Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

KINH TẾ VĨ MÔ - CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 16: TIÊU DÙNG pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.01 KB, 13 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
49
CÂU HỎI ÔN TẬP
CHƯƠNG 16
TIÊU DÙNG
1. Ba phỏng đoán của Keynes về hàm tiêu dùng là gì?
2. Hãy mô tả bằng chứng nhất quán với các phỏng đoán của Keynes và bằng
chứng không nhất quán với các phỏng đoán đó.
3. Các giả thiết về vòng đời và thu nhập thường xuyên giải quyết như thế nào về
những nhóm bằng chứng xem ra mâu thuẫn nhau liên quan đến hành vi tiêu
dùng?
4. Sử dụng mô hình tiêu dùng của Fisher để phân tích sự gia tăng thu nhập thời
kỳ thứ hai. Hãy so sánh trường hợp người tiêu dùng đứng trước ràng buộc giới
hạn vay mượn với trường hợp không có giới hạn này.
5. Hãy giải thích tại sao những thay đổi tiêu dùng không thể dự đoán được nếu
người tiêu dùng hành động theo giả thiết thu nhập thường xuyên và có những
kỳ vọng hợp lý.
ĐÁP ÁN
1. Thứ nhất, Keynes phỏng đoán rằng khuynh hướng tiêu dùng biên – tiêu dùng
tăng thêm khi thu nhập tăng thêm 1
đơn vị (1 đô la chẳng hạn) – nằm trong
khoảng từ không đến một. Điều này có nghĩa là nếu thu nhập của một cá nhân
tăng thêm một USD, cả tiêu dùng và tiết kiệm đều tăng.
Thứ hai, Keynes phỏng đoán rằng tỷ lệ tiêu dùng trên thu nhập – được gọi là
khuynh hướng tiêu dùng trung bình – giảm khi thu nhập tăng. Điều này có
nghĩa là người giàu tiết kiệm một tỷ lệ cao hơn trong thu nhậ
p của họ so với


người nghèo.
Thứ ba, Keynes phỏng đoán rằng thu nhập là yếu tố cơ bản quyết định tiêu
dùng. Một cách cụ thể, ông tin rằng lãi suất không có ảnh hưởng quan trọng
đến tiêu dùng.
Một hàm tiêu dùng thoả ba phỏng đoán này là:
C =
C + cY.
C
là “tiêu dùng tự định” không đổi, và Y là thu nhập khả dụng; c là khuynh
hướng tiêu dùng biên, có giá trị trong khoảng từ không đến một.
2. Bằng chứng nhất quán với các phỏng đoán của Keynes xuất phát từ các nghiên
cứu về số liệu hộ gia đình và các chuỗi số liệu trong thời gian ngắn. Có hai
quan sát từ số liệu hộ gia đình. Thứ nhất, những hộ gia đình có thu nhập cao
hơn thì tiêu dùng nhiều hơn và ti
ết kiệm nhiều hơn, hàm ý rằng khuynh hướng
tiêu dùng biên nằm trong khoảng từ không đến một. Thứ hai, những hộ gia
đình có thu nhập cao hơn thì tiết kiệm một tỷ lệ cao hơn trong thu nhập của họ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
50
so với những hộ gia đình có thu nhập thấp hơn, có nghĩa là khuynh hướng tiêu
dùng trung bình giảm so với thu nhập.
Ngoài ra còn có ba quan sát từ chuỗi số liệu ngắn hạn. Thứ nhất, trong những
năm có tổng thu nhập thấp, cả tiêu dùng và tiết kiệm đều thấp, có nghĩa là
khuynh hướng tiêu dùng biên nằm trong khoảng từ không đến một. Thứ hai,
trong những năm có thu nhập thấp, tỷ số tiêu dùng trên thu nhập cao, hàm ý
rằng khuynh hướ

