Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

“Chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn tại SGD I NHĐT&PTVN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.21 KB, 89 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
1

LỜI MỞ ĐẦU

Kinh nghiệm của những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã khẳng định
tích tụ và tập trung vốn đặc biệt là tích tụ và tập trung vốn trong nước có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ở Việt Nam,
tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung và các nghành công nghiệp nói
riêng trong tương lai tất nhiên chủ yếu vẫn phải đựa vào lượng đầu tư lớn. Chỉ
trên cơ sở có một lượng đầu tư mạnh từ nền kinh tế, thông qua quá trình quá trình
tích tụ và tập trung vốn hay huy động vốn từ các Ngân Hàng, mới có thể đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị cho các nghành công nghiệp có kĩ thuật cao
Trong những năm trước đây do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chi phối,
quá trình tích tụ và tập trung vốn không được quan tâm đẩy mạnh. Bây giờ khi
đất nước đã chuyển sang cơ chế thị trường, có điều kiện để tích tụ và tập trung
vốn nhưng thực tế trong những năm vừa qua cho thấy, vấn đề bức xúc của nền
kinh tế nước ta là thiếu vốn để trang bị và đổi mới những công nghệ hiện đại.
Nguyên nhân của vấn đề trên là do tình trạng thiếu vốn, mà cụ thể là thiếu vốn
tiền đồng trong hệ thống Ngân Hàng Việt Nam. Do đó, các NHTM chưa đáp ứng
được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, các dự án đầu tư
Từ thực tế trên và trong thời gian thực tập tại SGD I NHĐT&PTVN em nhận
thấy công tác huy động vốn trong Ngân Hàng có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong hoạt động Ngân Hàng nói riêng và trong sự nghiệp thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nói chung. Hơn nữa, SGD I
NHĐT&PTVN là một NHTM quốc doanh, có nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh với
nghiệp vụ chủ yếu là huy động vốn và cho vay đầu tư phát triển đối với các dự án
thuộc nhiều thành phần kinh tế do đó nhu cầu về vốn để đáp ứng cho hoạt động
đầu tư phát triển và hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng là rất lớn. Vì các lí do


đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn
tại SGD I NHĐT&PTVN”
Đề tài không đi sâu vào việc đề ra chiến lược và phân tích tất cả các bước
chiến lược về quản lí và huy động vốn, mà chỉ là những phân tích, đánh giá
mang tính định tính, khái quát căn bản dựa trên cơ sở lí thuyết liên quan đến
nguồn vốn và thực tiễn tại SGD.
Đề tài đã được hệ thống hóa những vấn đề lí thuyết cơ bản về vốn và chiến
lược huy động vốn của Ngân Hàng. Đây là cơ sở để phân tích thực trạng công tác
huy động vốn tại SGD I NHĐT&PTVN. Từ đó, em đã rút ra những thành tựu,
hạnn chế và nguyên nhân để đưa ra một số giải pháp, chiến lược nhằm huy động
và phát triển nguồn vốn. Đồng thời, em cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
2
nước, NHNN cũng như đối với NHĐT&PTVN nhằm đảm bảo tính khả thi của
các giải pháp và hỗ trợ cho công tác huy động vốn của NHTM.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề gồm 4 chương:
ChươngI: Lí luận chung về vốn Và chiến lược huy động vốn của Ngân
Hàng

ChươngII: Những vấn đề cơ bản về Ngân Hàng thương mại và huy độ
ng
vốn của Ngân Hàng

Chương III: Thực trạng công tác quản lí huy động vốn tại
SGD I NHĐT&PTVN

Chương IV: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn và chiến lược
phát triển nguồn vốn tại SGD I NHĐT&PT


Vấn đề trên là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, đan xen nhiều yếu tố vĩ mô
và vi mô, mang tính khách quan và chủ quan. Bản thân em trong quá trình nghiên
cứu và tìm hiểu cả về lí luận lẫn thực tiễn còn có những hạn chế nhất định, không
tránh khỏi tiếu sót. Em rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của thầy giáo
hướng dẫn GS .TS Cao Cự Bội và đơn vị thực tập.

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn GS .TS Cao Cự Bội, các anh
chị phòng nguồn vốn kinh doanh SGD I NHĐT&PTVN đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình nghiên cứu đề tài này.












Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
3
CHƯƠNG1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN
VÀ CHIẾN LƯỢC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG



1. KHÁI NIỆM VỀ VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.1 Khái niệm về vốn:
Vốn là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất kinh
doanh. Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và mỗi Quốc Gia. Vốn hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm nguồn nhân lực,
tài lực chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích lũy của một cá nhân hay một
Quốc gia.
Bài học của các quốc gia phát triển trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập
trung vốn đặc biệt là vốn trong nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp hiện đại hóa đất nước. Từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò
của vốn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia chẳng hạn, luận điểm “
Lao động là cha, đất đai là mẹ” của mọi của cải vật chất đã được nhà kinh tế học
người Anh Uyliam Petty đưa ra từ thế kỉ XVI. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi
đó người ta đã nhận thức rõ những yếu tố cơ bản để tạo ra của cải vật chất cho xã
hội. Đó là nguồn lực con người và đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những
tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển, C. Mác đã trình bày quan điểm của mình về
vai trò của vốn qua các học thuyết: Tích lũy, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản
xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô … Đặc biệt Mác đã chỉ nguồn gốc chủ yếu
của vốn tích lũy là lao động thăng dư do những người lao động tạo ra, và nguồn
vốn đó khi đem dùng vào việc mở rộng và phát triển sản xuất thì nó vận động
như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác đã tìm thấy
những qui luật vận động của tư bản (Vốn) mà qui luật này nếu ta trìu tượng
những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy:
SLĐ
T - H … SX …H’ - T'
TLSX
Công thức đó đã chỉ ra rằng bất kì một doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá
trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua ba giai đoạn: Mua - sản xuất -

