Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Hải dương học Biển Đông ( Lê Đức Tố ) - Chương 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3 MB, 34 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Tự NHIÊN



LÊ ĐứC Tố






HảI DƯƠNG HọC BIểN ĐÔNG







Hà NộI - 1999

1


MụC LụC
Lời giới thiệu
Chơng 1: Khái quát về vị trí địa lý và lịch sử nghiên cứu
biển đông Việt Nam
1.1 Vị trí địa lý Biển Đông Việt Nam 7
1.2 Lịch sử điều tra nghiên cứu Biển Đông 21


Chơng 2: Đặc điểm điều kiện tự nhiên Việt Nam
2.1 Đặc điểm địa chất địa mạo 36
2.2 Đặc điểm cấu trúc hình thái Biển Đông 63
2.3 Đặc điểm khí hậu Biển Đông 71
2.4 Thủy triều và dao động mực nớc 86
2.5 Hoàn lu lớp nớc mặt Biển Đông 97
2.6 Sóng biển trong hai mùa gió, sóng biển khi bão 106
2.7 Đặc điểm chế độ nhiệt muối 109
Chơng 3: Sinh vật biển và các hệ sinh thái biển Việt Nam
3.1 Sinh vật biển Việt Nam 118
3.2 Các hệ sinh thái ven biển 127
Chơng 4: tài nguyên thiên nhiên và môi trờng biển
việt nam
4.1 Tài nguyên khoáng sản 142
4.2 Tài nguyên sinh vật 154
4.3 Tài nguyên muối và các hoá phẩm biển 169
4.4 Điều kiện phát triển giao thông vận tải. 170
4.5 Hiện trạng môi trờng biển Việt Nam 175
4.6 Khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trờng biển 187
Tài liệu tham khảo 205





2







The textbook "Oceanography of South-China Sea" presents
the basic problems on natural conditions, resources and
environment of the South-China sea. Chapter 1 deals with the
geographical situation, the important role of this sea to Vietnam
state. Chapter 2 presents natural conditions of South-China sea
such as geological formulations, geomorphology, thermal and
dynamical processes. Chapter 3 is paid to the estimation of
biodiversity and ecological systems. Chapter 4 focuses to the
problems of optimal use of marine resources and environmental
protection as a main task of the economics fields.

3


LờI GIớI THIệU

Hải Dơng học Biển Đông có thể xem nh kết quả nghiên cứu của một đề tài
khoa học, vì cho đến hiện nay cha có tác giả nào viết về vấn đề này một cách toàn
diện, nhng đề cập đến từng mặt của Biển Đông thì có nhiều. Với t cách là một
giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, "Hải Dơng học Biển Đông" phải đợc viết một
cách thận trọng phản ánh đầy đủ đặc điểm điều kiện tự nhiên tài nguyên, môi trờng
của Biển Đông. Tập thể tác giả phải chắt lọc các thông số cơ bản nhất, tin cậy nhất
từ những công trình nghiên cứu của các Chơng trình Biển quốc gia (từ 1980 đến
1995), đã đợc các hội đồng cơ sở và cấp Nhà nớc công nhận, trong đó có danh từ
Biển Đông và Biển Đông Việt Nam. Khi nói đến Biển Đông Việt Nam là muốn giới
hạn sự nghiên cứu ở vùng nớc thuộc Việt Nam.
Hải Dơng học Biển Đông đã đề cập đến 4 vấn đề lớn một cách cơ bản,
không tham vọng đi sâu nh một chuyên đề. Vấn đề thứ nhất về vị trí địa lý và tầm

quan trọng của Biển Đông đối với quốc gia ven biển, trong đó khẳng định chủ quyền
quốc gia của Nhà nớc CHXHCN Việt Nam trên Biển Đông. Vấn đề thứ hai và thứ
ba là phần chính của cuốn sách. Trong vấn đề thứ hai đã trình bày đầy đủ các thành
tạo địa chất, trầm tích, địa mạo hình thái và những đặc điểm khí tợng thủy văn là
những nhân tố quan trọng tạo nên diện mạo và bản chất của Biển Đông. Vấn đề thứ
ba giành riêng cho những nội dung về thế giới sinh vật, phản ánh khá đầy đủ và toàn
diện tính đa dạng sinh học của một biển nhiệt đới lớn nhất Thái Bình Dơng. Vấn đề
thứ t là tài nguyên và môi trờng, ở đây đề cập đến nhiều nội dung quan trọng của
vấn đề, vừa có tính lý luận vừa thực tiễn của Biển Đông Việt Nam. Trong đó tập
trung vào nội dung chính là đánh giá các dạng tài nguyên và hiện trạng môi trờng
Biển Đông đang đứng trớc những thách thức của sự nghiệp phát triển kinh tế, nhân
dân ta, Nhà nớc ta phải có thái độ đối xử đúng đắn đối với tài nguyên môi trờng
Biển Đông.
Chúng tôi cho rằng về cấu trúc và nội dung cuốn "Hải Dơng học Biển
Đông" do GS. Lê Đức Tố - chủ biên có thể đợc chấp nhận nh một giáo trình cho
sinh viên khoa KTTV và HDH trờng ĐHKHTN và cũng có giá trị tham khảo nhất
định cho các nhà khoa học quan tâm đến Biển Đông. Chúng tôi chân thành cảm ơn
GS. TS. Đặng Ngọc Thanh, GS. TS. Nguyễn Ngọc Thụy, TS. Lê Duy Bách, TS.
Hoàng Trọng Lập và TS. Trơng Văn Tuyên đã cung cấp những bài viết làm t liệu
cho cuốn sách này. Trong quá trình biên soạn chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết,
chúng tôi mong sự góp ý của bạn đọc.

4


Chơng 1
Khái quát về vị trí địa lý
và lịch sử nghiên cứu Biển đông việt nam
1.1. Vị trí địa lý Biển Đông Việt Nam
1.1.1. Vị trí và tầm quan trọng của Biển Đông