ng tiêu dùng trung bình giảm khi thu nhập tăng. Thứ ba,
tương quan giữa thu nhập và tiêu dùng xem ra mạnh đến nỗi không có biến số
nào khác ngoài thu nhập tỏ ra quan trọng trong việc giải thích tiêu dùng.
Nhóm bằng chứng thứ nhất không ủng hộ ba phỏng đoán của Keynes xuất
phát từ sự thất bại của tình trạng “đình trệ kéo dài” (secular stagnation) xảy ra
sau Chiến tranh thế giới II. Dựa vào hàm tiêu dùng của Keynes, một số nhà
kinh tế học kỳ vọng r
ằng khi thu nhập tăng lên theo thời gian, tỷ lệ tiết kiệm
cũng sẽ tăng; họ sợ rằng sẽ không có đủ các dự án đầu tư có thể sinh lợi để
hấp thu lượng tiết kiệm này, và nền kinh tế có thể bước vào một thời kỳ đình
đốn lâu dài với thời hạn vô tận. Điều này đã không xảy ra.
Nhóm bằng chứng thứ hai chống lại các phỏng
đoán của Keynes xuất phát từ
các nghiên cứu về chuỗi số liệu tiêu dùng và thu nhập trong thời gian dài.
Simon Kuznets tìm thấy tỷ số tiêu dùng trên thu nhập ổn định từ thập niên này
sang thập niên khác; nghĩa là, khuynh hướng tiêu dùng trung bình xem ra
không giảm theo thời gian khi thu nhập tăng lên.
3. Cả hai giả thiết về vòng đời và thu nhập thường xuyên đều nhấn mạnh rằng độ
dài thời gian liên quan đến một cá nhân thường là dài hơn một năm. Vì vậy,
tiêu dùng không ch
ỉ đơn thuần là một hàm theo thu nhập hiện tại.
Giả thiết vòng đời nhấn mạnh rằng thu nhập thay đổi theo đời sống của một cá
nhân; tiết kiệm cho phép người tiêu dùng chuyển một phần thu nhập ở những
thời điểm có thu nhập cao trong đời sang những lúc có thu nhập thấp. Giả thiết
vòng đời dự đoán rằng tiêu dùng sẽ phụ thuộc vào cả hai yếu tố củ
a cải và thu
nhập, vì những yếu tố này xác định nguồn lực trong suốt cuộc đời của một
người. Vì thế, chúng ta kỳ vọng hàm tiêu dùng có dạng:
C =
α

W +
β
Y.
Trong ngắn hạn, với của cải cố định, ta có hàm tiêu dùng Keynes “theo quy
ước”. Trong dài hạn, của cải gia tăng, cho nên hàm tiêu dùng ngắn hạn dịch
lên trên, như thể hiện trong hình 16-1.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
51
Hình 16-1
Tiêu dùng

Thu nhập

Giả thiết thu nhập thường xuyên cũng cho rằng dân chúng cố gắng duy trì mức
tiêu dùng đều đặn, cho dù trọng tâm của giả thiết này có hơi khác. Thay vì tập
trung vào diễn tiến thu nhập trong suốt cuộc đời, giả thiết thu nhập thường
xuyên nhấn mạnh rằng dân chúng trải qua những thay đổi ngẫu nhiên và nhất
thời trong thu nhập của họ từ năm này sang năm khác. Giả thiế
t thu nhập
thường xuyên xem thu nhập hiện tại là tổng của thu nhập thường xuyên Y
p

thu nhập tạm thời Y
t
. Milton Friedman đưa ra giả thiết rằng tiêu dùng phụ
thuộc chủ yếu vào thu nhập thường xuyên:

C =
α
Y
p
Giả thiết thu nhập thường xuyên giải thích sự rắc rối về tiêu dùng thông qua đề
xuất rằng hàm tiêu dùng Keynes theo dạng chuẩn sử dụng sai biến số thu
nhập. Ví dụ, nếu một hộ gia đình có thu nhập tạm thời cao, họ sẽ không có tiêu
dùng cao hơn; vì thế, nếu phần lớn sự biến thiên thu nhập là nhất thời, một nhà
nghiên cứu cũng sẽ tìm ra rằng những hộ gia đình thu nhập cao, bình quân, có
khuynh hướng tiêu dùng trung bình thấp hơn. Điều này cũng đúng trong chuỗi
số liệu ngắn hạn nếu phần lớn sự biến thiên thu nhập qua các năm có tính tạm
thời. Tuy nhiên, trong chuỗi số liệu dài hạn, những biến thiên của thu nhập
nhìn chung có tính thường xuyên; do đó, người tiêu dùng không tiết kiệm
những lượng thu nhập gia tăng, mà thay vì thế, họ tiêu dùng chúng.
4. Mô hình tiêu dùng của Fisher xem xét cách thức một người tiêu dùng sống
trong hai thời k
ỳ sẽ thực hiện việc chọn lựa tiêu dùng như thế nào để càng
thoải mái, khấm khá hơn càng tốt. Hình 16-2 (A) trình bày ảnh hưởng của sự
gia tăng thu nhập thời kỳ thứ hai nếu người tiêu dùng không đứng trước ràng
C

αw’
Y

αw
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi

52
buộc giới hạn về vay mượn. Đường giới hạn ngân sách dịch chuyển ra ngoài,
và người tiêu dùng tăng tiêu dùng trong cả thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ hai.
Hình 16-2A
Tiêu dùng thời kỳ thứ hai