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
4
bán hàng. Và điều quan trọng cho mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp phải
biết tìm cách cấu trúc một cách khôn ngoan các yếu tố của tiền vốn, đầu tư (khi
chuyển hóa thành sức lao động và tư liệu sản xuất) nhằm tạo ra nhiều của cải nhất
cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng
trong dòng chảy liên tục của vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái
trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn đang ở dạng tiềm năng chứ
nó chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân mỗi doanh nghiệp và
toàn xã hội. Tích lũy vốn theo Mác là “sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay
chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại thành tư bản …” và Mác đã khẳng định “sự
cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản nếu muốn duy trì tư bản của mình thì phải làm
cho tư bản ngày càng tăng lên và hắn không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó
ngày một tăng lên được, nếu không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm”
Mác còn chỉ ra những nhân tố qui định qui mô của tích lũy, bao gồm: Khối lượng
giá trị thặng dư (lợi nhuận ), năng suất lao động xã hội và qui mô vốn ban đầu
(lượng tư bản ứng trước)…
Vốn là một nhân tố quan trọng trong ba nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng
về kinh tế gồm: Lao động, vốn, công nghệ. Đối với nước ta lao động dồi dào
nhưng vốn khan hiếm, công nghệ lạc hậu. Tất nhiên muốn đổi mới công nghệ thì
cần phải có vốn.
Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung
trong tương lai tất nhiên chủ yếu vẫn phải dựa vào lượng đầu tư lớn. Chỉ trên cơ
sở có một lượng đầu tư mạnh từ việc tích lũy nội bộ nền kinh tế, thông qua quá
trình tích tụ và tập trung vốn cả các doanh nghiệp cũng như của cả cộng đồng dân
cư, mới có thể trang bị cho nghành công nghiệp có kĩ thuật cao, sử dụng nhiều
nhân công và khai thác một cách hiệu quả nguồn tài nguyên đất nước.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tích tụ và tập trung vốn rất chặt chẽ.
Sự tăng trưởng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của tích tụ và tập trung vốn.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, vấn đề bức xúc của nền kinh tế nước ta
là thiếu vốn để trang bị và đổi mới công nghệ hiên đại. Mặt khác, hiệu quả sử
dụng đồng vốn cũng chưa cao, đặc biệt là ở các doanh nghiệp Nhà nước.
Vì vậy, con đường tích tụ và tập trung vốn đặc biệt là vốn trong nước có hiệu
quả là bài toán cần phải tháo gỡ để tăng tốc nền kinh tế Việt Nam và Ngân Hàng
đóng một vai trò quan trọng để thực hiện vấn đề này.
1. 2 Vai trò của vốn đối với nền kinh tế:
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
5
Chính vì vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất và
những tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tó vô cùng quan trọng để thực hiện quá
trình ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ
cấu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, đời sống của nhân dân ngày
một nâng cao các nguồn lực về con người, tài nguyên và các mối bang giao cũng
được khai thác hiệu quả hơn. Từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất
nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại
hóa, làm cho nền kinh tế có các nghành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao
hướng mạnh về xuất khẩu. Cjính điều đó đã dẫn tới nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định.
Đất nước chúng ta sau 10 năm đổi mới nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến
quan trọng và đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng chúng ta vẫn là nước
nghèo mức sống vẫn còn thấp, tích tụ và tập trung vốn trong nền kinh tế vẫn còn
quá thấp. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung là rất lớn
và cấp bách. Theo số liệu thông kê cho thấy tổng vốn đầu tư phát triển của toàn
xã hội năm 1995 ước tính khoảng hơn 62 000 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn do
Nhà nước đầu tư chiếm khoảng 43%. Đẻ thực hiện các chương trình kinh tế quan

trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2010 chúng ta phải
huy động được một số vốn ít nhất là 55 đến 60 tỉ USD trong thời kì 2003 – 2010
trong đó nguồn vốn tích lũy từ trong nước từ 25 đến 30 tỉ USD.
Vì vậy, trong quá trình tạo các tiền dề cho CNH-HĐH cũng như để triển khai
CNH-HĐH không thể thiếu vai trò của vốn. Mặt khác, muốn phát huy nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân tài để phát huy tối đa cho
công cuộc CNH-HĐH cũng cần phải có vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, đẩy
nhanh ứng dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ vào sản xuất, cũng như việc xây
dựng cơ sở hạ tầng càng không thể thiếu vai trò của vốn. Chính những điều đó có
thể rút ra kết luận rằng: Tích tụ và tập trung vốn trong nền kinh tế nói chung và
tích tụ và tập trung vốn trong Ngân Hàng là điều kiện tiên quyêt cho quá trình
CNH-HĐH, nhịp độ CNH-HĐH nhanh hay chậm chính là do nguồn vốn quyết
định.
2. CHIẾN LƯỢC QUẢN LÍ, HUY ĐỘNG VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA
NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

2.1 Nhận định chung về chiến lược:
2.1.1 Chiến lược là gì ?
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
6
“Chiến lược là một chương trình hành động tổng quát, với sự đảm bảo ngầm
định về các nguồn lực cho mục đích đạt được các mục tiêu trong từng giai đoạn”
Mục tiêu là cái đích cuối cùng mà tất cả các hoạt động đều phải hướng vào
nhằm đạt được các kết quả chung.Việc xác lập các mục tiêu là cơ sở cho việc
quyết định các chính sách và sẽ ảnh hưởng đến cơ cáu tổ chức của Ngân Hàng.
Các mục tiêu sẽ có thể thay đổi nhưng nó luôn là xuất phát điểm là nền tảng của
việc lập kế hoạch và đưa ra chiến lược.
Mục đích của chiến lược là thông qua một hệ thống và chính sách mục tiêu

chủ yếu được xác định để tạo lập một hình ảnh về thể loại cơ sở kinh doanh nào
đó. Chiến lược không vạch ra một cách làm thế nào để đạt được mục tiêu, nhưng
chúng hướng cho ta một bộ khung để hướng dẫn tư duy và hành động.
Việc xây dựng và thông tin về chiến lược là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của người quản lí. Một tổ chức không có chiến lược cũng như giống
như đi vào một khu rừng rậm mà không có la bàn hay bản đồ. Việc thiếu một
chiến lược hay một chiến lược sai lầm là nguyên nhân của hầu hết các thất bại
trong kinh doanh.
2.1.2 Chiến lược trong hoạt động Ngân Hàng:
Khi các mục tiêu và chính sách của Ngân Hàng đã hình thành bước tiếp theo
là phải đạt đến một chiến lược nhằm đạt đến các mục đích và mục tiêu này.
Trong khi mục tiêu cho ta một sự lựa chọn khách hàng về chất lượng, phương
hướng và bước tiến của Ngân Hàng, thì chiến lược sẽ là kế hoạch, qua đó một
Ngân Hàng có thể nhận ra các mục tiêu đã được hoạch định rõ ràng. Nếu mục
tiêu của Ngân Hàng là gia tăng thị phần thì chiến lược; sẽ có nhiệm vụ làm sao
đạt được vấn đề này. Việc gia tăng kêu gọi một nhóm khách hàng mới là chiến
lược đa dạng hóa các loại hình khách hàng, …
Trong khi chuyển từ mục tiêu sang chiến lược, các yếu tố cần được xem xét là
tiềm lực của Ngân Hàng và môi trường tương lai. Tiềm lực của Ngân Hàng như
qui mô và tổng số tài sản, các tiện nghi Ngân Hàng, danh tiếng, tiềm lực tài chính
và đội ngũ nhân sự… Tất cả các nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến hình thức chiến
lược mà Ngân Hàng áp dụng.
Các mục tiêu của Ngân Hàng ảnh hưởng đến sự tổng hợp và đánh giá, đến
lượt nó sự tổng hợp và đánh giá lại ảnh hưởng đến chiến lược và mục tiêu.
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
7
LẬP KẾ HOẠCH Ở MỘT NGÂN HÀNG










Error!


