống nhất với nhau, song cũng có vấn đề mâu thuẫn nhau. Do
vậy, có thể nói thuyết hình thành bão chưa hoàn chỉnh, bởi lẽ bão hình thành một
cách bất thường trên nh
ững vùng xa xôi của đại dương và với một sức mạnh ghê
gớm nên việc nghiên cứu, thu thập số liệu để “ mổ xẻ” bão bị hạn chế và vì vậy,
chúng ta chưa hiểu thật đầy đủ về bão. Tuy vậy các nhà khí tượng cũng thống nhất


57
một số điều kiện hình thành bão như sau:
- Ở vùng biển nóng (xích đạo và cận xích đạo) do không khí và bề mặt
biển có nhiệt độ cao, hơi nước bốc hơi nhiều, lại ở vào vùng gió yếu tạo điều
kiện cho không khí nóng ẩm bốc lên cao.
Với lượng hơi nước dồi dào, quá trình đi lên của không khí liên tục phát
triển nhờ lượng nhiệt tỏa ra do sự ngưng kết. Từ
đó tạo thành một vùng thấp áp,
không khí từ các khu vực xung quanh sẽ tràn tới bù vào chỗ trống do không khí
bay lên tạo thành các dòng khí.
- Có sự hội tụ (giao nhau) của hai khối không khí nóng lạnh từ hai phía
tạo nên một hoàn lưu xoáy thuận.
- Để duy trì hoàn lưu xoáy, cần phải có sự tác động của lực làm lệch
hướng Koriolis (như trong chương 1 đã phân tích lực Koriolis phụ thuộc vào vĩ
độ), vì vậy vùng xoáy phải được hình thành ở khu vực vĩ độ
địa lý ϕ đủ lớn để
lực Koriolis có tác dụng làm lệch hướng gió để duy trì xoáy.
Tóm lại, từ các điều kiện trên, ta có thể nói rằng, bão thường hình thành
trên vùng biển nóng với nhiệt độ nước biển tầng mặt phải cao, trung bình từ 26
0

÷ 27
0
C trở lên và trong khoảng vĩ độ từ 5
0
N,S đến 20
0
N,S cùng với sự tác động
của một nhiễu động hội tụ của hai đới gió.
Như đã phân tích ở trên, với các điều kiện đó, một cơn bão có thể hình

thành song có thể nói thêm rằng có một số cơn bão hình thành không chỉ gồm
các điều kiện trên nên việc nghiên cứu về bão vẫn đang tiếp tục.
c, Các khu vực hình thành bão và thời gian có bão
Theo các số liệu thống kê, có 5 “ổ bão” trên thế giới hình thành
ở các đại
dương và biển như sau:
- Bão Tây Thái Bình Dương, chủ yếu hình thành ở phía Đông quần đảo
Philíppin từ 5
0
đến 20
0
vĩ Bắc, 125
0
đến 170
0
kinh Đông và một số bão hình
thành trên biển Đông trong vùng từ 7
0
đến 20
0
vĩ Bắc, 112
0
đến 121
0
kinh Đông.
(khu vực 1). Tại đây, bão hầu như hình thành trong cả năm, song tập trung chủ
yếu từ tháng 6 đến tháng 11.
- Khu vực Nam Thái Bình Dương bão hình thành ở phía Bắc và phía
Đông Oxtraylia (khu vực 2), thời gian tập trung từ tháng 1 đến tháng 4.
- Trên Ấn Độ Dương tại vùng biển Hồng Hải, vịnh Ôman, vịnh Bengan

(khu vực 3), gần đảo Madagatska ở bờ biển đông Nam châu Phi (khu vực 4). Tại
đây bão thường hoạt động từ tháng 6 đến tháng 11.
- B
ắc Đại Tây Dương tại vùng biển Caribe, quần đảo Ăngti và vịnh
Mecxich, bão thường hình thành từ tháng 6 đến tháng 11 (khu vực 5).