Tiêu dùng thời kỳ thứ nhất
Hình 16-2 (B) cho ta thấy điều gì xảy ra nếu có sự ràng buộc giới hạn vay
mượn. Người tiêu dùng muốn vay mượn để tăng tiêu dùng trong thời kỳ thứ
nh
ất nhưng không thể. Nếu thu nhập tăng trong thời kỳ thứ hai, người tiêu
dùng không thể tăng tiêu dùng thời kỳ thứ nhất. Do đó, người tiêu dùng tiếp
tục tiêu dùng toàn bộ thu nhập của mình ở mỗi thời kỷ. Nghĩa là, đối với
những người tiêu dùng muốn vay mượn nhưng không thể vay mượn, tiêu dùng
chỉ phụ thuộc vào thu nhập hiện tại.
Giới hạn
ngân sách cũ
C
2
I
1

C
1
B
A
Giới hạn
ngân sách mới
I
2


Y
2

Y
2
+ ∆Y
2
Y
1
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
53
Hình 16-2B
Tiêu dùng thời kỳ thứ hai

Tiêu dùng thời kỳ thứ nhất
5. Giả thiết thu nhập thường xuyên cho rằng người tiêu dùng cố gắng ổn định
tiêu dùng theo thời gian, cho nên tiêu dùng hiện tại dựa vào kỳ vọng hiện tại
về thu nhập trong cuộc đời. Từ đó suy ra rằng những thay đổi của tiêu dùng
phản ánh “những sự kiện bất ngờ” về thu nhập trong cuộc đờ
i. Nếu người tiêu
dùng có những kỳ vọng hợp lý, thì những sự kiện bất ngờ này không thể dự
đoán được. Vì thế, thay đổi của tiêu dùng cũng không thể dự đoán được.

Giới hạn
ngân sách


C
2
I
1

C
1
B
A
I
2

Y
2

Y
2
+ ∆Y
2
Giới hạn
ngân sách mới
Y
1

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi

54
CÂU HỎI ÔN TẬP
CHƯƠNG 17
ĐẦU TƯ
1. Trong mô hình tân cổ điển về đầu tư cố định trong kinh doanh, dưới những
điều kiện nào doanh nghiệp sẽ nhận thấy có lợi khi đầu tư bổ sung thêm vào
trữ lượng vốn của họ?
2. q-Tobin là gì, và nó liên quan gì đến đầu tư?
3. Hãy giải thích tại sao tăng lãi suất làm giảm lượng đầu tư nhà ở.
4. Liệt kê bốn lý do khiến các doanh nghiệp có thể lưu gi
ữ hàng tồn kho.
ĐÁP ÁN
1. Trong mô hình tân cổ điển về đầu tư cố định trong kinh doanh, các doanh
nghiệp sẽ nhận thấy có lợi khi đầu tư bổ sung thêm vào trữ lượng vốn của họ
nếu giá thuê vốn thực lớn hơn chi phí vốn. Giá thuê vốn thực phụ thuộc vào
sản phẩm biên của vốn, trong khi chi phí vốn phụ thuộc vào lãi suất thực, tỷ lệ
khấu hao, và giá tương
đối của hàng hoá vốn.
2. q-Tobin là tỷ số giữa giá thị trường của vốn đầu tư đã trang bị với chi phí thay
thế vốn đầu tư đó. Tobin lập luận rằng đầu tư ròng sẽ phụ thuộc vào việc q lớn
hơn hay nhỏ hơn một. Nếu q lớn hơn một, thì thị trường cổ phiếu đánh giá vốn
đầu tư đã trang bị cao h
ơn chi phí thay thế vốn đầu tư đó. Điều này tạo ra động
cơ thôi thúc đầu tư, vì các nhà quản lý công ty có thể tăng giá trị thị trường
của cổ phiếu công ty thông qua mua thêm (trang bị thêm) vốn đầu tư. Ngược
lại, nếu q nhỏ hơn một, thì thị trường cổ phiếu đánh giá vốn đầu tư đã trang bị
thấp hơn chi phí thay thế. Trong trường hợp này, các nhà quản lý sẽ
không
thay thế vốn đầu tư khi nó hao mòn.
Lý thuyết này cung cấp một phương cách khác để diễn đạt mô hình tân cổ điển