* Chiến lược và mối quan hệ:
Đối với một doanh nghiệp, các chiến lược chủ yếu nhằm đưa ra định hướng
tổng thể cho doanh nghiệp bao gồm:
TỔNG THỂ CÁC CHIẾN LƯỢC TẠI MỘT DOANH NGHIỆP











Doanh nghiệp
Chi
ến l
ư

ợc kinh
doanh
Chi
ến l
ư
ợc
marketing
Chi
ến l
ư
ợc tăng
trưởng
Chi
ến l
ư
ợc khách
hàng
Mô hình hoạt động
Chi
ến l
ư
ợc

tài chính
Chi
ến l
ư
ợc quan hệ
xã hội
Chiến lược cạnh tranh

Mục tiêu của
Ngân Hàng

Tổng hợp và đánh giá

Dự báo
Các nguồn lực
của
Ngân Hàng


Các nguồn lực
của Ngân Hàng

Chiến lược
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
8
Ngân Hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên bên cạnh bên cạnh những
chiến lược trên còn có những chiến lược kinh doanh với một loạt các chiến lược
bộ phận mang tính chất nghiệp vụ như: chiến lược huy động vốn, chiến lược tăng
dư nợ quốc doanh, chiến lược sử dụng vốn vay đầu tư.
Như vậy, cùng nhằm hướng đến các mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra mà giữa các
mục tiêu này không phải bao giờ cũng dễ thống nhất. Do vậy, có thể chỉ có một
chiến lược thỏa mãn tốt nhất toàn bộ các mục tiêu trong vô số chiến lược chỉ đáp
ứng phần nào mục tiêu đề ra đó. Nhìn chung, các chiến lược trong một Ngân
Hàng có quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ nhau phát triển. Trong chiến lược
kinh doanh của mình Ngân Hàng không thể bỏ qua một chiến lược kinh doanh
quan trọng đó là chiến lược huy động và phát triển nguồn vốn.

2. 2 Các giai đoạn của kế hoạch hóa chiến lược trong Ngân Hàng thương
mại:
Kế hoạch hoa chiến lược đó là thành phần cơ bản của quá trình quản lí chiến
lược hoạt động Ngân Hàng.
Kế hoạch hóa chiến lược được hiểu là quá trình ngiên cứu những chiến lược
đặc biệt góp phần đạt được các mục tiêu của tổ chức trên cơ sở duy trì sự phù hợp
chiến lược giữa các mục tiêu đó
Nội dung và giai đoạn kế hoạch hóa chiến lược được thể hiện qua các bước
sau:
Giai đoạn 1, Quá trình kế hoạch hóa chiến lược bắt đầu từ việc đặt ra các
nhiệm vụ của Ngân Hàng, lựa chọn các mục tiêu …
Giai đoạn 2, Giai đoạn kế hoạch hóa tiếp sau là cụ thể hóa các nhiệm vụ
trong các mục tiêu của Ngân Hàng.
Giai đoạn 3, Công việc của giai đoạn này là phân tích tình hình cơ sở của
thị trường và tìm kiếm phát hiện thị trường. Nó đòi hỏi việc xác định thị
trường phục vụ, đánh giá các đặc tính sản xuất thị trường của các phân đoạn thị
trường và đánh giá mức độ hấp dẫn của thị trường.
Ngoài ra, ở đây còn tìm kiếm, phát hiện các nhu cầu của khách hàng, xác định
các sản phẩm Ngân Hàng thỏa mãn nhu cầu khách hàng, đánh giá khả năng và sự
hợp lí đối với Ngân Hàng trong việc thỏa mãn nhu cầu đó; xác định các phương
tiện cần thiết đối với Ngân Hàng và tìm kiếm các phương tiện đó.
Việc đánh giá các đặc điểm sản xuất – thị trường của các phân đoạn thị trường
diễn ra theo 4 hướng:
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
9
- Đánh giá các đặc điểm của thị trường
- Đánh giá các chỉ tiêu dịch vụ
- Đánh giá các chỉ tiêu cạnh tranh

- Phân tích các đặc điểm môi trường
Trên cơ sở các kết quả phân tích các đặc điểm sản xuất – thị trường mà đánh
giá mức độ hấp dẫn của thị trường thông qua các chỉ tiêu sau: Qui mô thị trường,
tốc độ phát triển, tốc độ phát triển dự tính, tổng lượng khách hàng, tần số sử dụng
dịch vụ, các đặc điểm tài chính của khách hàng, số lượng và mức độ tập trung đối
thủ cạnh tranh, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô …
Giai đoạn 4, của kế hoạch hóa – đánh giá các yếu tố tác động tới chiến lược
của Ngân Hàng và phân tích các ảnh hưởng của chúng.
Có hai loại yếu tố tác động tới chiến lược Ngân Hàng: Đó là các yếu tố vĩ mô
và vi mô.
Giai đoạn 5, là việc đánh giá các khả năng và nguy cơ, bao gồm 3 khâu:
- Phát hiện các nguy cơ và khả năng
- Phát hiện các mặt mạnh và yếu của Ngân Hàng
- Phân tích ảnh hưởng tương lai của các mặt mạnh và yếu của Ngân Hàng
của các khả năng và nguy cơ.
Giai đoạn 6, của kế hoạch hóa chiến lược có 4 phương án đặt ra cho Ngân
Hàng, đó là: Phát triển, phát triển hạn chế, phát triển giảm và kết hợp cả 3
phương án trên.
Giai đoạn 7, Những điều kiện thị trường thay đổi cũng như các quá trình cụ
thể hóa các kế hoạch chiến lược bằng các kế hoạch thực hiện đòi hốic những thay
đổi chiến lược.
Giai đoạn 8, xác định các kết quả tài chính của dự án
2. 3 Vị trí chiến lược huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân
Hàng:
Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, chiến lược quản lí và huy động vốn là một
chiến lược lớn, đòi hỏi có sự trợ giúp của nhiều chính sách vệ tinh như chiến
lược khách hàng, chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, chiến lược huy động vốn
trung, dài hạn, chiến lược công nghệ hóa các tiện ích Ngân Hàng …Những chiến
lược này cũng biến đổi qua từng thời kì, giai đoạn cụ thể (3 hay 5 năm) phụ thuộc
vào chu kì vận động của nền kinh tế, điều kiện vĩ mô và bản thân hoạch định của