58
2.6.2. Cấu trúc của bão
a, Cấu trúc nằm ngang
Bão nhiệt đới có cấu trúc đối xứng trên mặt phẳng ngang và mặt phẳng
thẳng đứng. Vùng bão trên bản đồ thời tiết (bản đồ Sy nốp) được thể hiện bởi
các đường đẳng áp khép kín dưới dạng những vòng tròn (hay gần tròn) đồng
tâm. Đường đẳng áp ngoài cùng được tính là giới hạn của bão. Khoảng cách từ
tâm bão đến vùng mà ở đó tốc độ gió đạt cấp 6 (14 m/s) được gọ
i là bán kính gió
xoáy của bão. Bão ở Đại Tây Dương có bán kính trung bình 100 ÷ 400km, bão ở
Thái Bình Dương có bán kính xoáy trung bình 200 ÷ 900 km.
Với một cơn bão phát triển mạnh nhất thì khoảng không gian trên bề mặt
nằm ngang của bão có thể phân chia thành 4 vùng tính từ tâm bão trở ra (hình 2.12)
Vùng yên tĩnh (1) được gọi là “mắt bão” là khu vực tâm bão. Kích thước
trung bình trong khoảng 18 ÷ 55 km, ở vùng này, gió rất yếu hay lặng gió, trời ít
hoặc quang mây. Bề rộng trung bình của mắt bão khoảng 30 km. Theo hình
dáng thì ta tưởng tượng quanh mắt bão hình thành một “bức t
ường thành” bằng
những đám mây ngăn cách vùng gió bão và vùng yên tĩnh. Về hình dáng của
mắt bão, nếu trục bão thẳng đứng thì mặt cắt ngang của mắt bão hình tròn, còn
nếu trục nghiêng thì mắt bão có dạng Ô van.
Theo sự nghiên cứu của các nhà khí tượng, vùng mắt bão thường xuất
hiện rõ nét theo sự mạnh lên của cường độ hoàn lưu xoáy trong bão. Người ta có

thể nhận biết vị trí mắt bão trong đĩa mây bão do ảnh vệ tinh chụp được. Thường
thì khi bão m
ạnh cấp 9, cấp 10 sẽ nhìn thấy mắt bão (khoảng trống trong đĩa
mây), cấp 11, 12 mắt bão có hình tròn, sắc nét. Khi bão suy yếu và đi lên vĩ độ
cao, mắt bão phát triển rộng có thể tới trên 70 km và có đường viền mờ, xác xơ.

59

















60
60
0
30
60
90

90
60
30
0
30
60
90
150120906030 0306090120 150
90
150 120 90 60 30 0 30 90 120 15060
Hình 2.11. Các ổ bão và đường đi của bão trên thế giới


60
4
3
2
1





Hình 2.12. Sơ đồ mặt cắt ngang
của một cơn bão
1. Mắt bão (vùng yên tĩnh)
2. Vùng gió bão và mưa cực đại
3. Vùng gió xoáy cấp 6, 7
4. Vùng ngoài cùng của bão.
Về đặc điểm cần chú ý trong mắt

bão hiện tượng lặng gió, quang mây là đặc biệt nhất, ngoài ra qua nghiên cứu
thấy nhiệt độ không khí ở tầng thấp sát bề mặt ít khác biệt với bên ngoài, song ở
độ cao trên 300 mét, nhiệt độ không khí trong mắt bão có thể cao hơn xung
quanh từ 5
0
÷ 10
0
C. Độ ẩm trong mắt bão cũng rất thấp, có lúc giảm so với xung
quanh 40% ÷ 50%. Khí áp ở vùng mắt bão chính là vị trí “đáy phễu” trong biểu
đồ biến thiên khí áp mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở phần sau.
Giải thích về cấu trúc và sự hình thành mắt bão, theo tính chất vật lý,
người ta cho rằng: ở tâm bão, lực gradien khí áp ngang (grad P), lực Koriolis và
lực hướng tâm cân bằng nhau, còn ở xung quanh tâm bão, không khí xoay tròn
theo đường đẳng áp tạo thành bức tường thành bốc lên cao, không để không khí
bên ngoài xuyên vào tâm nên tạo thành vùng mắt bão lặng gió, quang mây. Các
2
3
4
1

61
dòng không khí vào xung quanh vùng tâm xoắn lại và bốc lên cao kéo theo
không khí trong mắt bão lên theo hình thành bức tường mây xung quanh, đồng
thời ở chính tâm của mắt bão hình thành một luồng không khí đi xuống, thường
gọi là dòng bù trừ (hình 2.13).
Mắt bão là một hiện tượng kì thú vì giữa vùng gió xoáy mãnh liệt bao
trùm hàng trăm ki lô mét lại xuất hiện một vùng “yên tĩnh”. Thời gian vùng mắt
bão tồn tại khi bão đi qua kéo dài khoảng 2 giờ. Thông thường trước mắt bão có
gió Tây Bắc và Bắc, sau mắt bão là gió Nam và Đông Nam. Vì vậy, dân gian
th

ường nói “bao giờ gió xong đủ bốn hướng thì hết bão”. Trên bản đồ thời tiết,
mắt bão thường biểu thị bởi dấu hiệu (
) tại vị trí trung tâm của bão.