về đầu tư. Ví dụ, nếu sản phẩm biên của vốn vượt quá chi phí vốn, thì vốn đầu
tư đã trang bị tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận này làm cho các doanh nghiệp mong
muốn được sở hữu công ty, làm tăng giá trị thị trường của cổ phiếu công ty, có
ngh
ĩa là q có giá trị cao. Vì thế, q-Tobin thể hiện động cơ đầu tư, vì nó phản
ánh khả năng sinh lợi tương lai được kỳ vọng và khả năng sinh lợi hiện tại của
vốn.
3. Tăng lãi suất dẫn đến giảm đầu tư nhà ở vì nó làm giảm cầu nhà ở. Nhiều
người nhận được các khoản vay trả góp để mua nhà, và tăng lãi suất làm tăng
chi phí của khoản vay. Ngay c
ả đối với những người không vay mượn để mua
nhà, lãi suất đo lường chi phí cơ hội của việc giữ của cải bằng nhà cửa thay vì
đưa của cải đó vào ngân hàng.
Hình 17-1 trình bày ảnh hưởng của việc tăng lãi suất đối với đầu tư nhà ở. Lãi
suất cao hơn làm dịch chuyển đường cầu nhà ở hướng xuống, như thể hiện qua
hình 17-1 (A). Điều này làm cho giá tươ
ng đối của nhà ở giảm xuống, và như
biểu thị trong hình 17-1 (B), giá tương đối của nhà ở thấp hơn làm giảm đầu tư
nhà ở.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
55
Hình 17-1
Giá tương đối của nhà ở

Trữ lượng nhà ở Đầu tư vào nhà ở
(A) (B)


4. Những lý do giải thích tại sao các doanh nghiệp có thể giữ hàng tồn kho bao
gồm:
a. Ổn định sản xuất: Doanh nghiệp có thể giữ hàng tồn kho để duy trì mức sản
xuất đều đặn theo thời gian. Thay vì điều chỉnh sản xuất để đáp ứng trước
những bi
ến động của doanh số, việc sản xuất hàng hoá theo một tốc độ không
đổi có thể rẻ hơn. Vì thế, doanh nghiệp tăng hàng tồn kho khi doanh số bán
thấp và giảm hàng tồn kho khi doanh số cao.
b. Hàng tồn kho như một yếu tố sản xuất: Việc giữ hàng tồn kho có thể cho phép
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Ví dụ, một cửa hàng bán lẻ có thể giữ
hàng tồn kho để
luôn luôn có sẵn hàng hoá trưng bày cho khách hàng. Một
công ty chế tạo có thể duy trì tồn kho các phụ tùng thay thế để giảm thời gian
tạm ngưng dây chuyền sản xuất khi máy móc bị hỏng hóc.
c. Tránh bị hết hàng. Một công ty có thể giữ hàng tồn kho để tránh bị hết hàng
hoá khi doanh số đột ngột tăng cao. Các công ty thường phải thực hiện các
quyết định sản xuất trước khi biết liệu có bao nhiêu khách hàng sẽ có nhu cầu
mua hàng. Nếu c
ầu vượt quá mức sản xuất và không có hàng tồn kho, hàng
hoá sẽ bán hết trong một thời gian và công ty sẽ mất doanh số và lợi nhuận.
d. Sản phẩm dở dang: Nhiều loại hàng hoá đòi hỏi phải đi qua một số công đoạn
sản xuất và do đó phải mất thời gian để làm ra chúng. Khi một sản phẩm chưa
được sản xuất hoàn chỉnh, các thành phần cấu tạo của nó được xem nh
ư một
phần trong hàng tồn kho của doanh nghiệp.
Cầu
P
H
/P

K
H
Cung

P
H
/P
Cung

I
H
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
56
CÂU HỎI ÔN TẬP
CHƯƠNG 18
CUNG TIỀN VÀ CẦU TIỀN
1. Giải thích cách tạo ra tiền của các ngân hàng.
2. Ba cách tác động đến cung tiền của Cục dữ trữ liên bang là gì?
3. Tại sao một cuộc khủng hoảng ngân hàng có thể dẫn đến giảm cung tiền?
4. Giải thích sự khác biệt giữa các lý thuyết danh mục đầu tư (tài sản tài chính)
và lý thuyết giao dịch của cầu tiền.
5. Theo mô hình Baumol-Tobin, đâu là những yếu tố xác định mức độ thườ
ng
xuyên đi đến ngân hàng của dân chúng? Quyết định này có liên quan gì đến
cầu tiền?
6. Bằng cách nào mà sự tồn tại của những tài sản gần giống tiền (bán tệ, near

money) làm phức tạp việc thực hiện chính sách tiền tệ?
ĐÁP ÁN
1. Trong một hệ thống ngân hàng dự trữ theo tỷ lệ, các ngân hàng tạo ra tiền vì
họ chỉ duy trì một phần nhỏ tiền gửi dưới dạng d
ự trữ mà thôi. Họ sử dụng
phần tiền gửi còn lại để cho vay. Cách dễ nhất để ta xem ngân hàng tạo ra tiền
như thế nào là thông qua việc xem xét các bảng cân đối của hai ngân hàng,
như trong hình 18-1.
Hình 18-1
A. Bảng cân đối – Ngân hàng thứ nhất Cung tiền = 1000 USD