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
10
Ngân Hàng. Nằm trong chiến lược huy động nguồn có thể là chiến lược huy động
nguồn vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, chiến lược gia tăng vốn chủ sở hữu,
gia tăng vốn cấp hai …
Để cho hoạt động kinh doanh được trôi chảy và đúng hướng một Ngân Hàng
cần đề ra các chiến lược để có được số vốn cần thiêt sau khi cân nhắc về tác
động của những nguồn vốn khác nhau đến chi phí huy động vốn và rủi ro Ngân
Hàng.
Vì những lí do trên, một chiến lược quản lí huy động và phát triển nguồn vốn
sẽ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng. Việc
đưa ra một chiến lược huy động vốn hợp lí không nhất thiết phải tuân theo đầy dủ
8 giai đoạn của quá trình kế hoạch hóa chiến lược mà có thể rút ngắn đi một số
bước. Căn cứ vào tình hình điều kiện hoàn cảnh của từng ngân hàng mà có thể
đưa ra chiến lược cụ thể phù hợp.
3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUI MÔ VÀ CHẤT LƯỢNG
VỐN HUY ĐỘNG
3.1 Nhân tố chủ quan:
3.1.1 Chính sách lãi suất:
Lãi suất huy động là tỉ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà
người gửi tiền nhân được từ Ngân Hàng. Điều đầu tiên mà bất kì một cá nhân. tổ
chức kinh tế nào cũng muốn tham khảo khi gửi tiền vào Ngân Hàng đó là lãi suất.
Vì vậy, chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng nhất tác
đoọng tới chính sách huy động vốn của Ngân Hàng.
Tuy nhiên, không phải Ngân Hàng cứ đưa ra mức lãi suất cao là có thể thu hút
được nhiều vốn. Vấn đề ở chỗ với mức lãi suất cụ thể do Ngân Hàng đưa ra sẽ
đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu. Điều đó có nghĩa là
mức lãi suất mà Ngân Hàng đưa ra phải luôn lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Do đó Ngân

Hàng phải dự đoán chính xác tỉ lệ lạm phát của nền kinh tế trong năm để có thể
mức lãi suất huy động hợp lí. Lãi suất ở mức huy động hợp lí cũng phải là mức
lãi suất huy động đảm bảo cho sức mua tương đối của giữa các loại tiền không bị
thay đổi. Có nghĩa là phải cộng thêm vào đó những yếu tố biến động của tỉ giá.
Để giải quyết vấn đề này không phải là một việc đơn giản, vừa có tính khoa
học vừa có tính nghệ thuật. Ngân Hàng phải rất khéo léo mới có thể có được một
chính sách lãi suất hợp lí, linh hoạt phù hợp với tình hình thị trường và mong
muốn của Ngân Hàng về qui mô và chất lượng nguồn vốn của Ngân Hàng, vừa
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
11
đảm bảo lợi ích của người gửi tiền, lợi ích của Ngân Hàng, giúp Ngân Hàng đạt
hiệu quả cao trong công tác huy động vốn.
3.1.2 Các hình thức huy động vốn và các dịch vụ do Ngân Hàng cung ứng:
Một Ngân Hàng có các hình thức và kì hạn huy động vốn phong phú, linh hoạt
thuận tiện hơn sẽ thu hút khách hàng mới và duy trì những khách hàng hiện có
hơn những Ngân Hàng khác. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay ngày càng có
nhiều Ngân Hàng tham gia thị trường, khách hàng có điều kiện thuận lợi để tìm
cho mình một sự lựa chọn tốt nhất. Vì vậy, dịch vụ Ngân Hàng chính là một yếu
tố thu hút khách hàng.
3.1.3 Chiến lược Marketing Ngân Hàng:
Đây là những chính sách nhằm để khách hàng biết đến hoạt động của Ngân
Hàng, thấy được lợi ích khi giao dịch với Ngân Hàng. Làm nhiều người biết đến
Ngân Hàng gây uy tín với thị trường gắn bó với khách hàng hiện tại và thu hút
thêm khách hàng mới. Sự tận tình, chu đáo trong phục vụ khách hàng, thủ tục
đơn giản nhanh chóng, chính xác cũng là một yếu tố giúp duy trì khách hàng cũ
và thu hút khách hàng mới, tạo nên bộ mặt Ngân Hàng.
3.2 Nhân tố khách quan:
3.2.1 Môi trường kinh tế - xã hội:

Các chính sách kinh tế, chính trị – xã hội của Nhà nước, sự tăng trưởng phát
triển của nền kinh tế, phong tục tập quán của đất nước đều ảnh hưởng mạnh
mẽ tới hoạt động của Ngân Hàng. Vì vậy, nhà quản trị Ngân Hàng phải dự đoán
được diễn biến của thị trường, nắm bắt được thời cơ để đưa ra các kế hoạch chiến
lược phát triển Ngân Hàng trong từng thời kì, giai đoạn và kế hoạch phát triển lâu
dài.
3.2.2 Môi trường cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một qui luật tất yếu, Ngân Hàng là
một nghành có mức độ cạnh tranh cao. Trong những năm qua, thị trường tài
chính ngày càng trở nên đông đúc do sự tham gia của nhiều loại hình Ngân Hàng
và các tổ chức tài chính phi Ngân Hàng. Hiện nay, ở Việt Nam có 4 Ngân Hàng
quốc doanh, 54 Ngân Hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân Hàng liên doanh với
nước ngoài, 23 chi nhánh của Ngân Hàng nước ngoài, trên 800 quĩ tín dụng nhân
dân … Trong khi đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế là
có giới hạn và các Ngân Hàng tăng được tối đa thị phần huy động vốn của mình.
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
12
Hình thức cạnh tranh không đa dạng như các nghành, các lĩnh vực khác cũng
làm cho tính cạnh tranh của Ngân Hàng cao hơn. Các NHTM chủ yếu cạnh tranh
bằng hai hình thức là lãi suất và dịch vụ Ngân Hàng. Hiện nay, ở nước ta các
Ngân Hàng chủ yếu cạnh tranh bằng hình thức lãi suất, còn hình thức cạnh tranh
bằng dịch vụ thì chưa phổ biến. Do đó, mỗi Ngân Hàng phải xác định được mức
lãi suất thế nào là hợp lí nhất, hấp dẫn nhất, kết hợp với danh tiếng và uy tín của
Ngân Hàng để tăng thị phần huy động vốn của đơn vị mình. Điều này là rất khó
khăn vì nếu lãi suất huy động cao thì lãi suất cho vay cũng phải tăng lên, lãi suất
huy động thấp thì không hấp dẫn khách hàng.
CHƯƠNG II
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI VÀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG

1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1.1 Khái niệm và một số loại hình Ngân Hàng:
1.1.1 Khái niệm:
Ngân hàng thương mại là một doanh ngiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng.
Ở các nước khác nhau, quan niệm về NHTM cũng có một số điểm khác nhau.
Tuy nhiên, điểm chung là đều coi NHTM là một doanh nghiệp chuyên kinh
doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế thị trường. Ở Việt
Nam, theo pháp lệnh “Ngân Hàng, hợp tác xã tín dụng và công ti tài chính ban
hành tháng 5 năm 1990” đã ghi: “Ngân Hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, làm phương
tiện thanh toán”. “Luật tổ chức tín dụng” được Quốc hội thông qua tháng 12 năm
1997 xác định” Ngân Hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt
động Ngân Hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan”, trong đó “ hoạt
động Ngân Hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung
ứng dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Một số loại hình Ngân Hàng ở nước ta:
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, Ngân Hàng gồm có các loại hình sau:
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
13
- Ngân Hàng thương mại:(còn gọi là Ngân Hàng tiền gửi hay Ngân Hàng
tín dụng với nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn phần lớn dưới hình thức
ngắn hạn và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Tuy nhiên

do thị trường ngày càng phát triển, dần dần các Ngân Hàng này đi vào kinh
doanh tổng hợp, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và làm
như tất cả các nghiệp vụ, dịch vụ Ngân Hàng.
- Ngân Hàng phát triển: Nét đặc trưng nổi bật là những Ngân Hàng tập
trung huy động vốn trung, dài hạn vì sự phát triển (không chỉ duy trì qui
mô, chất lượng cũ). Hoạt động của các Ngân Hàng này chủ yếu qua đầu tư
trực tiếp các dự án lớn.
- Ngân Hàng đầu tư: Hoạt động với mục tiêu đầu tư trung, dài hạn cũng vì
sự phát triển nhưng thông qua các hình thức đầu tư gián tiếp qua giấy tờ
có giá. Hoạt động của Ngân Hàng này gần gũi với nghiệp vụ chứng khoán.
Các lọai giấy tờ có giá được mở rộng thì loại Ngân Hàng này cũng phong
phú và phát triển.
- Ngân Hàng chính sách: Thông thường là những Ngân Hàng thương mại
100% vốn Nhà nước hoặc Ngân Hàng thương mại cổ phần Nhà nước
(gồm sở hữu Nhà nước và sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh),
được lập ra để phục vụ một số chính sách của Nhà nước như Ngân Hàng
người nghèo, Ngân Hàng phát triển nhà ở, Ngân Hàng xuất nhập khẩu ).
Loại Ngân Hàng này hoạt động không vì nục tiêu lợi nhuận. Nó được tạo
vốn dưới hình thức đặc thù để cho vay ưu đãi nhưng được Nhà nước bù
phần chênh lệch lãi suất.
- Ngân Hàng hợp tác: (Hay gọi rộng ra là những tổ chức tín dụng hợp tác)
là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được các thành viên tự
nguyện lập nên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu tương trợ
lẫn nhau nhiệm về vốn và dịch vụ Ngân Hàng. Nó có thể có nhiều hình
thức từ thấp đến cao, như hợp tác tín dụng, quĩ tín dụng nhân dân, Ngân
Hàng hợp tác Nó có thể là tổ chức tín dụng hợp tác độc lập ở từng mắt,
khâu và có sự liên kết toàn hệ thống (như quĩ tín dụng nhân dân).
1.2 Vai trò và chức năng cơ bản của Ngân Hàng thương mại:
1.2.1 Vai trò:
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân Hàng có vai trò hết sức quan trọng thúc

đẩy phát triển kinh tế.
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
14
Trước hết, Ngân Hàng đóng một vai trò to lớn trong việc thu hút, huy động,
tích tụ và tập trung các nguồn tài chính nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần quan
trọng tài trợ cho nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển
kinh tế xã hội. Ngân Hàng có khả năng chuyển hóa các khoản tiền gửi nhỏ lẻ có
thời hạn ngắn thành các khoản tín dụng lớn có thời hạn dài hơn, tài trơ kịp thời
cho các nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội .
Ngân Hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Trong khi thực hiện chức
năng trung gian tài chính, Ngân Hàng thu hút những khoản tiết kiệm trong dân cư
để đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng
năng lực hoạt động. Hoạt động của Ngân Hàng có hiệu quả sẽ kích thích giảm
bớt nhu cầu cao cấp, dành tiền cho việc đầu tư góp phần tài trợ cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
Ngân Hàng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nâng cao sử dụng các nguồn tài
nguyên, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc luân chuyển vốn và sự di
chuyển vốn từ lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh có
hiệu quả. Bởi vì việc huy động vốn và sử dụng vốn trên thị trường tài chính diễn
ra trên cơ sở quan hệ cung cầu và khi sử dụng bất kì nguồn vốn nào cũng đều
phải trả giá nhất định. Điều đó buộc người cần vốn phải lựa chọn các phương án
kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức và thời điểm thích hợp để giảm chi phí.
Với chức năng làm trung gian thanh toán, Ngân Hàng đã rút ngắn tốc độ lưu
thông hàng hóa tiền tệ. Hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm thời
gian và chi phí thanh toán. Thêm vào đó, các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội
được Ngân Hàng huy động và đầu tư trở lại sản xuất kinh doanh, qua đó đẩy
nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa tiền tệ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Ngân Hàng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên

tục, không bị đứt quãng thông qua việc cung cấp vốn đầu tư. Do tính biến động
thường xuyên của nhu cầu vốn trong kinh doanh, tại một thời điểm luôn luôn tồn
tại những doanh nghiệp cá nhân có vốn nhàn rỗi. Ngân Hàng đóng vai trò là cầu
nối, thu hút vốn đầu tư từ những nơi thừa vốn chuyển sang những nơi thiếu vốn,
từ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra liên tục.
Ngân Hàng góp phần thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước,
điều tiết và kiểm soát hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn, điều hòa
hoạt động kinh tế xã hội. Chẳng hạn, Nhà nước có thể thay đổi tiền gửi dự trữ bắt
buộc đối với các Ngân Hàng để thay đổi lượng cung tiền, thực hiện điều hòa lưu
thông tiền tệ.
1.2.2 Chức năng:
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
15
*Chức năng trung gian tài chính:
Đây là chức năng quan trọng, phản ánh rõ nét nhất bản chất của Ngân Hàng
thương mại là tổ chức chuyên nghề kinh doanh tiền tệ. Các NHTM, bộ phận chủ
yếu của hệ thống trung gian tài chính là kênh dẫn vốn quan trộng từ những thực
thể có vốn nhàn rỗi đến các thực thể có nhu cầu vốn.
Với chức năng trung gian tài chính, NHTM có khả năng chuyển đổi mức rủi
ro, chuyển đổi kì hạn, giảm chi phí giao dịch, cung cấp thông tin dịch vụ.
Nhờ đó mà NHTM đã đáp ứng được những nhu cầu vốn Ngân Hàng cần thiết
phải bổ sung cho các doanh nghiệp để đảm bảo sản xuất, tái sản xuất được liên
tục. Mặt khác NHTM đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn giúp cho các doanh nghiệp
đầu tư tài sản cố định, đổi mới cải tiến công nghệ kĩ nghệ làm tăng năng lực sản
xuất kinh doanh.
* Chức năng trung gian thanh toán và chủ thể cho các doanh nghiệp trong nền
kinh tế
Khi thực hiện chức năng làm trung gian thanh toán, NHTM cung cấp cho

