Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển kinh tế mới ở hai mặt tiêu cực và tích cực của nó - 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.67 KB, 26 trang )

A. mở đầu
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình
đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ
thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và
có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên
thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà
còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận
dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới
sử dụng mô hình kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Và có những thành
tựu mà chúng ta đã đạt được cũng như có những khó khăn, những vấn đề gặp phải
cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới. Điều
này rất đáng được quan tâm.
Và hiện nay, chúng ta cần hiểu rõ về tình hình kinh tế nước ta và tình hình kinh tế
của thế giới. Nhất là đối với sinh viên khi nghiên cứu về kinh tế thì đề tài này giúp
cho chúng ta trả lời được những câu hỏi: "Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có
được tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều sản
phẩm vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường ?",
"Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia?", "Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế
nào?", "Kinh tế thị trường bao gồm những nhân tố nào cấu thành nên và hoạt động
của nó ra sao?", "Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình
hoạt động của nó diễn ra như thế nào?", "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường
của các nước khác trên thế giới?", "Cách thức mà chúng ta sử dụng kinh tế thị
trường trong việc phát triển kinh tế?"…
Hàng loạt những câu hỏi này sẽ luôn xuất hiện khi chúng ta nghiên cứu về kinh tế.
Đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được thêm về bản chất, tính chất cũng như
nguồn gốc hình thành của nền kinh tế . Ngoài ra còn giúp cho chúng ta biết thêm
được về thực tế, những nhân tố, những quy luật nào tác động đến kinh tế thị
trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta trong quá trình
học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức, tích luỹ được của bản thân. Từ đó giúp


cho chúng ta có được cái nhìn tổng quát hơn, thực tế hơn và nó dần hình thành cho
chúng ta một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội xẩy ra
hiện nay.
b. nội dung
I. những vấn đề lý luận chung về nền kinh tế thị trường
I.1. Khái niệm kinh tế thị trường là gì?
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường(
người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì
nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ kinh
tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào
việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan
hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá, các
yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức
lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là
đối tượng mua bán, là hàng hóa
Ngoài ra khi nói về khái niệm về kinh tế thị trường thì chúng ta còn có thêm hai
quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về "kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa" do hội đồng lý luận trung ưng tổ chức:
Một là, xem "Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường
hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân phối các nguồn lực
chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ
chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế -
xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo
quan điểm này, kinh tế thị trường là vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử
dụng cũng được
Hai là, xem "Kinh tế thị trường " là một loại kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm

dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù
hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các
chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị
trường không chỉ phải cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những
giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người
này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp, giai cấp khác
Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại (phương thức
hoạt động) của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện
thông qua quan hệ hàng hoá - thị trường (tức là mọi vấn đề của sản xuất và tiêu
dùng đều được thông qua việc mua bán trên thị trường). Kinh tế thị trường là trình
độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự
nhiên - là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi.
I.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường
Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình xã
hội hoá sản xuất thông qua các quá trình sau:
I.2.1. Tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên
môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau
Do có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài
thứ sản phẩm. Song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau, để thỏa mãn
nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau
Tổ chức xã hội hoá của sản xuất thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội, nên
sản phẩm của người này trở nên cần thiết cho người khác, cầu cho xã hội
Phân công xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng
tăng, mối quan hệ giữa các ngành,các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó xoá bỏ tính
tự túc, tự cấp, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản
xuất và lao động
Sự phân công lao động diễn ra trong nội bộ ngành; trong các ngành với nhau
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, mối liên hệ giữa các phân