Tài sản Nghĩa vụ nợ
Dự trữ 1000 USD


Tiền gửi 1000 USD
B. Bảng cân đối – Ngân hàng thứ nhất Cung tiền = 1800 USD

Tài sản Nghĩa vụ nợ
Dự trữ 200 USD
Cho vay 800

Tiền gửi 1000 USD
C. Bảng cân đối – Ngân hàng thứ hai Cung tiền = 2440 USD

Tài sản Nghĩa vụ nợ
Dự trữ 160 USD
Cho vay 640

Tiền gửi 800 USD

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
57
Giả sử cung tiền mặt của nền kinh tế là 1000 USD được dân chúng ký gửi vào
Ngân hàng Thứ nhất, như trong hình 18-1 (A). Cho dù cung tiền vẫn là 1000
USD, bây giờ nó nằm dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn (demand deposits) chứ
không phải tiền mặt. Nếu ngân hàng giữ 100 phần trăm tiền gửi này làm dự
trữ, thì ngân hàng không tác động gì đến cung tiền. Thế nhưng trong một hệ
thống ngân hàng dự trữ theo tỷ lệ, ngân hàng không nhất thiết phải giữ toàn bộ
tiền gửi dưới dạng dự trữ; ngân hàng phải có đủ dự trữ trong kho để đáp ứng
nhu cầu bất cứ khi nào những người gửi tiền muốn rút tiền, và họ cho vay
phần tiền gửi còn lại. Nếu Ngân hàng Thứ nhất có tỷ lệ dự trữ-tiền gửi là 20
phần trăm, thì họ sẽ dự trữ 200 USD trong số tiền gử
i 1000 USD và cho vay
800 USD còn lại. Hình 18-1 (B) trình bày bảng cân đối của Ngân hàng Thứ
nhất sau khi cho vay 800 USD. Thông qua việc cho vay này, Ngân hàng Thứ
nhất làm tăng cung tiền thêm 800 USD. Vẫn chỉ có 1000 USD dưới dạng tiền
gửi không kỳ hạn, nhưng bây giờ những người đi vay còn nắm giữ thêm 800
USD tiền mặt. Tổng cung tiền bằng 1800 USD.
Việc tạo ra tiền không dừng lại ở Ngân hàng Thứ nhất. Nếu những người vay
tiền ký gửi 800 USD tiền mặt vào Ngân hàng Thứ
hai, thì Ngân hàng Thứ hai
có thể sử dụng tiền gửi này để cho vay. Nếu Ngân hàng thứ hai cũng có tỷ lệ
dự trữ-tiền gửi là 20 phần trăm, họ sẽ dự trữ 160 USD trong số 800 USD tiền
gửi, và cho vay 640 USD còn lại. Thông qua cho vay hết số tiền này, Ngân
hàng Thứ hai làm tăng cung tiền thêm 640 USD, như thể hiện trong hình 18-1
(C). Tổng cung tiền bây giờ là 2440 USD.

Quá trình tạo ra tiền này tiếp tục mỗi lần việc gửi tiền và cho vay ti
ền tiếp theo
đó được thực hiện. Trong bài giảng, chúng ta đã chứng minh rằng mỗi USD
dự trữ sẽ tạo ra (1/rr USD) tiền, trong đó rr là tỷ lệ dự trữ-tiền gửi. Trong ví dụ
này rr = 0,20, cho nên 1000 USD ban đầu ký gửi vào Ngân hàng Thứ nhất sẽ
tạo ra 5000 USD tiền.
2. Fed tác động đến cung tiền thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt
buộc, và lãi suất chiết khấu. Nghiệ
p vụ thị trường mở là việc mua và bán trái
phiếu chính phủ của Fed. Nếu Fed mua trái phiếu chính phủ, số USD mà Fed
chi trả để mua trái phiếu sẽ làm tăng cơ sở tiền và do đó làm tăng cung tiền.
Nếu Fed bán trái phiếu chính phủ, số tiền mà Fed thu vào sẽ làm giảm cơ sở
tiền và do vậy làm giảm cung tiền. Dự trữ bắt buộc là qui định do Fed ban
hành yêu cầu các ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ d
ự trữ-tiền gửi tối thiểu.
Việc giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm tỷ lệ dự trữ-tiền gửi của ngân hàng,
cho phép các ngân hàng được cho vay nhiều hơn ứng với một lượng tiền gửi
nhất định, và do vậy làm tăng số nhân tiền tệ và làm tăng cung tiền. Lãi suất
chiết khấu là lãi suất mà Fed tính khi các ngân hàng vay tiền từ Fed. Các ngân
hàng vay tiền từ Fed n
ếu dự trữ của họ giảm xuống dưới mức dự trữ bắt buộc.
Lãi suất chiết khấu giảm làm cho việc vay mượn dự trữ của ngân hàng đỡ tốn
kém hơn. Do đó, các ngân hàng có thể vay mượn từ Fed nhiều hơn, điều này
làm tăng cơ sở tiền và do đó làm tăng cung tiền.
3. Để hiểu tại sao một cuộc khủng hoảng ngân hàng có thể d
ẫn đến giảm cung
tiền, trước tiên ta hãy tìm hiểu xem những yếu tố nào xác định cung tiền. Mô
hình cung tiền mà chúng ta từng triển khai cho thấy rằng:
M = m x B.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
58
Cung tiền M phụ thuộc vào số nhân tiền tệ m và cơ sở tiền B. Số nhân tiền tệ
có thể được biểu thị theo tỷ lệ dự trữ-tiền gửi rr và tỷ lệ tiền mặt-tiền gửi cr.
Biểu thức này trở thành:
M =