khách hàng của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: Ủy nhiệm
thu, ủy nhiệm chi, séc thẻ tín dụng Nhờ đó mà nhu cầu tiền mặt cho chi trả
ngày càng giảm, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí cho xã hội.
Hệ thống NHTM hiện nay đã thu hút được số lượng lớn các tổ chức, cá nhân
mở tài khoản tại Ngân Hàng, đặc biệt là ở các nước phát triển. Qua việc thực hiện
các nhiệm vụ thanh toán Ngân Hàng trở thành thủ quĩ của khách hàng thực hiện
thu, chi theo lệnh của chủ tài khoản. Các doanh nghiệp, các cá nhân không còn
cần phải dùng tiền mặt để trao đổi với nhau nữa, mà mọi việc thanh toán đều
được thực hiện bằng cách mở tài khoản ở Ngân Hàng và trên cơ sở đó ra lệnh
trên các Ngân Hàng thực hiện các khoản chi trả, đồng thời ủy nhiệm cho Ngân
Hàng thu nhận các khoản tiền thông qua việc trích tiền từ tài khoản người này
sang tài khoản người khác. Ngày nay, khi hệ thống thông tin liên lạc phát triển
cao, các NHTM đều được tin học hóa, thì công tác thanh toán bù trừ giữa các
vùng lãnh thổ, giữa các quốc gia được tiến hành một cách nhanh chóng, chính
xác hiệu quả.
* Chức năng tạo tiền:
Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư
của các NHTM trong mối quan hệ với NHNN qua vấn đề DTBB. Khi NHTM cấp
vốn tín dụng cho khách hàng A, lập tức số tiền này có thể chuyển thành tiền gửi
của khách hàng B (mở tại một Ngân Hàng bất kì) NHTM lại dùng nguồn vốn này
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
16
cho các đối tượng khác vay. Như vậy, từ một đồng vốn kí thác ban đầu, hệ thống
NHTM có thể tạo ra một số vốn tín dụng lớn hơn nhiều lần đẻ ra bội số tín dụng.
Đây chính là khả năng tạo tiền của NHTM, để kiểm soát khả năng này, luật pháp
cho phép NHNN được quyền, buộc các NHTM phải kí gửi tại NHNN một phần
của tổng số tiền họ nhận được từ những khách hàng gửi tiền gọi là dự trữ bắt
buộc.

Theo thuyết tạo tiền: khi một khối lượng tiền gửi tăng lên, khả năng cho vay
của toàn bộ hệ thống NHTM sẽ tăng lên nhiều lần. Ngược lại khi bớt đi một
lượng tiền gửi khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống NHTM sẽ giảm đi nhiều
lần. Cụ thể:

Khả năng mở rộng = Số tiền gửi huy động * Hệ số nhân
tiền gửi của Ngân Hàng ban đầu mở rộng tiền tệ

1
Hệ số nhân mở rộng tiền tệ =
Tỉ lệ DTBB
Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên qua chặt chẽ tới chính sách tiền
tệ của NHNN. Thông qua hệ thống NHTM, NHNN có thể tăng hoặc giảm lượng
tiền cung ứng bằng cách thay đổi tỉ lệ DTBB.
* Chức năng khác:
Ngoài các chức năng chủ yếu như trên, NHTM còn tham gia vào nhiều dịch
vụ khác: Tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, dịch vụ
ủy thác, dịch vụ bảo quản an toàn các tài sản có giá, dịch vụ kinh doanh ngoại
hối nhằm hỗ trợ và mở rộng hoạt động kinh doanh của NHTM trong thị
trường tài chính.
1.2.3 Hoạt động cơ bản của Ngân Hàng:
Có thể khái lược hoạt động Ngân Hàng theo ba loại nghiệp vụ chính: nghiệp
vụ huy động vốn, sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM được thực hiện qua hành vi mở tài
khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng, hoặc huy động các loại tiền gửi
có kì hạn, không kì hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư (huy động vốn một cách
bị động), phát hành kì phiếu, trái phiếu, đi vay các tổ chức tín dụng khác, vay
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A

17
NHTW (huy động vốn chủ động) đây là nguồn gốc cơ bản để NHTM phát ra
tín dụng vào nền kinh tế, còn phần vốn tự có của NHTM chủ yếu là phục vụ cho
việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, mua sắm trang thiết bị máy móc Như vậy,
có thể nói NHTM kinh doanh bằng nguồn vốn huy động là chủ yếu tùy theo luật
pháp mỗi nước mà NHTM được huy động một tỉ lệ cao hay thấp. Thông thường
vốn huy động của NHTM gấp 20 lần vốn tự có hay vốn tự có của NHTM được
qui định bằng hay lớn hơn 5% vốn huy động mà NHTM được,phép huy động.
Như vậy, bằng nghiệp vụ huy động vốn có thể nói NHTM đã nắm trong tay
một bộ phận rất lớn của cải xã hội về mặt giá trị, tức là vốn điề lệ. Để huy động
được số tiền như vậy, các NHTM đã phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định, đó
là tiền lãi phải trả cho người gửi tiền và các chi phí quản lí khác.
Khi đã huy động được nguồn vốn trong tay, để có thể tạo ra lợi nhuận,
NHTM phải tiến hành kinh doanh dưới hình thức sử dụng vốn huy động được
nhưng chủ yếu là cấp tín dụng, các NHTM sử dụng nguồn vốn đó để kinh doanh
dưới dạng đầu tư khác như: kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán đầu tư
vốn trực tiếp vào các doanh nghiệp dưới dạng vốn góp Nghiệp vụ sử dụng có
hiệu quả, góp phần mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế, thu hút
được nhiều khách hàng đến quan hệ giao dịch với Ngân Hàng, tạo điều kiện
thuận lợi để mở rộng nghiệp vụ huy động vốn.
Bên cạnh đó NHTM cũng có thể tạo ra doanh thu cho mình bằng việc các
nghiệp vụ được phép như thanh toán, chuyển hộ tiền, tư vấn khách hàng và thu
phí dịch vụ. Ngày nay, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi hoạt động
dịch vụ Ngân Hàng ngày càng phải mở rộng về số lượng và chất lượng. Các
Ngân Hàng phải đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng các công nghệ tiên
tiến vào hoạt động Ngân Hàng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đồng thời
nâng cao lợi nhuận cho mình.
Các hoạt động của Ngân Hàng có quan hệ tác động tới nhau vì vậy Ngân
Hàng phải thực hiện đồng bộ thống nhất tất cả các khâu có như vậy mới đáp ứng
được nhu cầu phát triển của nền kinh tế và của mỗi Ngân Hàng.


