Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ý nghĩa nghiên cứu học thuyết giá trị M trong triết học và đề xuất áp dụng - 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.74 KB, 17 trang )



Chương I: Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế phong kiến bước vào
thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh
những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ đầu tư bản vào thời kỳ tiền tư
bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước Tây âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến
quy luật kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh
tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự
giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế
hàng hoá thị trường là lợi nhuận.
“Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua
bánhững, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có”.
Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng
hoá và lưu thông tiền tệ. Vì đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ này, các nước tư bản đã đưa ra
các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài, tập
trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài tập trung
buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết hàng hoá mang về nước họ ở giai đoạn
sau họ dùng chính sách xuất siêu để có thêm chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực
hiện mua rẻ bán đắt
Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được lợi ích như trên của các nước tư bản chỉ
mang tính chất bề mặt nông cạn. Chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa
có “chiều sâu” thực chất. Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế.


Đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý. Phải phân tích kinh tế xã hội
với tư cách là một chỉnh thể.
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận.
Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực
lưu thông. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên


cứu lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các
phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường như phạm trù lợi nhuận, địa tô, lợi tức
trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận, nổi bật là quan điểm của Kene, A.D Smith,
Ricacdo.
a. Quan điểm của Kene.
Kene được C. Mac đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển và ông có công lao
to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm tức là
nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. ông đã đưa ra những quan điểm
kinh tế để tiến hành phê phán chủ nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại
chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá cả.
Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không thể đẻ ra tiền
được. Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản chi phí về
thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong việc sản xuất nông nghiệp. Chính quan điểm
này đã chuyển việc nghiên cứu của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.
Ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm thặng dư. ông cho rằng sản phẩm thặng dư chỉ
được tạo ra sản xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ có được sự giúp đỡ của tự nhiên.


Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn
gốc của giá trị thặng dư. ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số
chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra.
Với Petty lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và petty cho rằng phần lợi
nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý. Đó là công lao về sự mạo hiểm của nhà
tư bản ứng tiền ra sản xuất. Còn A.R.J Turogt thì cho rằng lợi nhuận là thu nhập không
lao động do công nhân tạo ra.
A.D. Smith thì nghĩ gì ?
ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động,
chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. ông chỉ
ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả

cho chủ của nó để được sử dụng tư bản.Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ
suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng
lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra. A.D.Smith thấy
một thực tế là công nhân chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi
nhuân tư bản .Theo ông địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất bằng tiền tô. Điều
này tiến bộ hơn các học thuyết trước đây. Tuy nhiên ông còn cho rằng sở dĩ nông nghiệp
có địa tô, vì lao đông nông nghiệp có năng suất lao động cao hơn công nghiệp và ông phủ
nhận địa tô tuyệt đối. Ông cho rằng nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm qui luật giá
trị .
b. Quan điểm của Picacdo:


Nếu như A.D.Smith sống trong thời kì công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì
David Ricacdo sống trong thời kì cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để
ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.D.Smith dừng lại.Ông là người kế tục xuất sắc của
A.D.Smith. Theo C. Mac, A.D.Smith là nhà kinh tế của thời kì công trường thủ công còn
Ricacdo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp
khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp
khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.
Về lợi nhuận, Ricacdo cho rằng : “Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nha tư bản
trả cho công nhân”. Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên
nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ
,công nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả
nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận
không tăng. Như vậy, theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng
không bị hại, còn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Nhưng hạn chế
của ông là không phân biệt thặng dư.
3. Quan điểm của trường phái:
Theo lợi nhuận lãnh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi
ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền. Bởi ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh

là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo
cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty do lao động của họ do vốn đầu tư của
họ mang lại. Nghĩa là tiền trả cho các yếu tố sản xuất do họ cung cấp. Nếu loại bỏ tất cả
lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư


có lợi bất định. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói trên chúng ta
không tính tới các rủi ro do vỡ nợ hay các rủi ro có bảo hiểm. Có một dạng rủi ro cần lưu
ý khi tính toán lợi nhuận đó là rủi ro không được bảo hiểm doanh thu công ty phụ thuộc
rất lớn vào thăng trầm trong chu kì kinh doanh. Do các nhà đầu tư rất không thích các
trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư không
chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ.
Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí. Lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu
nhập của công ty.
4. Học thuyết của Mác-Lênin:
Mác viết: “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện
trong hàng hoá”.
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất
hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Theo Mác lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề
nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng thao tác riêng phương
tiện riêng và kết quả riêng. Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng
hoá. Lao đông cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng nhiều loại. Tất cả các lao
động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động
cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu được trong mọi điều
kiện của xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hoá nếu coi là sự hao phí sức lực của con người nói
chung, không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao động trừu tượng.



Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt của con người.
Nhưng bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng.
Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải qui các loại
lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động
đồng nhất có thể so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động
trừu tượng. Vì vậy lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng tạo
ra giá trị hành hoá là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng
hoá .
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội của những người
sản xuất hàng hoá. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn
này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị
của hàng hoá. “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để
hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự phát triển vượt bậc so với các học thuyết kinh tế
cổ đại.
Mac và Anghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một
cách hoàn chỉnh, vì vậy lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lớn nhất trong
toàn bộ học thuyết kinh tế của Mac. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mac thấy rằng
giai cấp tư bản thì ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và
ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông phát hiện ra
rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá
thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T’ ( T’>T) hay T’= T+ T.


C.Mac gọi T là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với
tư cách là tư bản không phải trả giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-
T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động của T-H-T’ là không có giới hạn.
Công thức này được Mac gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu Mac đi đến kết luận : “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng
không thể xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời

không phải trong lưu thông”. Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải
quyết mâu thuẫn này Mac đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá-sức lao động.
Quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sưc
lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá
trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mac viết : “với tư cách là sự thống nhất giữa quá
trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra
hàng hoá; với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản
chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Phần lớn giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động , nó được tính bằng giá trị sức lao động
cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị
sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà đầu tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy
tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản
thì C.Mac đã chia tư bản ra làm hai bộ phận : tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển
vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mac


gọi là tư bản bất biến và ký hiệu là (c). Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá
trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và
ký hiệu là (v).
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản khả biến
đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả
biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò
gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận: “Giá trị của một hàng
hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với giá trị của tư bản khả biến đó
(tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu diễn bằng công thức :
Giá trị = c+v+m;
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch rõ thực chất bóc lột
tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của

nhà tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu
diễn một cách ngắn gọn qua quá trình :
Giá trị = c+v+m;
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm : c
Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân) : v
M = m’.V
Giá trị mới do người công nhân tạo ra : v+m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c+v. Nhưng giá trị mà tư bản thu
vào là c+v+m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.


ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu về nó ta
cần phải nghiên cứu sự bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỉ suất giá trị thặng dư
và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt lượng của sự
bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỉ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu của tỉ
suất giá trị thặng dư là m’ ta có :
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thực chất
đây là tỉ lệ phân chia ngành lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao
động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối
lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỉ suất giá trị thặng dư
và tổng tư bản khả biến (v). Gọi M là giá trị thặng dư thì (v là một đơn vị tư bản thể hiện
ra bên ngoài như tiền lương của một công nhân). Nó nói lên quy mô bóc lột của tư bản.
Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó
Mac chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư
tương đối, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngoài ra còn có phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư siêu ngạch.
Mac đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ nghĩa tư bản, khi kỹ thuật còn thấp
hay tiến bộ chậm thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày
lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Nhưng phương pháp

này còn có hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần người công nhân. Sự bóc lột này
đã dẫn đến nhiều cuộc bãi công, đấu tranh của các nghiệp đoàn. Mặt khác, đến giai đoạn


phát triển cao có thể làm cho năng suất lao động để tăng giá trị thặng dư và nâng cao trình
độ bóc lột.
Nhà tư bản sản xuất ngày càng giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết do đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao
động không đổi. Phương pháp này không có giới hạn.
Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày nay đang tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới
vào, nâng cao tay nghề công nhân tạo điều kiện về tinh thần tốt để tạo ra năng suất lao
động, cá biệt lớn hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị
thặng dư thông thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội
cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền. Phương pháp này sản xuất m siêu ngạch.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu
được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào. Vì công thức chung của tư bản
là T-H-T’ nên mục đích cuối cùng là thu được T’ còn m chỉ là tiền đề là nền tảng để thu
được T’ ( T’>T). Mac đã giúp ta giải quyết vấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng
biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P). Vởy : “Giá trị thặng dư khi được đem so
sánhvới tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận” từ đó ta có
thể thấy P chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c+v.
Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị của hàng hoá c+v+m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí cho mua tư liệu
sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Đứng trên quan
điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra


giá trị hàng hoá (c+v+m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản
xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí

hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu sản xuất
(c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được Mac gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký
hiệu là k (k=c+v). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế.
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một
lượng đúng đắn bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá
trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận:
giá trị = k + P
Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất P xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó P che dấu quan hệ bóc lột
TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên
nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị
hàng hoá . Nừu nhà tư bản bán hàng với giá trị bằng giá trị của nó thì P = m. Nếu bán
hàng với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P > m, với bán với giá trị nhỏ hơn giá trị của nó
thì P<m.Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu
thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này dẫn đế sự che giấu thực
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nhưng lòng tham của nhà tư bản là vô đáy vì thế sau
khi đã có lợi nhuận rồi thì họ không dừng lại tại đó mà họ còn muốn tìm ra số tiền mà họ