xưởng, giữa các công đoạn trong nội bộ xí nghiệp ngày càng mật thiết, tinh vi
hơn; hàng vạn công nhân, công trình sư, các nhà khoa học phải hiệp đồng thống
nhất, cùng nhau nỗ lực mới làm cho hoạt động sản xuất tiến hành trôi chảy được,
phạm vi phân công hợp tác đã vượt xa quá trình gia công trực tiếp đối tượng lao
động, và trở thành quá trình toàn bộ bao gồm nghiên cứu khoa học phát minh sáng
chế, thiết kế lập chương trình, tự động điều khiển, sử lý thông tin, chế tạo, bảo
dưỡng thiết bị….Đồng thời tình hình đòi hỏi ngày càng nhiều những xí nghiệp
khác nhau cung cấp máy móc thiết bị, linh kiện, nguyên liệu, còn sản phẩm sản
xuất ra phải chuyển nhanh ngay đến những thị trường có lợi ngày càng xa hơn.
Điều đó cho thấy tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì sản xuất tư bản chủ nghĩa
ngày càng xã hội hoá
Cách mạng khoa học - công nghệ sau chiến tranh đã đẩy quá trình phân công xã
hội tư bản và chuyên môn hoá lên đến trình độ sâu rộng chưa từng thấy. Hình
thành sự phân công giữa các bộ phận lấy thành quả khoa học làm cơ sở, làm cho
chuyên môn hoá sản phẩm ngày càng sâu sắc, hình thành chuyên môn hoá linh
kiện, chuyên môn hoá công nghệ, chuyên môn hoá kỹ thuật, bảo dưỡng thiết bị và
hậu cần sản xuất. Liên hệ kinh tế giữa các xí nghiệp ngày càng mật thiết, làm tăng
cường tính phụ thuộc lẫn nhau, quá trình sản xuất của xí nghiệp cá biệt hoàn toàn
dung hợp thành một quá trình sản xuất thống nhất
Chuyên môn hoá ngày càng phát triển thì quan hệ hợp tác giữa các xí nghiệp, các
khu vực ngày càng mật thiết, hiệp tác trao đổi thương phẩm trên thị trường phát
triển thành quan hệ hiệp tác ngày càng bền vững
Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất trên thế giới cũng mở
rộng nhanh. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, các nước ngày càng liên hệ chặt
chẽ với nhau, lệ thuộc vào nhau, sự giao lưu tư bản, trao đổi mậu dịch ngày càng
phong phú.
I.2.2. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của sự chiếm hữu
Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của
lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng, xuất hiện tư

hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở
hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích
của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu của nhà
nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân thể hiện ở tư bản tư hữu lớn, tư hữu nhỏ.
Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi.
Đồng thời, nhằm thoả m•n nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất
lực, yếu kém của chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn
hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua
bán cổ phiếu
Sở hữu nhà nước: là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân dân sở
hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải
của đất nước. Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà nước là chủ sở hữu, còn quyền sử
dụng giao cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân để phát triển một cách
hiệu quả nhất
Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự
nguyện tham gia. Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể các hợp tác xã trong
nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải,…. ở các nhóm, tổ, đội và các công
ty cổ phần
Sở hữu hỗn hợp: là hình thức phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thời kì quá độ.
Mỗi chủ thể có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế, khi thấy có lợi
Sở hữu tư nhân của sản xuất nhỏ: là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản thân người
lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá thể, thợ thủ công, tiểu thương.
Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. ở quy mô và phạm vi rộng hơn
là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động
Sở hữu tư nhân tư bản: là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh
vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế
I.2.3. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ làm
xuất hiện các thị trường mới
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn

ra vào nửa sau của thế kỉ XVIII. Cuộc cách mạng làm xuất hiện công cụ máy móc
để thaythế công cụ thủ công. Đại công nghiệp máy móc đa dẫn đến sự biến đổi to
lớn trong cơ cấu ngành nghề thúc đẩy sự phát triển to lớn của lực lượng sản xuất
xã hội cũng như nền chính trị xã hội đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản
trên phạm vi thế giới
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai nổ ra vào nửa sau thế kỉ XIX. Cuộc
cách mạng lần này có tiêu chí chủ yếu là vận dụng rộng rãi sức điện và sự phát
minh ra động cơ đốt trong, khiến cho loài người bước vào thời đại điện khí hoá.
Mở ra con đường tự động hoá sản xuất. Cuộc cách mạng đẩy quá trình xã hội hoá
sản xuất của các nước tư bản chủ nghĩa lên trình độ cao hơn, quan hệ kinh tế quốc
tế mở rộng nhanh chóng
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba nổ ra sau chiến tranh thế giới II.
Tiêu chí chủ yếu của cuộc cách mạng nàylà sự phát triển và áp dụng rộng rãi kỹ
thuật nguyên tử và điện tử. Khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, mở đầu thời đại tự động hoá toàn bộ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy sự xã hội hàng loạt ngành nghề
mới và làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo. Cuộc cách mạng làm cho cơ
cấu ngành nghề của các nước có sự thay đổi lớn. Trong thời kì kinh tế tăng trưởng
nhanh sau chiến tranh, công nghiệp hoá dầu là tổ hợp ngành nghề mới, có tác
dụng quan trọng. Ngày nay những ngành nghề mới xuất hiện nhờ có sự phát triển
sâu sắc của cách mạng khoa học - công nghệ đã không chỉ có một hai ngành mà
xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp
quang học, công nghiệp nguyên tử, công nghiệp sinh vật, công nghiệp chế biến,
công nghiệp tầu vũ trụ… phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hiện các tổ hợp ngành
nghề mới, các ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà được cải tạo một cách triệt để.
Việc sử dụng rộng rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi nước, sự phát triển
rộng rãi của lò luyện thép điện và đúc gang thép liên hoàn, sự tăng vọt của hệ
thống máy công cụ điều khiển và người máy công nghiệp… .Tất cả những cái đó
khiến cho các ngành công nghiệp cũ như: dệt, xe lửa, gang thép, máy công cụ…
đều đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ

giúp cho các ngành nghề mới và các ngành nghề cũ ngày càng kết hợp chặt chẽ
với nhau. Các ngành mới lấy công nghiệp truyền thống làm chỗ dựa và thị trường
chủ yếu cho sự phát triển của mình, các ngành cũ thì dựa vào các ngành cải tạo kỹ
thuật mà tăng thêm sức mạnh mới
Mặt khác cách mạng khoa học - công nghệ còn tạo ra một loạt thị trường mới như:
thị trường công nghệ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính tiền
tệ…Tất cả những thị trường này đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, và sự phát
triển của chúng đều phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học - công nghệ
I.2.4. Sự phát triển phân công và trao đổi ở phạm vi quốc tế
Do phân công lao động nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm
nhất định. Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi người cần có nhiều loại sản
phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ
thuộc vào nhau. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được
mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá
Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho
họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất này muốn
sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động
cho nhau
Từ 1980 đến nay, xu hướng toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn nhiều nước
ở khắp các châu lục trên thế giới vào thị trường quốc tế. Đặc trưng của hiện tượng
này là sự chuyển động nguồn tư bản quốc tế khổng lồ, sự hình thành các công ty
xuyên quốc gia và làn sóng người di cư. Sự tác động của toàn cầu hoá sẽ tạo điều
kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội, tư pháp hoạt động mang tính khu vực và
quốc tế ra đời
Khi cách mạng công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ tạo điều
kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời thúc đẩy các ngành, lĩnh vực kinh tế
và hệ thống giao thông vận tải phát triển đồng bộ. Sự phát triển đó phá vỡ tính tự
cấp,tự túc, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không chỉ trong phạm
vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này nhu cầu
tiêu dùng của dân cư không chỉ được đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng

quốc gia riêng lẻ, mà còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực
Sự phân bố không đều về tài nguyên, khí hậu và môi trường dẫn đến sự khác nhau
về trình độ phát triển, thu nhập, mức sống vật chất và tinh thần. Đây là nguyên
nhân của những làn sóng di dân từ vùng có mật độ dân số cao, điều kiện kiếm việc
làm khó khăn, thu nhập thấp, đời sống khó khăn đến nơi có dân cư thưa thớt, dễ
kiếm việc làm, thu nhập cao, môi trường sống tốt hơn. Điều đó diễn ra thường
xuyên trong quá trình phát triển của xã hội loài người
Mặt khác con người phải tìm các biện pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài
nguyên bằng cách giao thương, trao đổi, mua bán hàng hoá tiêu dùng và các loại
tài nguyên khoáng sản nhằm khai thác nguồn lực dư thừa của các nước để khắc
phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt nguồn lực của nước mình. Những yếu tố này
tạo nên xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Bởi vì trên thế giới không có một quốc gia nào có đầy đủ các yếu tố
nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững
Như vậy toàn cầu hoá kinh tế nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm và phân bố tài
nguyên không đều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao và số
lượng dân cư ngày một nhiều. Nhưng nhiệm vụ đó chỉ được diễn ra khi mà khoa
học - công nghệ và lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao
Do thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin và tự động
hoá ở trình độ cao, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện hình
thành các công ty xuyên quốc gia và xu hướng sáp nhập các công ty nhỏ thành các
công ty có quy mô khổng lồ để tăng khả năng cạnh tranh, nhằm độc chiếm vai trò
chi phối thị trường quốc tế và khu vực đang ngày một tăng nhanh
I.3. Các bước phát triển của kinh tế thị trường
I.3.1. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn
Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các phương thức sản xuất tiền tư
bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự
nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế
thuần nhất hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản
phẩm cuối cùng

Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp
là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động
chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội
mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến,
phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số
ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử
dụng, có tính chất tự cung, tự cấp
Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn.
điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xa hội.
Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của phân
công xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng biệt, mà việc
sản xuất từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế biến sản phẩm thành
những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp
khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại và phân loại nhỏ.
Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản phẩm riêng biệt và đem
trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất khác. Chính sự phát triển
ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân tố chủ yếu dẫn đến hình
thành thị trường trong nước. Hình thành nên những khu vực nhà nước chuyên
môn hoá và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm với sản phẩm công
nghệ, mà cả giữa các sản phẩm nhà nước với nhau
Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm công
nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nông
thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển
Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều kiện tự nhiên khác
nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản phẩm khác nhau có hiệu
quả hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có
những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản
xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu thế, đem sản phẩm của
mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm cần thiết cho sản xuất và đời sống
của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đổi, mua bán, thị

trường, tiền tệ ra đời và phát triển
Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ, giản đơn,
nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại
I.3.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ điển
Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điển được thực
hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan hệ sản xuất
mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất
Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, với quy mô
lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai
đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng vẫn
còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên phải tập
trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập trung hiệp tác lao
động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự
nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến mục đích chung. Với sản xuất quy
mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu và buôn bán hàng
hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng
hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã hội. Hiệp tác giản
đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất
lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về
mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa:
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có
phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công trường
thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên
cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập hợp
những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng nghề vào trong một
xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá
Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất
được phân chia thành những giai đoạn, những công việc bộ phận để có sản phẩm

hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận.
Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp.
Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân phối sản xuất theo
kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ
cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử dụng
công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể
Đại công nghiệp cơ khí:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể
được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá trình
phát triển, chủ nghĩa tư bản tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy
móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại
công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc
cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc cơ khí hoá ở một ngành dẫn đến việc
thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá trong các
ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên quan. Cơ
khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ngành giao
thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công
nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng suất lao
động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng cao, mở rộng thị
trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn;
đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật
I.3.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp
Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:
Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi
trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng
sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào
Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp,
lạm phát và suy thoái
Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực xã

hội
Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế
hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường. Trong cơ chế
thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền kinh tế,
gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội.
Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược điểm trên
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế
thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà nước không
can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933).
Vì vậy xã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước phải can thiệp
kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong đó có
sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can
thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đều tác động vào nền
kinh tế
Nhà nước có chức năng:
Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo
môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển
Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường
Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng,
năng lượng, cầu nhiều vốn….
Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội
Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất
I.4. Các nhân tố của cơ chế thị trường
Một nền kinh tế muốn vận hành được thì trước tiên phải dựa vào cơ chế thị trường
có nghĩa là phải dựa vào bộ máy tự động của cả cung, cầu, giá cả hàng hoá, với
môi trường cạnh tranh, động lực là lợi nhuận. Các bộ phận hợp thành cơ chế thị
trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, như là những khâu trong guồng
máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh
hồn là sức mạnh của thị trường