2. VỐN, CÔNG TÁC QUẢN LÍ VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
2.1 Cơ cấu vốn và các hình thức huy động vốn của Ngân Hàng:
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân Hàng muốn hoạt động
được trước hết phải có vốn. Nhưng Ngân Hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh “tiền tệ” do đó, nhu cầu về vốn của NHTM là rất lớn và việc tao vốn cho
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
18
Ngân Hàng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh Ngân
Hàng.
Vốn kinh doanh của các Ngân Hàng thương mại là biểu hiện bằng tiền toàn
bộ các tài sản có của Ngân Hàng. Vốn kinh doanh của NHTM được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau là vốn tự có, vốn huy động, các loại vốn khác.
2.1.1 Vốn tự có:
Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn do các chủ sở hữu đóng góp và được tạo ra
trong quá trình kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn tự có
gồm: Vốn điều lệ, các quĩ dự trữ, các tài sản nợ khác.
Vốn là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động Ngân Hàng. Qui mô
vốn tự có là yếu tố quyết định qui mô vốn huy động và qui mô các hoạt động.
Vốn tự có còn là căn cứ để tính toán các tỉ số hoạt động của nghành. Hầu hết ở
các nước đều qui định mức tổng tài sản tối đa Ngân Hàng có thể có so với vốn tự
có, một số nước còn giới hạn khả năng huy động vốn tiền gửi, khả năng hùn
vốn
Ở Việt Nam, theo chế độ kế toán, tài chính hiện hành vốn tự có của NHTM
bao gồm các thành phần:
- Vốn pháp định: Là số vốn tối thiểu phải có để thành lập Ngân Hàng.
- Vốn điều lệ: Là vốn do Nhà nước cấp, do các cổ đông đóng góp.
Ngoài ra, vốn tự có của NHTM còn bao gồm: lợi nhuận tích lũy, quĩ phát

triển kĩ thuật nghiệp vụ Ngân Hàng, qũi khen thưởng, quĩ phúc lợi, quĩ khấu hao
tài sản cố định.
2.1.2 Vốn huy động:
* Vốn tiền gửi:
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh được gửi tại Ngân Hàng. Nó bao gồm một bộ phận
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn.
Doanh nghiệp chưa có nhu cầu sử dụng (vốn lưu động) hoặc sử dụng cho những
mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (các quĩ: quĩ đầu tư phát triển, quĩ
dự trữ tài chính, quĩ dự trữ tài chính, quĩ phúc lợi, quĩ khen thưởng …)
Vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, Ngân Hàng huy động dưới hai hình thức:
- Tiền gửi không kì hạn (tiền gửi thanh toán)
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
19
Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào người gửi có thể rút ra
bất kì lúc nào, và Ngân Hàng có trách nhiệm phải thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng. Khi gửi tiền, khách hàng được hưởng lãi suất và khi có nhu cầu sử dụng thì
họ có thể rút tiền ra nên vẫn có thể thỏa mãn nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh
doanh. Đồng thời, khách hàng còn có thể sử dụng tiền gửi này để phục vụ cho
công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân Hàng.
- Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi mà khi gửi tiền có sự thỏa thuận về thời
hạn rút tiền.
Về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa
thuận. Tuy nhiện, trên thực tế do quá trình cạnh tranh, để thu hút tiền gửi các
Ngân Hàng thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn nhưng
không được hưởng lãi, hoặc chỉ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn.
- Tài khoản NOW và tài khoản NOW đặc biệt:

Tài khoản NOW là tài khoản tiền gửi séc có hưởng lãi, không có kì hạn và
Ngân Hàng phải chi trả khi khách hàng yêu cầu.
Tài khoản NOW đặc biệt tương tự như tài khoản NOW nhưng được trả lãi
cao hơn, thường kèm theo đó là số dư tối thiểu cao hơn và một số hạn chế khác.
Tiền gửi dân cư:
Tền gửi dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại Ngân
Hàng. Có các hình thức:
- Tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động truyền thống của Ngân Hàng.
Trong hình thức huy động này, người gửi tiền khi gửi được giao được giao cầm
sổ tiết kiệm, sổ này coi như giấy chứng nhận gửi tiền vào quĩ tiết kiệm của Ngân
Hàng.
Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng đem lại cho Ngân Hàng một
nguồn vốn để kinh doanh và nắm bắt được những thông tin tư liệu chính xác về
tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế, các cá nhân có quan hệ tín dụng với
Ngân Hàng. Tạo điều kiện cho Ngân Hàng có căn cứ để qui định mức vốn đầu tư
cho vay với những khách hàng đó. Hơn nữa, việc huy động vốn tiền gửi của
Ngân Hàng còn có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ, góp
phần ổn định giá trị đồng tiền thúc đẩy kinh tế phát triển.
* Vốn huy động qua các chứng từ có giá:
Đây chính là việc các NHTM huy động vốn qua hình thức phát hành các
chứng chỉ tiền gửi CDs, kì phiếu, trái phiếu Ngân Hàng để huy động vốn. Đặc
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
20
điểm chung của loại vốn này là lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm. Mục đích huy
động là để đầu tư cho các dự án lớn. Đây là khoản tiền Ngân Hàng đi vay, nguồn
vốn này được huy động với nhiều kì hạn khác nhau như: ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn. Loại vốn thường được huy động dưới hình thức phát hành kì phiếu có mục
đích và trái phiếu trung, dài hạn.