Hình 2.13. Mô hình mắt bão
Vùng gió bão và mưa cực đại (2) đối với một cơn bão phát triển mạnh cỡ
trên cấp 11 thì vùng gió bão và mưa cực đại (bán kính gió xoáy đạt cấp 10) có
bề rộng tính từ rìa mắt bão trong khoảng từ 50 đến 150 km. Trong đó gió giật dữ
dội và mưa rất to ở sát mắt bão trong phạm vi rộng từ 30 đến 40 km, sau đó
cường độ vẫn m
ạnh và giảm dần khi cách tâm khoảng 150 km. Sức gió cực đại
ở vùng gần tâm có thể vượt quá 50 m/s, lượng mưa trên 500 mm. Có cơn bão
như ở Đài Loan đạt tới 1300 mm trong một ngày đêm và ở Philippin đạt 2200
mm trong hai ngày đêm. Lượng mưa thường tập trung ở nửa phía sau của cơn
bão nên khi tâm bão đi qua thường có mưa dữ dội và kéo dài.
Vùng gió xoáy cấp 6, cấp 7 (vùng 3), vùng này thường cách trung tâm bão
150 đến 200 km, gió suy giảm dần xuống cấp 7, cấp 8, ít giật hơn và t
ốc độ

trung bình là cấp 6. Lượng mưa giảm đáng kể và đổ từng cơn gián đoạn với
lượng mưa 5 ÷ 10 mm/h.
Dòn
g
khôn
g
khí
phía trên
Mắt bão
Dòn
g
khôn
g
khí
đi xuống
Các dải mây
mưa xoán ốc

62
Vùng ngoài cùng của bão (vùng 4) vẫn giữ được hoàn lưu của xoáy thuận,
song gió suy giảm xuống cấp 4, cấp 5, lượng mưa không đáng kể, thỉnh thoảng
có mưa rào nhẹ.
b, Cấu trúc thẳng đứng
Theo các số liệu khảo sát gần đây bằng máy bay và phân tích qua ảnh mây
vệ tinh, xác định bão có thể ảnh hưởng lan đến tầng đối lưu, đến độ cao 15 đến
18 km (Hình 2.14).

Hình 2.14. Sơ đồ hoàn lưu thẳng đứng trong bão nhiệt đới,
đường nét đậm là ranh giới của bão
Tuy nhiên vùng xoáy thẳng đứng càng lên cao càng thu hẹp, nếu ở mặt đất,

hoàn lưu xoáy có bán kính tới 900 km thì ở độ cao 5,5 km chỉ còn 400 ÷ 600 km; ở
độ cao 9 km còn 200 ÷ 400 km và ở độ cao 13,5 km còn khoảng 100 ÷ 200 km.
2.6.3. Một số đặc điểm của bão ở tây Thái Bình Dương
a, Khu vực hình thành bão
Xét về không gian rộng lớn, bão Tây Thái Bình Dương được hình thành
chủ yế
u trong khu vực từ 5
0
- 25
0
vĩ độ Bắc và từ 111
0
– 170
0
kinh độ Đông.
Tuy nhiên, qua khảo sát 497 cơn bão và 93 ATNĐ trong 18 năm (từ 1980 đến
1997), các nhà khí tượng đã chỉ ra một cách cụ thể hơn các khu vực tập trung
hình thành bão căn cứ vào vĩ độ, được thể hiện vào bảng 2.2.
b, Thời gian hình thành
Nếu xét sự hình thành của bão Tây Thái Bình Dương thì hầu như quanh
năm có bão và ATNĐ, tuy nhiên thời gian tập trung chủ yếu từ tháng 6 đến
tháng 11, trong đó nhiều nhất là tháng 8 và tháng 9.
Kết quả nghiên cứu 18 n
ăm về 590 cơn bão và ATNĐ ở khu vực này cho
ta biết thời gian và khu vực hình thành cụ thể theo bảng 2.3 dưới đây. Qua bảng
2.3, ta nhận thấy rằng vào đầu và cuối năm, bão thường hình thành ở vùng vĩ độ