đầu tư đó thì họ đầu tư vào đâu để thu được P lớn nhất. Từ đây nảy sinh khái niệm về tỉ
suất lợi nhuận.
Tỉ suất lợi nhuận (P)là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước.
Tỉ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi
của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu P và
theo đuổi P là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự
cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mac phân chia thành hai

loại : cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành,
cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để th lợi
nhuận siêu ngạch.
Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người
sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm dành giật những điều
kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ
ngành buộc các xí nghiệp phải tìm cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
xã hội để dành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân
trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác
nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn, ở các ngành sản xuất khác nhau có những điều kiện
khác nhau, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi


nhuận cao để đầu tư. C.Mac viết : “Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ suất lợi nhuận
khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình quân của
tất cả những tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất
định thu được, theo tỉ suất lợi nhuận chung đó, không kể cấu tạo hiện có đó như thế nào
gọi là lợi nhuận bình quân”.
Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ suất lợi nhuận
bình quân trong xã hội tư bản. sự hoạt động của tỉ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ
thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ
nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P’ và P không làm chấm dứt quá trình
cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
Sự chuyển hoá từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất và sự che dấu quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa của phạm trù sản xuất.
Cùng với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được

bán cao hơn giá trị của chúng, còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị của chúng cũng
theo một tỉ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỉ suất lợi nhuận
trong các công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các
tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá
cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất”.
Vậy : Giá cả sản xuất = k+P


Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá
trị biến thành giá cả sản xuất gồm có : đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển;
sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất ; quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do
chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng
hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng giá cả sản
xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở,
là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật
giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Lợi nhuận được biểu hiện dưới dạng P công nghiệp , P thương nghiệp, P ngân hàng, lợi
tức cho vay.
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải
bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh họ mong muốn chi phí còn số dư dôi
để không chỉ sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận ở
đây chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Còn tối đa hoá lợi
nhuận hoặc giảm chi phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại cho
doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm
được nhờ bán hàng hoá, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Và quá trình bán này cũng
được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó sau này được gọi là
lợi nhuận thương nghiệp.



Chúng ta đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, ở đó họ cho rằng lợi
nhuận là kết quả của sự không ngang giá. Họ coi thương nghiệp là lừa gạt “không một
người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác”. Quan điểm sai lệch này là do
họ tách rời quá trình sản xuất.
Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ
nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu
thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng
mua và bán, nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực
hiện giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán
đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất “ Lợi nhuận thương nghiệp là một phần nhường
cho nhà tư bản thương nghiệp”. Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương
nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó
là một khâu, một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái
sản xuất không thể tiếp diễn được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải
là hoạt động không công mà họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư
bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp.
Vậy “lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá”.
Nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị
của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh
ta bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia m
nên đời sống của xã hội tư bản hình thành hai loại giá cả sản xuất : giá cả sản xuất thương
nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che dấu thêm một


bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối P giữa tư bản công nghiệp và
tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh
tranh.
Lợi tức và tỉ suất lợi tức
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ

tạm thời nhàn rỗi ví dụ như tiền lương quỹ khấu hao của tư bản cố định, tiền dùng để mua
nguyên liệu vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ (dưới dạng
tiền) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng số tiền nhàn rỗi như thế không mang lại
một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy
nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Vì trong cùng một thời gian đó có những
nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. “Tư bản cho
vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một
thời gian để được một số lời lãi nào đó. Số lời lãi đó gọi là lợi tức”. Bản chất của lợi tức là
một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh
vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc
lột của tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức tư bản vận động cho vay, chúng ta hoàn toàn
vạch trần được điều đó.
Lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức. Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng
số lợi nhuận bình quân, tỉ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp
mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay.
Lợi nhuận ngân hàng.


Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng
biệt của m. nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay
của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi ,con số chênh lệch này là nguồn gốc của lợi nhuận
ngân hàng. Tuy vậy, không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng
mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí
nghiệp vụ ngân hàng(lương nhân viên, sổ sách, )
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra
giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp) hoặc thực hiên giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp),
sau đó đem một phần m thu được làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận
ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do ngân hàng bằng lợi nhuận

bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh ngành khác.
Thị trường trái khoán, vốn cổ phần:
Muốn mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp lớn phải hợp nhất nhiều tư bản cá nhân
lại thành những công ty cổ phần. Công ty cổ phần là những xí nghiệp mà vốn của nó do
những người tham gia gọi là cổ đông đóng góp vào.
Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu cổ đông sẽ được lĩnh
một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần không cố định mà
phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là trị giá cổ phiếu.Thị giá cổ phiếu không phải
là số tiền ghi trên mặt phiếu, mà là một số tiền đem gửi ngân hàng sẽ thu được một số lợi
tức bằng lợi tức cổ phần.

×