+
+
)(
)1(
rrcr
cr
B.
Phương trình này cho thấy rằng cung tiền phụ thuộc vào tỷ lệ tiền mặt-tiền
gửi, tỷ lệ dự trữ-tiền gửi, và cơ sở tiền.
Một cuộc khủng hoảng ngân hàng liên quan đến những thất bại của ngân hàng
có thể làm thay đổi hành vi của người gửi tiền và của các ngân hàng, đồng thời
làm thay đổ
i tỷ lệ tiền mặt-tiền gửi và tỷ lệ dự trữ-tiền gửi. Giả sử rằng một số
thất bại của ngân hàng làm giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân
hàng. Khi đó, dân chúng sẽ thích giữ tiền dưới dạng tiền mặt hơn (có thể nhét

dưới đệm chẳng hạn) thay vì ký gửi vào ngân hàng. Sự thay đổi hành vi người
gửi tiền sẽ gây ra tình trạng rút tiền
ồ ạt và do đó làm tăng tỷ lệ tiền mặt-tiền
gửi. Ngoài ra, khủng hoảng ngân hàng còn làm thay đổi hành vi của các ngân
hàng. Lo sợ tình trạng rút tiền hàng loạt, các ngân hàng sẽ trở nên thận trọng
hơn và tăng số tiền dự trữ, qua đó làm tăng tỷ lệ dự trữ-tiền gửi. Như thể hiện
qua công thức số nhân tiền tệ trên đây, sự gia tăng cả tỷ lệ
tiền mặt-tiền gửi và
tỷ lệ dự trữ-tiền gửi sẽ dẫn đến giảm số nhân tiền tệ và do đó dẫn đến giảm
cung tiền.
4.
Các lý thuyết danh mục đầu tư (tài sản tài chính) của cầu tiền chú trọng vào
vai trò của tiền tệ như một phương tiện lưu giữ giá trị. Các lý thuyết này nhấn
mạnh rằng dân chúng giữ tiền trong các danh mục đầu tư vì nó mang lại một
mức sinh lợi danh nghĩa an toàn. Do đó, các lý thuyết danh mục đầu tư cho
rằng cầu tiền phụ thuộc vào rủi ro và sinh lợi của tiền tệ c
ũng như tất cả những
tài sản khác mà dân chúng nắm giữ trong danh mục đầu tư của họ. Thêm vào
đó, cầu tiền còn phụ thuộc vào tổng của cải vì của cải đo lường qui mô tổng
quát của danh mục đầu tư.
Ngược lại, các lý thuyết giao dịch của cầu tiền chú trọng vào vai trò của tiền tệ
như một phương tiện trao đổi. Các lý thuyết này nhấn mạ
nh rằng dân chúng
giữ tiền để thực hiện việc mua sắm. Cầu tiền phụ thuộc vào chi phí của việc
giữ tiền (lãi suất ) và lợi ích (dễ dàng thực hiện các giao dịch). Do đó, cầu tiền
phụ thuộc nghịch biến vào lãi suất và đồng biến với thu nhập.
5.
Mô hình Baumol-Tobin phân tích cách thức dân chúng đánh đổi giữa chi phí
và lợi ích của việc giữ tiền. Lợi ích của việc giữ tiền là sự tiện lợi: dân chúng
giữa tiền để tránh phải ra ngân hàng mỗi khi họ muốn mua sắm thứ gì đó. Chi