I.4.1. Cung - cầu hàng hoá:
Cầu hàng hóa: là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có khả năng và
sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong cùng một thời gian
Cung hàng hoá: là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và
sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định
Như vậy để có cầu hàng hoá phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khả năng
mua và mức giá
Để có cung hàng hoá cũng phải có ba điều kiện: mong muốn sản xuất, có khả
năng sản xuất và mức giá
Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả của hàng hoá giảm. Và ngược lại khi cầu lớn hơn
cung thì giá cả của hàng hóa sẽ tăng. Và đến khi cung về hàng hoá nào đó trên thị
trường vừa đúng bằng cầu của hàng hoá thì lúc đó cung - cầu ở trạng thái cân
bằng, xác định mức giá cả là giá cả cân bằng. Song vì cung và cầu luôn biến động
nên cân bằng cung - cầu luôn biến động theo. Giá cả thị trường của hàng hoá là do
tương quan của cung và cầu trên thị trường quyết định. Nhưng đồng thời khi giá
cả biến động thì nó cũng tác động tới việc thu hẹp hay mở rộng quy mô sản xuất.
Những tác động của cung - cầu đối với thị trường:
Quan hệ cung cầu góp phần đính chính giá cả thị trường và lập lại, khôi phục lại
sự cân đối của nền kinh tế
Quan hệ cung - cầu còn trực tiếp làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của người sản
xuất và người tiêu dùng; người bán và người mua
I.4.2. Giá cả
Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về một loại hàng hoá hoặc dịch
vụ nào đó, sự biến động của giá cả sẽ tác động đến người bán và người mua: Cụ
thể khi cầu cao hơn cung thì người bán sẽ tăng giá, điều đó sẽ thúc đẩy cho người
sản xuất mở rộng quy mô để làm tăng cung. Trong trường hợp ngược lại cung lớn
hơn cầu thì người bán phải giảm giá xuống. Khi đó người sản xuất sẽ giảm quy
mô để giảm cung và cuối cùng cân đối giữa quan hệ cung - cầu được tái lập để lập
lại cân bằng mới
Chức năng của giá cả:

Giá cả có chức năng thông tin (nghĩa là các tin tức về giá cả trên thị trường sẽ giúp
cho các đơn vị kinh tế, các cá nhân người lao động đưa ra những quyết định về sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình
Giá cả có chức năng phân bố các nguồn lực: khi giá biến động tăng giảm thì các
nguồn lực của sản xuất sẽ dịch chuyển giữa các ngành
Giá cả có chức năng thúc đẩy đổi mới những tiến bộ kỹ thuật công nghệ. Trong
sản xuất, người ta luôn luôn tìm cách giảm bớt hao phí lao động xã hội cần thiết.
Để từ đó dẫn tới giảm giá thành để thu được lợi nhuận siêu ngạch (là phần giá
người sản xuất thu được nhiều hơn người sản xuất khác nhờ tiến bộ khoa học - kỹ
thuật)
Giá cả có chức năng thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân cũng
như thu nhập cá nhân thông qua chính sách giá cả
Giá cả có chức năng thực hiện việc lưu thông hàng hoá. Khi giá cả biến động thì
sẽ tác động tới hành vi người tiêu dùng và qua đó tác động vào lưu thông hàng hoá
làm thay đổi nhu cầu người tiêu dùng
I.4.3. Cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc tiêu
thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh
tế thị trường
Các chức năng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể điều chỉnh một cách nhanh chóng các hành vi sản xuất tiêu
dùng của xã hội
Cạnh tranh thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật
Cạnh tranh thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng
Cạnh tranh tạo chính sách cho việc phân phối thu nhập ban đầu nghĩa là các doanh
nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì sẽ thu được lợi nhuận hơn đối phương
Các loại cạnh tranh gồm có:
Cạnh tranh trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài
Cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba hướng: giá cả,
chất lượng hàng hoá và thực hiện các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng

Cạnh tranh giữa một bên là những người bán và một bên là những người mua
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Trên thương trường không có chuyện
"đơn phương độc mã" mà là "buôn có bạn, bán có phường"
Cạnh tranh kích thích tính năng động, tính tự chủ của các doanh nghiệp, vì thế nó
làm cho kinh tế thị trường phát triển rất năng động (hoàn toàn khác với nền kinh tế
tự nhiên, nền kinh tế trong thời kì bao cấp)
Cạnh tranh huy động được mọi nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế
Cạnh tranh thúc đẩy được cải tiến kỹ thuật và sử dụng công nghệ mới
Cạnh tranh hiệu quả là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự phân bổ tối ưu các
nguồn lực và hệ quả mà nó mang lại là năng suất tối ưu.Cạnh tranh thúc đẩy các
nguồn lực di chuyển tới nơi nào có hiệu quả nhất bởi người sản xuất muốn sử
dụng chúng để đem lại lợi nhuận càng nhiều, càng tốt
I.4.4. Tiền tệ
Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho
các loại hàng hóa khác. Nó biểu hiện chung của giá trị, nó biểu hiện tính chất xã
hội của lao động và là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá
Chức năng của tiền tệ:
Là thước đo giá trị (đây là chức năng cơ bản của tiền tệ): tiền dùng để đo lường và
biểu hiện giá trị của hàng hoá, mọi hàng hoá đều được biểu hiện giá trị của nó
bằng tiền. Tiền tệ được coi như là sản phẩm của lao động
Là phương tiện lưu thông: tiền là vật môi giới trong quan hệ lưu thông hàng hoá
Là phương tịên cất giữ giá trị: tiền được rút khỏi lĩnh vực lưu thông và mang vào
cất trữ. Khi cần lại đem mua hàng và tiền được xem như một thứ của cải của xã
hội
Là phương tiện thanh toán: tiền được dùng để chi trả sau khi một công việc đã
hoàn thành hoặc dùng để trả nợ
Chức năng tiền tệ thế giới: trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau và tiền
lúc này phải là vàng, bạc, ngoại tệ mạnh…
I.4.5. Lợi nhuận
Trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người kinh

doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất các hàng hoá
mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu vực có ít người tiêu dùng. Lợi
nhuận cũng đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả
nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn
để: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai?
Lợi nhuận chính là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất
phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí
cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi
phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng,
không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình
trên thị trường
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của
quá trình kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ
chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ cho thị
trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh
Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh
I.5. Các quy luật của kinh tế thị trường
I.5.1. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh
tế khác, các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi
Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá cả là tín hiệu nhạy bén
nhất của cơ chế thị trường
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành
trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội cần thiết: Trong sản xuất nó đòi hỏi
người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt

xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết
Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu
cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn
bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một
hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một
loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải
phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội
Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả
xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những
hàng hoá có hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và
ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn
hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì chúng ta luôn
luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị
Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu
thông hàng hóa thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị
trường
I.5.2. Quy luật cung cầu
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra thị trường
để thực hiện (để bán). cung do sản xuất quyết định, nó không đồng nhất với sản
xuất
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu
không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất
kì theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả
năng thanh toán
Cung - Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên
thị trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động
một cách khách quan. Cung - cầu tác động lẫn nhau:
Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất
lượng và chủng loại cung về hàng hoá. những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới

được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát
triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của

Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác
động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau
Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được
chúng thì chúng ta vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo
chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng
quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả,
lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Để tác động
vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, duy trì những tỷ lệ cân đối
cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý
I.5.3. Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và
người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn
nhau với tư cách là một thể thống nhất, một hợp lực. ở đây cá nhân chỉ tác động
với tư cách là một bộ phận, một lực lượng xã hội, là một nguyên tử của một khối.
Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính chất xã hội của sản xuất
và tiêu dùng
Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó mỗi cá nhân đều
hoạt động một cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh với mình và
thường thường là trực tiếp chống lại những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa một người cạnh tranh cá biệt với những người khác lại càng thêm rõ
ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối phương với tư cách
là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất
Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. Mỗi người chỉ quan tâm
đến đồng nghiệp trong chừng mực thấy đi với họ có lợi hơn việc chống lại họ
Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm dứt, mỗi người sẽ tự
lực xoay sở lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế thì mỗi người bên đó đều sẽ được lợi,
tất cả diễn ra như là họ cùng nhau thực hiện độc quyền chung vậy

Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác dụng
san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá cả sản
xuất đều hình thành từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành
Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như một công cụ, phương
tiện gây áp lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, cạnh tranh trong
một cơ chế vận động chứ không phải cạnh tranh nói chung
I.5.4. Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông.
Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc
độ lưu thông tư bản
Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hóa
trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá cả bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán
với tốc độ lưu thông tư bản
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết
định
Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông tiền tệ có
quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ
Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế tiền tệ, quyết
định cơ chế lưu thông tiền tệ
Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế xuất nhập khẩu, cơ
chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng
Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng hoá vận động, san bằng
thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền

×