Biển Đông là biển rìa phía Tây của Thái Bình Dơng đã từng đợc gọi
bằng nhiều tên : Biển Đông, Giao chỉ Dơng, Biển Nam Hải, Biển Nam Trung
Hoa Tên " Biển Đông" đã xuất hiện trong cuốn Địa lý vào loại cổ nhất ở
nớc ta do Nguyễn Trãi soạn năm 1435 trình lên vua Lê Thái Tông với dòng
chữ "Hải Đông Hải dã" tức là "Biển là Biển Đông vậy".
Tên Biển Đông đợc viết hoa trang trọng cả hai chữ hiện đang đợc
dùng trong các văn kiện chính thức của Nhà nớc Việt Nam. Trên các bản đồ
thế giới xuất bản, Biển Đông có tên tiếng Anh là South China Sea, tức là Biển
Nam Trung Hoa. Theo qui ớc của tổ chức thuỷ văn quốc tế, tên của các biển
đợc đặt tên theo vị trí tơng đối của lục địa lớn nhất kề bên.
Biển Đông có diện tích khoảng 3.447.000 km
2
, gấp hơn 8 lần Biển Đen
và gần một lần rỡi Địa Trung Hải, Biển Đông bao gồm cả vịnh Bắc Bộ và
vịnh Thái Lan, có độ sâu trung bình 1.140m, diện tích khoảng 3.928.000km
2
,
chiều dài 3.500km (hình 1). Biển Đông tơng đối kín xung quanh đợc bao
bọc bởi các đảo, quần đảo và đất liền, tuy vậy Biển Đông đều thông với các
biển lân cận và các đại dơng qua các eo biển. Phía tây nam Biển Đông thông
ra ấn Độ Dơng qua eo Malacca giữa bán đảo Malaysia và đảo Sumatra
(Indonesia), phía nam qua eo Karimata và Biển Giava (Indonesia) đi ra ấn Độ
Dơng bằng hai cửa Sunda (giữa Giakacta và Lombok (gần Bali), mặc dù tàu
bè ít qua lại hai cửa này song chúng cũng có vị thế quan trọng. Phía bắc và
phía đông của Biển Đông thông với Thái Bình Dơng qua các eo biển sâu và
các eo biển của quần đảo Philippine.
Ven Biển Đông có 9 quốc gia, là Trung Quốc, Philippin, Malaysia ,
Indonesia, Brunây, Singapore, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Ngoài ra
còn phải kể đến các vùng lãnh thổ phụ thuộc có nền kinh tế phát triển nh Đài
Loan, Hồng Kông, Ma Cao nằm ven bờ đông bắc Biển Đông, Trung Quốc là

quốc gia lớn nhất ven Biển Đông án ngữ phía bắc.

5





H×nh 1a. §Þa h×nh ®¸y BiÓn §«ng




6


Hình 1b. Biển Đông trong khu vực Đông Nam á

Các quốc gia quần đảo là Indonesia và Philippin với hàng nghìn đảo lớn
nhỏ án ngữ phần phía nam và phía đông của Biển Đông.
Việt Nam là quốc gia ven bờ phía tây của Biển Đông cùng với
Campuchia và Thái Lan, Việt Nam có 3.260km bờ biển. Tính trung bình cứ
100km
2
đất liền có 1 km độ dài bờ biển. Trong lúc đó trên thế giới, trung bình
600km
2
diện tích lục địa mới có 1km độ dài bờ biển, vì vậy Việt Nam là quốc
Biển Đông



7

gia rất lợi thế về biển.
Biển Đông quan trọng về chiến lợc, giàu về tài nguyên và đa dạng về
sinh học, giữ vị trí quan trọng thứ hai trên thế giới sau Địa Trung Hải. Đây là
con đờng hàng hải quốc tế nối ấn Độ Dơng với Thái Bình Dơng, Đông á
với Nam á và từ đó với các con đờng đi về châu Phi, châu Âu. Nhìn lên bản
đồ giao thông vận tải của thế giới tất cả các con đờng hàng không và hàng
hải quốc tế chủ yếu giữa ấn Độ Dơng và Thái Bình Dơng đều qua Biển
Đông. Biển Đông có hai hải cảng lớn của thế giới là Hồng Kông ở cửa phía
bắc của Biển Đông và Singapore nằm ở cửa phía nam của Biển. Khối lợng
vận chuyển qua Biển Đông khá lớn, chỉ tính riêng dầu lửa đã có hơn 90% nhu
cầu dầu lửa của nớc Nhật vận chuyển qua biển này. Nơi đây trớc kia đã
từng có căn cứ hải quân lớn của siêu cờng trên biển đó là căn cứ hải quân của
Mỹ ở Subich (Philippin).
Biển Đông có hai vịnh lớn là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan
Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây của Biển Đông, rộng từ kinh tuyến
105
o
36'E đến 109
0
55E trải dài từ vĩ tuyến 17
0
N xuống vĩ tuyến 21
0
N. Diện
tích của vịnh vào khoảng 140.000 km
2
đến 160.000 km

2
tuỳ theo cách quy
định phạm vi. Chu vi của vịnh khoảng 1.950km, chiều dài vịnh là 496km, vịnh
có chiều rộng lớn nhất là 314km. Trên bản đồ thế giới vịnh Bắc Bộ còn có tên
Tonkin gulf.
Vịnh Bắc Bộ đợc bao bọc bởi bờ biển miền Bắc Việt Nam ở phía tây,
bởi lục địa Trung Quốc ở phía bắc và bán đảo Lôi Châu cùng với đảo Hải
Nam ở phía đông. Bờ vịnh khúc khuỷu và có vô số đảo ven bờ, tập trung chủ
yếu ở phía tây bắc vịnh ven bờ biểnViệt Nam, riêng phần vịnh phía Việt Nam
có khoảng 1.300 đảo. Đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam nằm gần
giữa vịnh, có diện tích khoảng 2,5 km
2
, cách đất liền Việt Nam khoảng
110km. Chiều dài bờ vịnh phía Việt Nam từ cửa sông Bắc Luân đến mũi Lay
khoảng 740km, bờ vịnh phía Trung Quốc từ cửa sông Bắc Luân qua bán đảo
Lôi Châu tới mũi Oanh Ca phía tây đảo Hải Nam khoảng 889km.
Nguồn nớc chủ yếu giao lu với vịnh Bắc Bộ qua cửa phía Nam với
Biển Đông rộng chừng 230 km ở nơi hẹp nhất, một phần nhỏ khối nớc trao
đổi qua eo biển Quỳnh Châu, Đông Hải. Eo Quỳnh Châu hoàn toàn thuộc về
Trung Quốc là một eo biển hẹp, chỗ hẹp nhất khoảng 18 km và sâu khoảng

8

20m.
Vịnh Bắc Bộ là một vịnh nông độ sâu trung bình vào khoảng 40 - 50m,
nơi sâu nhất khoảng 100m. Khu vực có độ sâu nhỏ hơn 30m chiếm diện tích
khoảng 60% vịnh. Địa hình đáy biển tơng đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ,
dạng lòng chảo nghiêng về phía đông nam (phía đảo Hải Nam). Từ cửa vịnh
trở ra Biển Đông đáy thụt sâu xuống tới 1.000m và hơn nữa.
Vịnh Thái Lan nằm ở phía tây nam của Biển Đông. Vịnh đợc bao bọc

bởi bờ biển, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Malasia. Diện tích vịnh
khoảng 293.000 km
2
, gần gấp đôi diện tích vịnh Bắc Bộ, chu vi vịnh khoảng
2.300km, chiều dài vịnh 628km.
Vịnh Thái Lan là một vịnh nông, độ sâu lớn nhất ở trung tâm vào
khoảng 80m và độ sâu lớn nhất ở cửa vịnh khoảng 60m. Góc trong cùng của
vịnh là eo Bangkok có dạng lõm hình chữ nhật.
Các đảo chính trong vịnh Thái Lan là Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu,
đảo Poulowai, đảo Kokut ở phía đông vịnh các đảo Kotao, đảo Kophangan,
Kosamui ở phía tây vịnh.
1.1.2. Các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia của Việt Nam
Bản đồ kinh tế chính trị biển của thế giới và của Biển Động đã và đang
thay đổi theo quá trình phát triển của Luật Biển. Căn cứ vào sự phát triển của
Luật Biển quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ra "Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp
giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam" ngày 12/5/1977
và tiếp sau đó ngày 12/11/1982 ra "Tuyên bố về đờng cơ bản ven bờ lục địa
Việt Nam".
Hai bản tuyên bố rất quan trọng này đã chính thức phân chia vùng biển
thuộc quyền tài phán quốc gia của nớc ta thành vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và ấn định thềm lục địa của nớc
ta Ngày 23/6/1994 Quốc hội nớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX đã phê chuẩn Công ớc Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, biểu
thị quyết tâm của nớc ta cùng với cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự
pháp lý công bằng khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển trong khu
vực.
Đờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải nớc ta thuộc loại đờng
cơ sở thẳng. Trong ban Tuyên bố quy định đờng cơ sở dùng để tính chiều