63
thấp, giữa mùa hình thành ở vùng vĩ độ cao hơn.
Bảng 2.2. Khu vực hình thành bão ở Tây Thái Bình Dương theo vĩ độ

VĨ ĐỘ BẮC SỐ CƠN BÃO HÌNH THÀNH TỶ LỆ %
3
0
- 4
0

5
0
- 10
0

>10
0
- 20
0

>20
0

7
128
373
82
1,2
21,8
63,3
13,7
CỘNG 590 100%
Bảng 2.3. Thời gian và khu vực hình thành bão ở Tây Thái Bình Dương
Tháng Số cơn bão và áp

thấp nhiệt đới
Khu vực hình thành
Vĩ độ (N) Kinh độ (E)
1 – 4
5
6
7
8
9
10
11
12
35
24
52
89
120
100
83
58
29
3
0
– 11
0

7
0
– 15
0


8
0
– 19
0

9
0
– 26
0

9
0
– 28
0

11
0
– 25
0

6
0
– 12
0

6
0
– 15
0


5
0
– 12
0

131
0
– 176
0

114
0
– 157
0

111
0
– 142
0

125
0
– 159
0

117
0
– 178
0


113
0
– 175
0

114
0
– 157
0

110
0
– 160
0

130
0
– 170
0

c, Cường độ bão Tây Thái Bình Dương
Việc xác định cường độ bão được lấy bởi tốc độ gió cực đại trong mỗi
cơn bão. Cường độ bão với số liệu thống kê thể hiện ở bảng 2.4 dưới đây.
Bảng 2.4. Phân bố cường độ bão Tây Thái Bình Dương
Sức gió mạnh nhất Số cơn bão Tỉ lệ %
8 – 9
10 – 11
12
13

14
15
16
17
>17
134
89
44
67
39
45
49
21
9
26,9
17,9
8,9
13,5
7,9
9,1
9,8
4,2
1,8
497 100%

64
Qua số liệu thống kê trên, ta thấy số cơn bão từ cấp 12 trở lên chiếm tới
trên 55% tổng số cơn bão và đặc biệt có 30 cơn bão cực mạnh và có sức gió từ
cấp 17 trở lên (tức trên 202 km/h). Vì vậy, có thể nói bão Tây Thái Bình Dương
có cường độ mạnh hơn cả so với các khu vực khác.

d, Hướng và tốc độ di chuyển của bão
Bão là một trung tâm xoáy có kích thước khá lớn, song vùng xoáy này so
với qui mô hoàn lưu khí quyển có thể ví nh
ư một xoáy nước di chuyển trong
một dòng sông, dòng chảy hoàn lưu qui mô lớn trên toàn cầu. Cụ thể, bão
thường tuân theo quĩ đạo của dòng dẫn đường có chiều xoáy hoàn lưu của các
xoáy nghịch ngoại nhiệt đới. Ở Bắc bán cầu theo chiều kim đồng hồ, ở Nam bán
cầu ngược chiều kim đồng hồ. Vậy, quĩ đạo hoàn chỉnh về lý thuyết của các cơn
bão ở mỗi bán cầu di chuyển theo qu
ĩ đạo Parabol nằm ngang có đỉnh quay ở
phíaTây và hình thành hai nhánh (hình 2.15).
Nếu xét ở Bắc bán cầu, quĩ đạo gồm nhánh I và nhánh II. Ở nhánh I, sau
khi hình thành, bão di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc với vận tốc chậm (từ 10
đến 25 km/h) và hướng đi dao động. Khi đến gần điểm uốn, bão đi chậm lại,
lệch Bắc và chuyển sang Đông Bắc, vận tốc tăng nhanh, có thể đạt 35 km/h,
thậm chí có thể đến 90 km/h. Qũi đạo này phù h
ợp với các cơn bão ở Tây Thái
Bình Dương chiếm 60 % đến 70% số cơn bão trong cả năm và phù hợp với dạng
ở hình 2.16g trong các dạng di chuyển của bão ở Tây Thái Bình Dương.