phí của sự tiện lợi này là lãi suất bị mất đi mà lẽ ra họ đã được hưởng nếu họ
gửi tiền vào một tài khoản tiết kiệm. N
ếu i là lãi suất danh nghĩa, Y là thu
nhập hàng năm, và F là chi phí mỗi chuyến đi ngân hàng, thì số lần đi ngân
hàng tối ưu là:
N* =
F
iY
2
.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
59
Công thức này cho thấy: Khi i tăng, số lần đến ngân hàng tối ưu tăng lên vì chi
phí của việc giữ tiền trở nên lớn hơn. Khi Y tăng, số lần đến ngân hàng tối ưu
tăng lên do nhu cầu thực hiện nhiều giao dịch hơn. Khi F tăng, số lần đến ngân
hàng tối ưu giảm xuống vì mỗi chuyến đi đến ngân hàng sẽ tốn kém hơn.
Việc xem xét số lần đế
n ngân hàng tối ưu giúp ta hiểu rõ thêm về mức giữ tiền
bình quân – nghĩa là cầu tiền. Việc đến ngân hàng thường xuyên hơn làm giảm
số tiền dân chúng nắm giữ, và việc ít đến ngân hàng hơn làm tăng số tiền nắm
giữ này. Chúng ta biết mức giữ tiền bình quân là Y/(2N*). Đưa công thức này
vào biểu thức tính N* trên đây, ta có:
Mức giữ tiền bình quân =
i
YF
2

.
Như vậy, mô hình Baumol-Tobin cho thấy cầu tiền phụ thuộc đồng biến với
chi tiêu và nghịch biến với lãi suất.
6.
“Những tài sản gần giống tiền” là những tài sản phi tiền tệ có ít nhiều tính
thanh khoản của tiền. Ví dụ, đã có thời những tài sản được nắm giữ chủ yếu
như một phương tiện lưu giữ giá trị như các quỹ hỗ tương thật bất tiện khi mua
bán. Ngày nay, các quỹ hỗ tương cho phép người gửi tiền được nắm giữ cổ
phiếu, trái phi
ếu và được rút tiền một cách đơn giản thông qua viết séc từ tài
khoản của họ. Sự tồn tại của những tài sản gần giống tiền làm chính sách tiền
tệ thêm phức tạp vì chúng làm cho cầu tiền trở nên không ổn định. Kết quả là,
tốc độ lưu thông tiền trở nên không ổn định, và số lượng tiền mang lại những
tín hiệu sai lạc về tổng cầu.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
60
CÂU HỎI ÔN TẬP
CHƯƠNG 19
BÀN THÊM
VỀ LÝ THUYẾT BIẾN ĐỘNG KINH TẾ
1. Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực giải thích như thế nào về những biến động của
việc làm?
2.
Bốn điểm bất đồng chính trong cuộc tranh luận về lý thuyết chu kỳ kinh tế
thực là gì?
3.

Sự chậm trễ điều chỉnh giá của các doanh nghiệp riêng lẻ ảnh hưởng như thế
nào đến sự điều chỉnh mức giá chung trước tình trạng thu hẹp tiền tệ?
4. Căn cứ theo các cuộc khảo sát, một doanh nghiệp điển hình thường xuyên thay
đổi giá như thế nào? Các nhà quản lý doanh nghiệp giải thích như thế nào về
tính cứng nhắc (hay kết dính) của giá cả của họ?
ĐÁP ÁN
1. Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực giải thích các biến động việc làm thông qua biến
động cung lao động. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng lượng cung lao động phụ
thuộc vào các động cơ kinh tế mà người lao động đối mặt. Sự thay thế liên
thời gian – nghĩa là sự sẵn lòng tái phân bổ lao động của người lao động theo
thời gian – đặc biệt quan trọng trong việc xác định cách thức người dân phản
ứng như thế
nào trước các động cơ kinh tế. Ví dụ như nếu như tiền lương hay
lãi suất ngày hôm nay hiện đang cao một cách tạm thời, điều đó sẽ thu hút
người lao động làm việc ngày hôm nay nhiều hơn so với ngày mai.
2.
Có bốn điểm bất đồng chính trong cuộc tranh luận về lý thuyết chu kỳ kinh tế
thực. Những điểm bất đồng này hiện vẫn chưa được giải quyết, và do đó vẫn
còn là những lĩnh vực đang được tích cực nghiên cứu. Những lĩnh vực này là:
i.
Cách diễn giải về thị trường lao động: Theo chu kỳ kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp biến thiên mạnh. Những người ủng hộ lý thuyết chu kỳ kinh tế thực
tin rằng sự biến động việc làm là do sự thay đổi số lượng người muốn làm
việc – theo giả định, nền kinh tế luôn luôn nằm trên đường cung lao động.
Họ tin rằng các số liệu thống kê về thất nghiệp khó mà lý giải được vì ít
nhất hai lý do: thứ nhấ
t, dân chúng có thể kê khai tình trạng bị thất nghiệp
để được hưởng phúc lợi bảo hiểm thất nghiệp; thứ hai, người thất nghiệp
có thể sẵn lòng làm việc nếu họ được chào mức lương mà họ được hưởng
trong nhiều năm.