9


rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982 nớc ta mới quy định đờng cơ sở
ven bờ lục địa, còn đờng cơ sở của các quần đảo Hoàng Sa, Trờng Sa ở
ngoài khơi sẽ đợc công bố sau (hình 2).
Điểm xuất phát của đờng cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải nớc Việt
Nam là điểm 0 - một điểm nằm trên ranh giới phía tây nam của vùng nớc lịch
sử chung của hai nớc Việt Nam - Campuchia kéo đến điểm A
1
trên hòn Nhạn
trong quần đảo Thổ Chu, thuộc tỉnh Kiên Giang, qua điểm A
2
thuộc hòn Đá
Lẻ nằm ở đông nam hòn Khoai thuộc tỉnh Minh Hải, đến điểm A
3
ở hòn Tài
Lớn, điểm A
4
ở hòn Bông Lang, điểm A
5
ở hòn Bảy Cạnh trong nhóm quần
đảo Côn Đảo, kéo lên điểm A
6
ở hòn Hải thuộc nhóm đảo Phú Quý tỉnh Bình
Thuận,đến điểm A
7
ở trên hòn Đôi, tỉnh Khánh Hoà, và điểm A
8
ở mũi Đại
Lãnh, tỉnh Phú Yên, đến điểm A
9

ở hòn Ông Can thuộc tỉnh Bình Định, qua
điểm A
10
ở đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi đến điểm A
11
ở đảo Cồn Cỏ
thuộc Quảng Trị, và kéo đến điểm giữa của vịnh Bắc Bộ sẽ đợc công bố sau.
Theo Tuyên bố này, những điểm của đờng cơ sở cách bờ xa nhất là
hòn Nhạn khoảng 80 hải lý, hòn Hải trên 70 hải lý, Côn Đảo trên 50 hải lý.
Các đoạn đờng cơ sở thẳng giữa hai điểm liên tiếp dài nhất là từ hòn Hải đến
Côn Đảo trên 170 hải lý, từ hòn Hải đến hòn Đôi 160 hải lý, từ hòn Nhạn đến
hòn Đá Lẻ khoảng 100 hải lý.
Tuy đờng cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam đi qua một số đảo cách xa bờ
từ 50 đến 80 hải lý và cách xa nhau trên 100 hải lý, nhng đờng cơ sở này
vẫn phù hợp với các tiêu chuẩn của luật pháp và thực tiễn quốc tế vì các đảo
có những lợi ích kinh tế riêng biệt mà thực tế và tầm quan trọng của những lợi
ích ấy đã đợc quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng và đờng cơ sở
của nớc ta vẫn chạy theo xu thế chung của bờ biển.
Dọc theo dải ven biển nớc ta có nhiều mũi đất nhô ra ngoài biển, có
trên 110 cửa sông, lạch lớn nhỏ, có nhiều vũng, vịnh, có các đảo nhỏ và quần
đảo nằm tơng đối xa bờ, nhng về mặt kinh tế, quốc phòng, lịch sử, địa lý
hành chính luôn gắn bó với dải ven bờ và đất liền, là một bộ phận lãnh thổ
nớc Việt Nam không thể tách rời.
Ví dụ nh điểm A
1
trên hòn Nhạn là một đảo nhỏ xa nhất của quần đảo
Thổ Chu nằm ngoài khơi vùng biền tây nam của Tổ Quốc. Hòn Nhạn cùng với
8 hòn đảo lớn nhỏ khác họp thành quần đảo Thổ Chu gắn bó chặt chẽ với đất
liền từ bao đời nay về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng. Trong sách "Đại
Nam nhất thống chí" do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1882 đã


10

viết: "Đảo Thổ Chu ở ngoài biển khơi huyện Hà Châu, cách bờ hai ngày rỡi
đờng, lại có tên là hòn Châu Dầu, chu vi chừng vài trăm dặm, cây cối xanh
um, hang động âm u, sản xuất yến sào, đồi mồi, vích, hải sâm, trên cù lao có
dân c ở".

Hình 2. Đờng cơ sở nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đảo Bình Nguyên

MALAIXIA
đảo Cakman Ion

Cục Đo đạc và bản đồ Nhà nớc vẽ tháng 7
-
1987

Trung quốc

CAMPUCHIA

hà nội
Hải phòng

Nam Định

Đ. Bạch Long Vĩ

đảo Phù Liễn


Vinh

A10
đảo Lý Sơn

A11.đảo Cồn Cỏ

THái lan

đảo Hải Nam

đảo
Hoàng Sa

đảo Linh Côn

đảo Tri Tôn
Huế

Đà Nẵng

Quy Nhơn

A9.hòn
ô
ng Cồn

A8.mũi Đại Lãnh
Nha Trang

Quần đảo Hoàng Sa
Phan Thiết

Tp Hồ Chí Minh

đảo Phú Quốc
Vũng Tàu

A6.hòn Hải

Minh Hải

Vùng nớc lịch sử
Côn Đảo

A5.hòn Bảy Canh
A4.hòn Đồng Lang
A2.hòn Đá Lẻ

A1.đảo Thổ Chu

đảo

đảo Song Tử Đông
đảo Song Tử Tây
đảo Bến Lạc

đảo Sơn Ca

đảo Trờng Sa

MALAIXIA
bán đảo
Malacca

INDONEXIA
Q.đ Natuna Bắc

đ. Palapan

đá Hoa Lau

đảo Ba Đình
đảo Nam Yết
đảo An Bang

Đá Đông

hòn Nhạn

11

Ba điểm A
2,
A
3,
A
4
nằm trên ba hòn đảo Bông Lang, Bảy Cạnh, Tài Lớn
là những điểm nhô ra nhất của quần đào Côn Đảo - một quần đảo gồm 13 đảo
lớn nhỏ khá trù phú, đất đai màu mỡ , dân Việt hàng bao đời sinh sống trên