Hình 2.15. Quĩ đạo trung bình hoàn chỉnh của bão Tây Thái Bình Dương

65
Dạng thứ hai bao gồm các cơn bão di chuyển theo hướng từ Đông sang
Tây hay từ Đông Nam lên Tây Bắc nhưng trong quá trình di chuyển có xu
hướng lệch Bắc (hình 2.16: a, b, c, e). Đây là những cơn bão phổ biến đổ bộ vào
Việt Nam và Nam Trung Quốc.
Dạng thứ ba bao gồm những cơn bão có đường đi phức tạp, thường di
chuyển theo kiểu hình vòng, móc câu, dích dắc, vòng đi vòng lại nhiều lần trên
biển như ở hình 2.16: k, l, m, n, đi

ển hình cho dạng này là cơn bão Wayne mang
số hiệu khu vực 8614 (cơn bão số 5 năm 1986 của Việt Nam) hình thành trên
biển Đông vào giữa tháng 8 năm 1986 và sau 22 ngày đêm trên biển đã đổ bộ
vào vùng biển Nam Định, Thái Bình đêm 5 rạng sáng 6 tháng 9 năm 1986.

Hình 2.16. Các kiểu di chuyển của bão Tây Thái Bình Dương
e, Thời gian “sống” của bão
Thời gian “sống“ của bão là khoảng thời gian từ lúc bão hình thành đến
khi bão tan hoặc di chuyển lên vùng vĩ độ cao trở thành xoáy thuận ngo
ại nhiệt
đới. Thời gian “sống” của bão được chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: bão hình thành, xuất hiện trong vùng hạ áp, sau đó hình
thành hoàn lưu xoáy thuận với khí áp ở tâm giảm xuống 1000 mb và trở thành
áp thấp nhiệt đới. Sức gió mạnh nhất đạt đến cấp 6, cấp 7 và chiều cao vùng gió
xoáy tới 1,5 đến 3 km (giai đoạn TD).
Giai đoạn 2: bão phát triển và trưởng thành (TS).
Giai đoạn này gọi là “Bão non”, là giai đoạn khí áp giảm nhanh, tố
c độ
gió tăng nhanh, phạm vi gió mạnh phát triển đến vùng có bán kính 40 đến 50
km, hình thành đĩa mây dày đặc và hoàn lưu gió xoáy có thể đạt 5 ÷ 9 km.
b c d
i
h

g

l m
n
a
e

k

66
Giai đoạn 3: giai đoạn phát triển cao nhất của bão (Typhoon), khí áp giảm
xuống ở mức độ thấp nhất và không còn giảm xuống nữa. Gió bão tăng cực đại
và giữ ở mức ổn định. Vùng gió mạnh và mưa cực đại được mở rộng và phát
triển sang vùng bên phải theo hướng di chuyển của bão. Độ cao hoàn lưu bão có
thể lan tới 15 đến 17 km.
Giai đoạn 4 – bão tan hay trở thành xoáy thuận ngoạ
i nhiệt đới (bão ôn
đới). Khi bão đổ bộ vào đất liền, do mất năng lượng nên suy yếu cả về cường độ
và phạm vi thì bão tan hoặc do di chuyển lên vùng vĩ độ cao, tính chất bão
chuyển sang xoáy thuận ngoại nhiệt đới.
Tổng kết số liệu về thời gian “sống” của bão nhiệt đới được thống kê qua
số liệu nghiên cứu 18 năm gồm 497 cơn bão, thời kì 1980 – 1997 được trình bày
ở bảng 2.5 d
ưới đây.
Qua bảng 2.5 ta thấy hầu hết các cơn bão có thời gian sống từ 3 đến 9
ngày (369 cơn chiếm 74,2%). Số cơn có thời gian sống trên 9 ngày (99 cơn –
gần 20%), các cơn có số ngày sống từ 1 đến 2 ngày và trên 20 ngày chiếm tỉ lệ
không đáng kể, song đây là những cơn bão “chết yểu” hoặc “sống dai” rất phức
tạp cho công tác theo dõi, dự báo.
Bảng 2.5. Thời gian sống của bão
Thời gian số
ng (ngày) Số cơn bão Tỷ lệ %
1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
11
12
13
14
16
18
22
7
22
44
50
48
76
50
65
36
27
28
13
12
12
5
1
1
1,4

4,4
8,8
10,1
9,6
15,2
10,1
13,1
7,2
5,4
2,6
2,4
2,4
1,0




×