Những người chỉ trích nghĩ rằng sự biến động của việc làm không chỉ phản
ánh số lượng người muốn làm việc. Họ tin r
ằng tỷ lệ thất nghiệp cao trong
thời kỳ suy thoái cho thấy rằng thị trường lao động không cân bằng –
nghĩa là tiền lương không điều chỉnh để cân bằng cung lao động và cầu lao
động.
ii.
Tầm quan trọng của các cú sốc công nghệ: Những người ủng hộ lý
thuyết chu kỳ kinh tế thực giả định rằng các nền kinh tế trãi qua những
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2006-2007
Kinh tế vĩ mô Câu hỏi ôn tập

Mankiw Kim Chi
61
biến động về khả năng sản xuất hàng hoá dịch vụ từ các yếu tố đầu vào lao
động và vốn. Những biến động này có thể phát sinh do thời tiết, qui định
về môi trường, và giá dầu, cũng như chính bản thân yếu tố công nghệ.
Những người chỉ trích lý thuyết chu kỳ kinh tế thực đặt ra câu hỏi “Các cú
sốc là gì?” Đối với họ, xem ra tiến bộ công nghệ xảy ra m
ột cách từ từ.
Đồng thời, những người chỉ trích cũng đặt nghi vấn liệu những thời kỳ suy
thoái kinh tế có thật sự là những lúc công nghệ bị thoái bộ hay không. Sự
tích luỹ công nghệ có thể chậm lại, nhưng xem ra không phải công nghệ bị
đảo ngược.
iii.
Sự trung tính của tiền tệ: Giảm tăng trưởng cung tiền và lạm phát thường
gắn liền với những thời kỳ thất nghiệp cao. Hầu hết các nhà quan sát giải
thích điều này như là bằng chứng cho thấy chính sách tiền tệ có ảnh hưởng
mạnh đến nền kinh tế thực. Thế nhưng, lý thuyết chu kỳ kinh tế thực chú

trọng vào những nguyên nhân phi tiền tệ (tức những nguyên nhân “thực”)
của các biến độ
ng kinh tế, lập luận rằng mối tương quan chặt chẽ giữa tiền
và sản lượng phát sinh bởi vì biến động sản lượng gây ra biến động cung
tiền, chứ không phải ngược lại. Vì thế, những người ủng hộ lý thuyết chu
kỳ kinh tế thực lập luận rằng chính sách tiền tệ không ảnh hưởng đến các
biến số thực như sản lượng và việc làm.
iv. Tính linh hoạt của tiền lương và giá cả: Hầu hết các phân tích kinh tế vi
mô đều giả định rằng giá cả điều chỉnh để cân bằng cung và cầu. Những
người ủng hộ lý thuyết chu kỳ kinh tế thực tin rằng các nhà kinh tế học vĩ
mô cũng nên giả định như vậy. Họ lập luận rằng tính cứng nhắc của tiền
lương và giá cả không quan trọng để tìm hiểu các biến động kinh tế.
Nhữ
ng người chỉ trích lý thuyết chu kỳ kinh tế thực chỉ ra nhiều trường
hợp tiền lương và giá cả không linh hoạt. Họ tin rằng tính không linh hoạt
này giải thích sự tồn tại của thất nghiệp và sự phi trung tính của tiền tệ.
3.
Việc chậm điều chỉnh giá của các doanh nghiệp làm chậm đi một cách đáng kể
sự điều chỉnh mức giá chung sau khi tiền tệ bị thu hẹp. Khi một doanh nghiệp
bất kỳ điều chỉnh giá, doanh nghiệp đó sẽ miễn cưỡng không muốn thay đổi
giá quá nhiều, vì sự thay đổi nhiều sẽ làm thay đổi mức giá thực của doanh
nghiệp (giá của doanh nghiệp so với nh
ững doanh nghiệp khác). Kết quả của
sự thay đổi theo hướng gia tăng này là: ngay cả sau khi mọi doanh nghiệp
trong nền kinh tế đã đi qua một đợt điều chỉnh giá, mức giá chung cũng không
được điều chỉnh một cách hoàn toàn về mức cân bằng mới.
4.
Số liệu khảo sát cho thấy có những khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp về tần
suất điều chỉnh giá. Tuy nhiên, tình trạng giá cứng nhắc khá phổ biến – một
doanh nghiệp điển hình trong nền kinh tế chỉ điều chỉnh giá một hay hai lần

trong một năm. Các doanh nghiệp đưa ra nhiều lý do giải thích tại sao họ
không thay đổi giá thường xuyên hơn. Một cách giải thích là các lý thuyết
khác nhau áp dụng cho nhữ
ng doanh nghiệp khác nhau, phụ thuộc vào các đặc
điểm của ngành, và tính cứng nhắc của giá là một hiện tượng kinh tế vĩ mô mà
không có một cách giải thích kinh tế vi mô duy nhất. Thất bại trong phối hợp
là lý do đứng đầu danh sách những lý do đưa ra.

×