đảo bằng nghề đánh bắt hải sản và trồng trọt. Thời Pháp thuộc, Côn Đảo là
một đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc một tỉnh trong đất liền. Năm
1979 do vai trò quan trọng, giữa Côn Đảo và đất liền Vũng Tàu, Đặc khu
Vũng Tàu - Côn Đảo đã đợc Nhà nớc thành lập và hiện nay Côn Đảo là một
huyện thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang trở thành một vùng kinh tế quan
trọng của cả nớc.
Hòn Hải nơi có điểm A
6
của đờng cơ sở là hòn đảo ngoài cùng của
nhóm đảo Phú Quý, gồm trên 8 đảo và bãi cạn là một quần đảo giàu, về tổ
chức là một huyện thuộc tỉnh Bình Thuận. Quần đảo nằm ở vị trí án ngữ con
đờng biển vào cảng Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Quần đảo có diện
tích 32 km
2
, dân số đông đúc hơn 15.000 ngời sinh sống trong các làng xóm
sầm uất. Dân ở đây theo nghề đi biển xa và nổi tiếng về giỏi nghề cá mập.
Vùng biển nội thuỷ của nớc Việt Nam bao gồm
a) Vùng biển nằm phía trong đờng cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam kể cả
vùng vịnh, cửa sông, vùng nớc cảng biển.
b) Vùng biển nằm phía trong đờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
của các đảo và quần đảo của hai quần đảo Trờng Sa và Hoàng Sa của Việt
Nam.
c) Các vùng nớc lịch sử của Việt Nam bao gồm phần vịnh thuộc phía Việt
Nam trong vịnh Bắc Bộ và vùng nớc thuộc Việt Nam trong vùng nớc lịch
sử của hai nớc Việt Nam và Cămpuchia.
Vùng nớc lịch sử của Việt Nam tồn tại ở hai vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan:
Vịnh Bắc Bộ là một vịnh nằm sâu trong lãnh thổ của nớc Cộng Hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và nớc CHND Trung Hoa. Về mặt địa lý - địa chất,
vịnh Bắc Bộ gắn bó hữu cơ với lãnh thổ đất liền phía bắc của nớc ta và án
ngữ hầu nh toàn bộ vùng lãnh thổ quan trọng này.

Vùng biển vịnh Bắc Bộ có một tầm quan trọng đặc biệt đối với nền an
ninh và quốc phòng của nớc ta. Năm 1887 giữa toàn quyền Pháp và nhà
Thanh đã ký công ớc về biên giới, trong đó có quy định "kinh tuyến 105
0
43'
Paris (tức là 108
0
03'13" kinh đông Greenwich) đi qua mũi phía đông đảo Trà
Cổ tạo thành biên giới kể từ điểm phân vạch cuối cùng mà hai uỷ ban cắm

12

mốc đã vạch ra". Chính quyền Pháp ở Đông Dơng cũng đã có các quy định
và hành động cụ thể buộc các tàu thuyền nớc ngoài hoạt động ở phía tây
đờng kinh tuyến trên phải đăng ký và đóng thuế Sau năm 1954, các hoạt
động kinh tế hay nghiên cứu khoa học ở trong vịnh giữa nớc ta với Trung
Quốc cũng đã sử dụng đờng kinh tuyến trên làm đờng phân chia ranh giới
trên biển giữa các quốc gia (hình 2a).
Trên cơ sở đó, Nhà nớc ta đã quy định rằng phần vịnh thuộc phía Việt
Nam trong vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây kinh tuyến 108
0
03'13" là vùng nớc
lịch sử theo chế độ nội thuỷ của nớc Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Sau này
khi hai nớc đàm phán xác định chính thức đờng biên giới trong vịnh, quy
chế vùng nớc trong vịnh Bắc Bộ sẽ đợc xác định cụ thể.
Vùng nớc lịch sử Việt Nam - Campuchia ở vịnh Thái Lan nằm giữa
bờ biển của tỉnh Kampot và đảo Wai của Campuchia với bờ biển đảo Phú
Quốc và nhóm đảo Thổ Chu của Việt Nam đã đợc xác định là vùng nớc lịch
sử trong hiệp định về vùng nớc lịch sử của hai nớc ký ngày 7/7/1982 (hình
2b).




Hình 2b Bản đồ hiệp định về vùng nớc lịch sử Việt Nam Campuchia

13



Về mặt địa lý và điều kiện tự nhiên vùng biển này gắn liền với phần đất
liền của hai nớc Việt Nam và Campuchia, từ lâu đời đã thuộc về hai nớc. Nó
có một vị trí quan trọng, ảnh hởng trực tiếp đến nền an ninh quốc phòng của
các tỉnh miền Tây Nam Bộ và các tỉnh ven biển miền Nam Campuchia.
Trong khi cha xác định đợc đờng biên giới quốc gia trên biển trong
vùng nớc lịch sử chung Việt Nam - Campuchia, hai nớc cùng thực hiện
quản lý và kiểm soát trên biển, việc đánh bắt và khai thác hải sản của nhân
dân địa phơng vẫn đợc tiếp tục nh tập quán. Riêng việc khai thác các loại
tài nguyên thiên nhiên khác thì cần phải có sự bàn bạc thoả thuận giữa hai
nớc.
Lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh thổ đất liền và tiếp liền với nội
thuỷ của nớc ven biển là nơi chủ quyền nớc ven biển đó đợc mở rộng ra
ngoài lãnh thổ nội thuỷ. Chủ quyền này mở rộng ra cả vùng trời trên lãnh hải
cũng nh đối với đáy biển và lòng đất dới đáy lãnh hải. Chiều rộng lãnh hải
theo Công ớc Luật Biển 1982 quy định không vợt quá 12 hải lý kể từ đờng
cơ sở. Vì vậy đờng ranh giới phía ngoài của lãnh hải là đờng biên giới quốc
gia trên biển. Lãnh hải đợc coi là một bộ phận lãnh thổ của nớc ven biển.
Theo qui định của Nhà nớc ta, lãnh hải của Việt Nam là một dải biển
rộng 12 hải lý tính từ đờng cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và
các điểm ngoài cùng của các đảo ven biển của Việt Nam tính từ ngấn nớc
thuỷ triều thấp nhất trở ra. Trong vùng biển này những ngời thực hiện chủ

quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng nh đối với vùng
trời, đáy biển và lòng đất dới đáy biển của lãnh hải. Tính chất chủ quyền
trong lãnh hải có khác với tính chất chủ quyền ở nội thuỷ. Trong nội thuỷ ta
thực hiện chủ quyền đầy đủ, tuyệt đối và toàn vẹn. Còn trong lãnh hải ta thực
hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn. Có sự khác nhau đó vì trong lãnh hải tàu
thuyền các quốc gia khác đợc hởng quyền qua lại vô hại với điều kiện là
không xâm phạm đến hoà bình, an ninh, trật tự và phải tôn trọng các quy định
về lãnh hải của quốc gia ven bờ.
Phần lãnh hải của các đảo và quần đảo của hai huyện Hoàng Sa thuộc
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và huyện Trờng Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà sẽ

14

đợc công bố sau (hình 3).
Vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam là một vùng biển nằm ngoài và tiếp
liền với lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý và hợp với lãnh hải tạo
thành một vùng biển rộng 24 hải lý tính từ đờng cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải.
Nớc ta thực hiện sự kiểm soát và ngăn ngừa cần thiết ở vùng tiếp giáp
lãnh hải của mình nhằm mục đích bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi hải
quan, thuế khoá, bảo đảm sự tôn trọng các quy định về y tế, về di c, nhập c
trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. So với các quy định của Công
ớc về Luật Biển 1982 và của các quốc gia ven biển khác, do tình hình và đặc
điểm riêng của nớc ta, Chính phủ ta đã quy định việc kiểm soát cần thiết
trong vùng tiếp giáp đối với ngời và tàu thuyền nớc ngoài nhằm ngăn ngừa
và trừng trị những vụ vi phạm đối với pháp luật của Việt Nam về an ninh và di
c từ đất liền hay trong nội thuỷ và lãnh hải của nớc ta.
Vùng tiếp giáp lãnh hải đồng thời nằm trong phạm vi vùng đặc quyền
về kinh tế nên ngoài những nội dung pháp lý đã quy định cho vùng tiếp giáp
lãnh hải đã nói ở trên, nó còn chịu sự chi phối hoàn toàn của những nội dung

pháp lý đã quy định cho vùng đặc quyền về kinh tế.
Trong bản Tuyên bố 12/5/1977. Chính phủ ta quy định vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam tiếp liền với lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải đó
thành một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đờng cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải Việt Nam. Nh vậy, bề rộng của vùng đặc quyền về kinh tế thực
sự chỉ là 188 hải lý, bắt đầu từ ranh giới ngoài lãnh hải. Trong vùng đặc quyền
kinh tế, ngời nớc ta có đầy đủ các quyền do Công ớc về Luật Biển 1982
quy định . Nớc ta có chủ quyền hoàn toàn đối với các quyền lợi về kinh tế
trong vùng đặc quyền về kinh tế, nhng ta cũng vẫn để cho tàu thuyền và máy
bay nớc ngoài tự do hàng hải và hàng không và có thể cho phép các nhà khoa
học của các nớc khác tiến hành nghiên cứu trong vùng đặc quyền theo
những điều kiện mà Công ớc mới về Luật Biển đã trù định, Nghị định 242
HĐBT của Hội đồng Bộ trởng Việt Nam ngày 05/8/1991 đã quy định chi tiết.
Công ớc về Luật Biển 1982 đã đa ra một định nghĩa mới về thềm lục
địa. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền và các hải đảo
của quốc gia ven biển tính từ ranh giới phía ngoài của lãnh hải cho tới bờ

15

ngoài của rìa lục địa. Bờ ngoài của rìa lục địa đợc xác định theo những tiêu
chuẩn nhất định.


Hình 3. Một số đảo, bãi đá chính của quần đảo Hoàng Sa

Nhà nớc Việt Nam đã quy định : thềm lục địa Việt Nam bao gồm đáy
biển và lòng đất dới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt
Nam, mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa.
Nơi nào bờ biển ngoài của rìa lục địa cách đờng cơ sở dùng để tính lãnh hải

Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa ấy đợc mở rộng ra 200 hải lý
đờng cơ sở. Nớc Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò và khai
thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam.
Khi nghiên cứu biển Việt Nam, chúng ta còn cần chú ý tới một vùng
rộng lớn không phải là biển riêng của một quốc gia, đó là biển cả, mà có
ngời gọi là biển công hay biển quốc tế. Nói một cách khái quát, đây là vùng

16

biển nằm ngoài các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. Tất cả các nớc
đều đợc hởng các quyền và nghĩa vụ ngang nhau, không kể là nớc có biển
hay không có biển. Theo Công ớc 1982, Việt Nam có quyền tham gia vào
việc khai thác đáy đại dơng vùng biển quốc tế. Nếu không tham gia trực tiếp
khai thác cũng có quyền đợc hởng tất cả những lợi ích do việc cộng đồng
quốc tế khai thác đáy đại dơng đem lại.
1.1.3. Quần đảo Hoàng Sa - Trờng Sa
Vị trí địa lý và tầm quan trọng của hai quần đảo
Hoàng Sa - Trờng Sa
Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc tế ngày nay ghi là Parcels
và Sprathy hay Sratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trờng Sa của
Việt Nam đã từ lâu đời.
Thời xa các nhà hàng hải hiểu biết về Hoàng Sa và Trờng Sa còn rất
mơ hồ cha chính xác, họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn giữa Biển Đông
gồm các bãi, cụm đá ngầm nguy hiểm cho các tàu thuyền. Từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XVII, các nhà hàng hải các nớc phơng Tây đều có thể hiểu chung
hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trờng Sa làm một mà họ thờng gọi
dới cái tên Pracel hay Paracels. Tên Paracels, theo giáo s Piere Yves
Manguin, xuất xứ từ tiếng Bồ Đào Nha Ithas do Parcel (Paracel có nghĩa là
"đá ngầm"). Trên các bản đồ cổ của Việt Nam cũng nh của phơng Tây, cả
hai quần đảo đợc vẽ gộp liền với nhau. Nh bản đồ hàng hải của ngời Bồ

Đào Nha thế kỷ thứ XVI hay bản đồ về Biển Đông của nhà hàng hải Hà Lan
Henricus Van Langren vẽ năm 1595 về hai quần đảo Hoàng Sa và Trờng Sa
gộp chung làm một với cái tên Paracel Sau đó, ngời ta dần tách ra làm hai
khu vực. Nh trong "Đại Nam thống nhất toàn đồ" ở đời Nguyễn vẽ năm 1838
đã đề phía bắc là "Hoàng Sa" và phía nam "Vạn lý Trờng Sa". Sau này nhờ
những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hàng hải, ngời ta đã phân biệt đợc hai
quần đảo riêng biệt là Hoàng Sa và Trờng Sa (Paracel và Spratly). Cho mãi
tới đầu thế kỷ XX mới xuất hiện cái tên không rõ nguồn gốc là "Tây Sa quần
đảo" mà ngời Trung Quốc dùng để gọi Hoàng Sa của Việt Nam. Còn khoảng
giữa những năm 30, cái tên Nam Sa mới bắt đầu xuất hiện để gọi quần đảo
Trờng Sa của Việt Nam.
Quần đảo Hoàng Sa gồm 30 đảo, bãi đá cạn, nằm trong một vùng rộng

17

khoảng 14.000 km
2
kéo từ vĩ độ 15
0
45' đến 17
0
15' vĩ Bắc và từ 110
0
đến 113
0

kinh Đông, cách Đà Nẵng khoảng 170 hải lý về phía đông, cách cù lao Ré
220km (120 hải lý), cách Hải Nam Trung Quốc ở điểm gần nhất khoảng
260km (140 hải lý). Quần đảo gồm hai nhóm. Nhóm phía đông Việt Nam gọi
là AnVĩnh, còn ngời phơng Tây gọi là "Amphitrite" để kỷ niệm tên một

chiếc tàu Pháp lần đầu tiên đợc gửi sang Biển Đông bị bão đánh dạt vào vùng
này. Nhóm phía tây các đảo xếp thành hình cong nh trăng lỡi liềm nên Việt
Nam gọi là nhóm Lỡi Liềm và ngời phơng Tây thờng gọi là "Croissant".
Trong quần đảo Hoàng Sa có một đảo tên là Hoàng Sa, nhng đảo
Hoàng Sa không phải là đảo lớn nhất quần đảo mà là đảo Linh Côn và Phú
Lâm. Mỗi đảo có diện tích 1,6km
2
. Cách quần đảo Hoàng Sa về phía đông
Nam 300 hải lý (450km) là quần đảo Trờng Sa. Quần đảo này có tên quốc tế
Spratly do ngời Anh đặt năm 1867 (hình 3). Khi tàu của ngời thuyền
trởng Anh Spratly đến vùng quần đảo Trờng Sa, ông tởng đã phát kiến ra
một vùng quần đảo mới. Quần đảo Trờng Sa nằm trong khoảng vĩ độ 6
0
50'
đến 12
0
vĩ Bắc và kinh độ 111
0
30' đến 117
0
20' đông, gồm khoảng 100 hòn
đảo, đá, cồn, san hô và trải dài trên một diện tích rộng khoảng 160 đến 180
ngàn km
2
biển. Hòn đảo Trờng Sa gần đất liền nhất, cách Cam Ranh 450km
(250 hai lý). Tổng cộng phần đảo trên mặt nớc của quần đảo Trờng Sa cũng
nh Hoàng Sa đều xấp xỉ khoảng 10km
2
, nhng diện tích biển của quần đảo
Trờng Sa lớn gấp 10 lần so với vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo

Hoàng Sa và quần đảo Trờng Sa rất giàu có về mặt tài nguyên và đặc biệt
chúng có vị trí chiến lợc cực kỳ quan trọng đối với khu vực này. Quần đảo
Hoàng Sa và Trờng Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam. Việc xác định
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trờng Sa không
phải là căn cứ vào tầm quan trọng và vị trí chiến lợc của chúng đối với nớc
ta mà chình là xuất phát từ những chứng cớ lịch sử và những cơ sở pháp lý
vững chắc dựa trên những nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản của luật pháp và
tập quán quốc tế.
Việt Nam hiện đang có mặt bảo vệ 21 đảo và bãi ngầm trên quần đảo
Trờng Sa, đó là đảo Trờng Sa, Trờng Sa Đông, Song Tử Tây, Nam Yết,
Sinh Tồn, Sơn Ca, Sinh Tồn Đông, hòn Sập (Phan Vinh), An Bang, đá Lát, đá
Đông, đá Tây, đá Giữa, bãi Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên nữ, bãi Thuyền Chài,
đá Cô Lin, đá Len Đao, đá Lớn, đá Núi Thị.
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh ở Việt Nam và khó khăn trong lúc phải
xây dựng lại đất nớc, nhiều nớc đã nhảy vào chiếm đóng một số đảo và bãi

18

ngầm trong quần đảo Trờng Sa tạo nên tình thế tranh chấp chủ quyền với
Việt Nam. Hiện nay Philippin chiếm 8 đảo, Malaysia chiếm 3 đảo phía nam
quần đảo Trờng Sa, Đài Loan chiếm 1 đảo lớn nhất quần đảo và từ tháng 2
năm 1988 tới nay, Trung Quốc đã chiếm 8 bãi ngầm trong quần đảo Trờng
Sa và chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của nớc ta.
Quan điểm và lập trờng của Chính phủ ta từ trớc tới nay đối với hai
quần đảo này đã rõ ràng và nhiều lần đợc công bố trong các văn kiện chính
thức của Nhà nớc với tinh thần nh sau :
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trờng Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam từ
nhiều thế kỷ nay. Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo ngay từ khi
nó cha thuộc chủ quyền thực sự của bất kỳ quốc gia nào. Những bằng
chứng lịch sử, những căn cứ pháp lý mà phía Việt Nam đã đa ra và sẵn

sàng tiếp tục đa ra để chứng minh sự thực đó.
Nhiều thế kỷ trớc đây, những hành động thực hiện chủ quyền của các
Nhà nớc Việt Nam đối với những quần đảo trên cha hề vấp phải bất cứ
một phản ứng nào của bất cứ một nớc nào trong khu vực hoặc ngoài khu
vực.
Chính sách của chúng ta trong việc giải quyết vấn đề hai quần đảo là :
" kiên quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình đồng thời tôn
trọng nguyên tắc không dùng vũ lực đe doạ hay dùng vũ lực để giải quyết
tranh chấp, trớc sau nh một chủ trơng giải quyết bằng thơng lợng hoà
bình mọi tranh chấp".
1.2. Lịch sử điều tra nghiên cứu Biển Đông Việt Nam
Sự nghiệp điều tra nghiên cứu Biển Đông Việt Nam thực sự đợc tiến
hành một cách hệ thống từ 1930, ngày thành lập viện Hải Dơng học Đông
Dơng, sau đó là Hải học viện Nha Trang, ngày nay là Viện Hải Dơng học
Nha Trang và từ 1960 khi một loạt các cơ quan nghiên cứu biển miền Bắc ra
đời nh : Trạm nghiên cứu biển Hải Phòng (ngày nay là phân viện Hải dơng
học Hải Phòng), Trạm Nghiên cứu Thuỷ sản Hải Phòng (nay là Viện Nghiên
cứu Hải sản Hải Phòng), phòng hải văn, nha khí tợng Hà Nội (nay là Trung
tâm KTTV biển) v.v
Từ khi thành lập đến 1930 dới sự chỉ đạo của nhiều nhà khoa học có

19

tên tuổi nh A. Kremp, P.Chevey, E.Saurin, R. Serene. Viện hải dơng học
Đông Dơng đã thực hiện một khối lớn công tác điều tra, nghiên cứu Biển
Đông về nhiều mặt. Từ 1939 sau khi đại chiến thế giới II bùng nổ và cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc của Việt Nam kéo dài cho đến năm 1954 công
tác điều tra nghiên cứu Biển Đông mới đợc phục hồi. Từ 1960 đến nay có hai
giai đoạn hoạt động điều tra nghiên cứu nh sau :
1.2.1. Hoạt động điều tra nghiên cứu biển ở miền Bắc Việt Nam trong

thời gian 1954 - 1975
Từ năm 1954, trớc những yêu cầu mới về xây dựng và bảo vệ công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ ta có chủ
trơng khai thác, sử dụng biển phục vụ phát triển kinh tế, quốc phòng. Để thực
hiện chủ trơng này, Nhà nớc đã thành lập một số cơ quan nghiên cứu khoa
học chuyên trách hoặc bán chuyên trách vể biển nh : Trạm Nghiên cứu Biển
Hải Phòng thuộc Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nớc đợc thành lập năm
1961, đến năm 1967 phát triển thành Viện Nghiên cứu Biển Hải Phòng. Trạm
Nghiên cứu Cá Biển thuộc Tổng cục Thuỷ sản đựoc thành lập năm 1961, đến
năm 1967 phát triển thành Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng. Đài Khí
Tợng Trung ơng thuộc Nha Khí Tơng thành lập năm 1955, đa số với một
số trạm quan trắc khí tợng hải văn tại một số khu vực ven biển từ Móng Cái
tới Cửa Tùng. Đội Khảo sát Thiết kế Giao thông cũng đợc thành lập năm
1960. Nhà nớccũng có chủ trơng đào tạo chuyên gia về biển từ các nớc
Liên Xô , Trung Quốc từ 1957 và từ 1966 trờng Đại học Tổng hợp Hà Nội
bắt đầu đào tạo các chuyên gia khoa học biển đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế của đất nớc. Quan hệ hợp tác quốc tế phát triển giữa nớc ta với các nớc
XHCN thời đó, trớc hết là với Liên Xô, Trung Quốc, cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác điều tra nghiên cứu biển Việt Nam. Hàng loạt các
chơng trình hợp tác điều tra vùng biển vịnh Bắc Bộ đợc thực hiện, có thể hệ
thống lại nh sau:
Chơng trình Điều tra Cơ bản Tổng hợp vịnh Bắc Bộ (1959 - 1962)
Chơng trình Điều tra Cơ bản Tổng hợp vịnh Bắc Bộ là một kế hoạch
lớn của Nhà nớc, do UBKH Nhà nớc chủ trì thực hiện với sự phối hợp lực
lợng của ngành Thuỷ sản, Khí tợng, Hải quân, Giao thông và hợp tác với
UBKH Trung Quốc điều tra vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải hai nớc, rộng
128.300 km
2
. Kế hoạch điều tra trên biển gồm hai đợt:


20

Từ tháng 9/1959 đến tháng 12/1960 dùng 6 tầu điều tra (Hải Điều : 01, 02,
03; Nam Ng : 228, 402 và Hồng Kông 1) thay thế nhau hàng tháng đo đạc
các số liệu và thu thập mẫu vật trên 88 trạm ở 16 mặt cắt của vịnh Bắc Bộ.
Từ tháng 12/1961 đến 11/1962 dùng 2 tầu (Hải Điều 01, Việt Xô 33) thay
nhau điều tra trên 41 trạm ở 9 mặt cắt với nhiệm vụ điều tra bổ sung.
Nội dung điều tra cơ bản tổng hợp bao gồm các yếu tố vật lý, khí tợng
và thuỷ hoá, địa chất, địa hình, sinh vật nổi, sinh vậy đáy và trứng cá bột. với
nguồn số liệu điều tra và mẫu vật thu đợc khá phong phú đó, đã phân tích
nghiên cứu rút ra những kết luận cơ bản về cấu trúc không gian ba chiều và
những dao động theo chu kỳ mùa, ngày trong năm của nhiều hiện tợng về khí
tợng, thuỷ văn, động lực nớc biển, hoá học, địa chất biển, địa hình, sinh vật
nổi, sinh vật đáy và trứng cá bột, biên soạn tổng hợp thành 60 báo cáo chuyền
đề khoa học, một bộ Atlas vịnh Bắc Bộ tỉ lệ 1 : 2.000.000 và một bộ su tập
chuẩn sinh vật vịnh Bắc Bộ.
Chơng trình Điều tra Nguồn lợi Cá đáy vịnh Bắc Bộ (1959-1962)
Đồng thời với Chơng trình Điều tra Cơ bản Tổng hợp vịnh Bắc Bộ,
trong những năm 1959 - 1962. UBKH Nhà nớc cũng thực hiện một chơng
trình điều tra nguồn lợi cá đáy vịnh Bắc Bộ với sự phối hợp lực lợng của các
cơ quan thuộc Tổng cục Thuỷ sản Việt Nam và UBKH Trung Quốc, nhằm
mục đích xác định các bãi cá đáy, đánh giá nguồn lợi cá đáy và gần đáy,
nghiên cứu sinh học một số loài cá sản lợng cao, phục vụ cho kinh tế nghề cá
ở vịnh Bắc Bộ.
Kế hoạch điều tra trên Biển gồm hai đợt:
Từ tháng 9/1959 đến tháng 12/1960, các tầu đánh cá thí nghiện Tuệ Ng
219, Tuệ Ng 306 và Tuệ Ng 220 hàng tháng luân phiên kéo lới trên 98
trạm phân bố trên toàn vịnh, cự ly từ 15 - 30 hải lý.
Từ tháng 12/1961 đến tháng 11/1962, hai tàu đánh cá thí nghiệm Tiền
Phong và Việt Trung 102 đã thay nhau hàng tháng kéo lới tại 41 trạm

phân bố trên toàn vịnh.
Trong hai đợt điều tra biển đã kéo 1.355 mẻ lới thí nghiệm, phân tích
112 tấn cá, thu thập số liệu sinh học 696.000 con cá thuộc 9 loài có sản lợng
cao. Trong khi kéo lới thí nghiệm còn đồng thời đo đạc các số liệu ngoại

21

cảnh và mẫu vật môi trờng.
Kết quả nghiên cứu phân tích chỉnh lý các số liệu và mẫu vật cho biết :
vịnh Bắc Bộ có khoảng trên 960 loài cá thuộc 457 giống, 28 bộ, trong đó có
30 loài sản lợng cao, khả năng khai thác hàng năm từ 30 - 40 vạn tấn. Tất cả
các kết quả nghiên cứu đã đợc tổng hợp thành báo cáo ng trờng và tập bản
đồ đánh cá lới giã vịnh Bắc Bộ và 9 báo cáo sinh học các loài cá có sản lợng
đánh bắt cao.
Điều tra cá tầng đáy và thăm dò cá tầng trên ở vịnh Bắc Bộ
Theo thoả thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô trong 2 năm
1960 - 1961, Viện Hải dơng học và Nghề cá Thái Bình Dơng (TINRO) đã
hợp tác với Tổng cục Thuỷ sản Việt Nam thực hiện 5 chuyến điều tra trong
năm 1960 và 4 chuyến trong năm 1961 ở 105 trạm trong vịnh Bắc Bộ và một
số chuyến ở 51 trạm phía tây Biển Đông (hình 4). Trên cơ sở các kết quả thu
đợc đã rút ra đợc những kết luận đánh giá trữ lợng và khả năng khai thác
cá biển ở vịnh Bắc Bộ, nhận định về sự biến động theo mùa của các yếu tố
thuỷ học cùng các hiện tợng thuỷ sinh vật ảnh hởng đến biến động trữ
lợng và tập tính cá vịnh Bắc Bộ.
Các hoạt động điều tra cơ bản vùng biển ven bờ miền Bắc Việt Nam
* Điều tra địa chất địa hình vùng ven bờ khu vực Đầm Hà - Móng Cái
(1967-1969)
Viện Nghiên cứu Biển đã tổ chức điều tra vùng biển ven bờ biển từ
Đầm Hà đến Móng Cái rộng 1.600 km
2

trên 15 mặt cắt với 63 trạm. Nội dung
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào một số đặc điểm địa chất, địa hình đáy và bờ
biển, các bậc thềm biển, sự phân bố các loại trầm tích tầng mặt, khoáng vật và
một số yếu tố khí tợng thuỷ văn ven biển.
* Điều tra tổng hợp vùng biển ven bờ Quảng Ninh - Hải Phòng (1971-
1972).
Từ tháng 2/1971 đến tháng 3/1972 Viện Nghiên cứu Biển đã sử dụng 2
tầu vỏ gỗ 60 mã lực NCB-01 và NCB-02 thực hiện 13 chuyến điều tra tổng
hợp vùng biển ở độ sâu 5 m đến 30m, từ Mũi Ngọc đến Cát Bà rộng 5.800
km
2
, bao gồm các vịnh Bái Tử Long, Hạ Long cho tới đảo Cát Bà. Nội dung
điều tra tổng hợp gồm : một số vấn đề về khí tợng thuỷ văn, động lực, thuỷ
hoá, địa chất, địa hình, sinh vật đáy, sinh vật nổi, trứng cá, cá bột ở 41 trạm

22

(trong đó có trạm do liên tục trong 24 giờ trong 4 tháng liền đại diện của 4
mùa). Kết quả nghiên cứu đã cho biết về sự phân bố không gian, sự biến động
theo mùa của những yếu tố vật lý thuỷ văn, hoá học địa chất, địa hình, thành
phần giống, loài, sinh vật lợng và một số tập tính sinh thái tự nhiên của sinh
vật đáy, sinh vật phù du, trứng cá và cá bột.



Hình 4 Các trạm khảo sất hải dơng học và đánh cá của
Đoàn Nghiên cứu Việt-Xô tại vịnh Bắc Bộ (1960-1961)
1. Trạm nghiên cứu hải dơng học 2. Vùng triều đợc nghiên cứu
Hải Nam
Hải Phòng

Hải Khẩu

23




* Điều tra nguồn lợi cá và sinh vật ven bờ biển miền Bắc Việt Nam.
Từ 1965 - 1975, Viện Nghiên cứu Biển đã thực hiện nhiều đợt điều tra
nguồn lợi cá và sinh vật ven bờ biển., điều tra khu hệ cá Quảng Ninh (1967 -
1968). Nam Hà (1967-1971), Hải Phòng - Thái Bình (1971-1973), Thanh Hoá
- Quảng Bình (1973-1975), điều tra nguồn lợi động vật vùng triều Quảng Ninh
(1967-1968), Nam Hà (1970 - 1971), điều tra nguồn lợi động vật vùng triều
Hải Phòng (1973-1976), điều tra ba cửa sông ờ Nam Hà (1970-1971). Từ
1964-1976, Viện Nghiên cứu Biển tổ chức điều tra nguồn lợi rong biển ven
bờ từ Quảng Ninh tới Nghệ Tĩnh.
Trạm Nghiên cứu Cá biển và Trạm Nghiên cứu Nuôi trồng Hải sản
cũng tổ chức nhiều đợt điều tra khác : Điều tra nguồn lợi cá phía tây vịnh Bắc
Bộ (1964-1965), điều tra di giống trai ngọc Quảng Ninh - Hải Phòng (1970-
1971), điều tra nguồn lợi tôm và bãi tôm (1971-1973), điều tra bãi cá và kiểm
tra công tác dự báo cá (1973-1975).
Điều tra vùng biển ven bờ phục vụ chuyên môn
Điều tra chuyên ngành nhằm phục vụ công tác khảo sát, thiết kế các
công trình xây dựng cầu cảng, chỉnh trị luồng lạch , cải tạo bến bãi, chống sa
bồi của Công ty Khảo sát Thiết kế Đờng bộ Giao thông (1959-1975), đo
sâu lập hải đồ, đo mực nớc dự báo thuỷ triều của Phòng Bảo đảm Hàng hải
Bộ T lệnh Hải quân (1959-1975), điều tra sự biến động theo mùa của nồng
độ muối (S%o) và những ảnh hởng của thời tiết đến sản lợng muối ở Văn
Lý (1970-1971) và Bằng La - Hải Phòng (1973-1975).
1.2.2. Hoạt động điều tra nghiên cứu biển ở miền Nam Việt Nam trong

thời kỳ 1954-1975
Năm 1954 nhà đơng cục Pháp ở Đông Dơng chuyển giao cho chính
quyền miền Nam Việt Nam thời đó Viện Hải Dơng học Đông Dơng, sau
đổi tên thành Hải học Viện Nha Trang. Từ 1954 tới 1975, Hải học Viện Nha
Trang do có nhiều khó khăn về tổ chức, tài chính, phơng tiện kỹ thuật nên
hoạt động chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về sinh vật biển, sử dụng các t
liệu đã có. Ngoài ra Viện cũng đã tổ chức hoặc tham gia thực hiện một số

24

chuyên khảo sát nhỏ nh : điều tra đảo Phú Quý, điều tra trữ lợng phân chim
trên các đảo Hoàng Sa và Trờng Sa (1973), tham gia khảo sát địa chất vùng
Cam Ranh, Côn đảo (1965-1966), nghiên cứu âm học, đo đạc địa hình, quan
trắc thuỷ triều và tính hằng số điều hoà, dự báo mực nớc biển ở một số nơi.
Trong thời gian này, Hải học Viện Nha Trang là thành viên của tổ chức IOC,
tham gia một số chơng trình nghiên cứu biển và hải dơng học khu vực nh
NAGA (1959-1961), CSK (1965-1977).
Hoạt động điều tra nghiên cứu biển quan trọng ở vùng biển phía nam
Biển Đông do Viện Hải dơng Scripps California Mỹ hợp tác với chính quyền
miền Nam tổ chức thực hiện với sự tham gia của Sở Nghề cá và Hải quân Thái
Lan, nhằm tìm hiểu những vấn đề cơ bản về điều kiện tự nhiên (hoàn lu
nớc, thuỷ hoá, địa hình đáy biển, năng suất sinh học), đánh giá nguồn lợi
sinh vật ở vùng biển phía đông nam Việt Nam và vịnh Thái Lan. Tàu điều tra
chủ yếu là tàu "Stranger" của Mỹ và một số xuồng máy của Hải quân và Hải
học viện Nha Trang. Chơng trình điều tra đợc tiến hành từ tháng 6/1959 tới
tháng 6/1961, thực hiện 5 chuyến khảo sát ở vùng biển phía nam Việt Nam, 6
chuyến ở vịnh Thái Lan, bao gồm các chuyến khảo sát cơ bản, mô tả khái quát
trong năm đầu và các chuyến bổ sung trong năm sau. Các tuyến điều tra gồm
mặt cắt ở vịnh Thái Lan và 6 mặt cắt ở vùng Biển Đông nam Việt Nam từ Đà
Nẵng tới Cà Mau. Các trạm khảo sát cách xa nhau 30-40 hải lý, tới độ sâu

1.000m, một số trạm tới 4.000m. Ngoài các trạm điều tra mặt rộng còn có các
trạm khảo sát thuỷ văn liên tục ngày đêm, các trạm đặc biệt khảo sát địa hình
và chụp ảnh các hiện tợng đặc biệt ở đáy biển (hình 5).
Kết quả chơng trình NAGA đã đợc công bố từ 1960-1973 trong 17
báo cáo khoa học về các vấn đề vật lý thuỷ văn (Wyrtki. 1961 ; Robinson,
1974), cấu trúc rìa lục địa (Parke, Emery, Szymankiawics, Reynolds, 1971),
sinh vật (Alvarino, 1967; Brinton, 1961 :Imbach, 1967; Shino, 1963;
Stephenson, 1967, và các tác giả khác ). Đây là những t liệu rất có giá trị,
với những số liệu và các luận điểm rất cơ bản về các yếu tố điều kiện tự nhiên,
đặc biệt là về vật lý thuỷ văn của vùng biển phía nam Việt Nam và Biển Đông.
b. Chơng trình khảo sát nghề cá viễn duyên Nam Việt Nam (1968-1971)
Chơng trình này đợc thực hiện trong thời gian 1968-1971 với sự tài
trợ của tổ chức FAO, Hoa Kỳ và Hà Lan. Mục tiêu của chơng trình là tìm
thêm ng trờng và đối tợng khai thác nằm ngoài khơi Biển Đông, phục vụ
cho nhiệm vụ đánh bắt hải sản vùng biển xa bờ. Phạm vi điều tra gồm toàn

×