2.1.3 Vốn vay:
Trong trường hợp có khó khăn tài chính, thiếu hụt dự trữ, thiếu hụt thanh
khoản… để đáp ứng nhu cầu này các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau trên thị
trường liên Ngân Hàng vay các tổ chức tín dụng khác hoặc vay NHNN để giải
quyết kịp thời khó khăn về tài chính. Các khoản vay này đều phải có thế chấp
bằng các chứng tư có giá, số dư tại NHNN hoặc ít nhât cũng phải có được sự bảo
lãnh của NHNN. Khoản vay này đã trở thành nguồn vốn quan trọng do sự biến
động thường xuyên giữa việc huy động và sử dụng vốn. Tuy nhiên, do tính chất
vay nóng của nó nên lãi suất thường khá cao.
2.1.4 Nguồn vốn điều hòa trong hệ thống:
Các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình
trạng ở Ngân Hàng này thừa vốn trong khi ở Ngân Hàng khác lại thiếu vốn. Sở dĩ
có hiện tượng này là do: Về phía Ngân Hàng thừa vốn có thể có sự biến động lớn
ở đầu ra dẫn đến việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn phải duy trì
việc huy động vốn. Còn về phía Ngân Hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra mở
rộng trong khi thị trường đầu vào không thể mở rộng được nữa. Lúc này NHNN
hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện việc điều phối chuyển vốn, từ nơi này sang
nơi khác từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Chính vì thế đây là nguồn vốn khá
quan trọng, nó giúp Ngân Hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong khi
thị trường đầu vào còn bị hạn chế.
2.1.5 Vốn tài trợ ủy thác:
Đây là nguồn vốn mà Ngân Hàng nhận làm Ngân Hàng đại lí, nhận ủy thác
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cho vay trung, dài hạn thực hiện
những chương trình dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh.
Thông qua nghiệp vụ này Ngân Hàng sẽ được hưởng phí hoa hồng và Ngân Hàng
không có trách nhiệm thẩm định những khách hàng loại này. Nguồn vốn loại này
rất đa dạng, phong phú với đặc điểm là lãi suất rất thấp, thời gian trả nợ thường
dài (với vốn ODA là 30-40 năm). Đây là nghiệp vụ mang tính chất trung gian của
NHTM mà qua đó NHTM có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế.
Thông thường vốn tài trợ gồm ba khoản: một khoản tài trợ không hoàn lại, một

khoản cho vay lãi suất thấp và một thời gian ân hạn. Thời gian từ lúc vay cho lúc
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
21
trả nợ coi như bằng không. Ngân Hàng nhận làm đại lí sẽ trộn ba khoản trên để
có một lãi suất hòa đồng cộng với phí Ngân Hàng để cho vay lại.
2.1.6 Nguồn vốn trong thanh toán:
Trong quá trình làm trung gian thanh toán NHTM cũng có một khoản vốn gọi
là khoản vốn trong thanh toán như vốn trên tài khoản tiền gửi mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi bảo chi séc và các khoản tiền phong tỏa do các Ngân Hàng chấp
nhận các hối phiếu thương mại.
2.2 Ý nghĩa của việc quản lí nguồn vốn:
Huy động vốn với mức chi phí hợp lí đã trở nên quan trọng trong những năm
gần đây. Dẫu rằng sử dụng vốn như thế nào vẫn là yếu tố quan trọng, song trong
điều kiện môi trường hiện nay với các điều kiện thay đổi liên tục cạnh tranh gay
gắt hơn để thu hút nguồn tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn tăng cao trong
bối cảnh nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng, việc chống đỡ các cuộc khủng
hoảng lớn, nhỏ đang đặt các NHTM trước những thách thức lớn. Việc quản lí tài
sản nợ bao gồm các hoạt động liên quan với việc nhận vốn từ những người gửi
tiền, những người cho vay khác và quyết định mức góp vốn của mình.
Việc quản lí nguồn vốn và tài sản đòi hỏi phải cân nhắc các rủi ro phụ cũng
như sự chênh lệch giữa chi phí vay vốn (chủ yếu là lãi suất vay) và mức lợi
nhuận có thể thu được khi đầu tư. Khi xem xét việc quản lí nguồn vốn thì phải
đồng thời quan tâm đến mối quan hệ cân đôi giữa nguồn vốn và tài sản. Đây là
cặp yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến doanh lợi và rủi ro của Ngân Hàng.

3. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN:
3.1 Vì sao phải xác định chi phí huy động vốn ?
Có ba lí do buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc xác định chi phí

huy động vốn.
Thứ nhất: Ngân Hàng bao giờ cũng cố gắng tìm kiếm cho mình một tổ hợp
các nguồn vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất. Nếu giả thiết
coi tất cả các yếu tố khác là như nhau thì Ngân Hàng nào có mức chi phí huy
động vốn thấp nhất mà không phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn thì Ngân Hàng
đó sẽ có mức lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai: Việc tính toán chính xác chi phí huy động vốn được coi là mọt yếu tố
cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà Ngân Hàng sẽ thu được,và căn cứ vào đó
Ngân Hàng sẽ định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ của mình.
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
22
Thứ ba: Loại hình nghiệp vụ mà Ngân Hàng sử dụng cũng như việc sử dụng
các loại nghiệp vụ này ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất và
rủi ro vốn.
3.2 Phương pháp xác định chi phí huy động vốn:
3.2.1 Phương pháp chi phí trung bình theo nguyên giá:
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất, có ưu điểm là đánh giá được
nguồn vốn trong quá khứ.
Chi phí trả lãi lãi Chi phí trả lãi
gia quyền =
Tổng các khoản tiền gửi và vay
- Để bù đắp được chi phí trả lãi:
Chi phí trả lãi
Chi phí đặt ra =

Tài sản có sinh lời
- Để đạt được mức lãi cổ phần a% (với mức thuế T%)
% ROE trước thuế * vốn cổ phần

Thu nhập để đảm bảo ROE =
Tài sản sinh lời
a VCC
= *
1-T% Tài sản có sinh lời
3.1.2 Phương pháp xác định chi phí huy động vốn biên:
Cơ sở của phương pháp này là Ngân Hàng sẽ căn cứ vào chi phí huy động
vốn biên của mình (là chi phí bỏ ra để có thêm một đơn vị vốn sử dụng được) để
xác định mức lợi nhuận tối thiểu cần đạt được từ các khoản tài sản có thêm nhờ
nguồn vốn này. Đồng thời, Ngân Hàng cũng cố gắng tìm kiếm nguồn vốn đòi hỏi
chi phí thấp nhất.
Cách tiến hành: Xác định một nghiệp vụ duy nhất mà Ngân Hàng muốn sử
dụng sau đó tính chi phí biên của nghiệp vụ này và sử dụng kêt quả tính được làm
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
23
cơ sở định giá cho các loại tài sản có mới. Kết quả là nguồn vốn được chọn này là
nguồn rẻ nhất mà Ngân Hàng có thể huy động được.

Thu nhập biên từ một Chi phí trả lãi + chi phí khác
nguồn riêng lẻ =
1 - % dùng vào tài sản không sinh lời
Chi phí huy động biên tập hợp:
Tổng chi phí
Chi phí biên =
Tổng số tiền
c) Phương pháp chi phí dự kiến bình quân gia quyền:
Phương pháp này sử dụng chi phí dự kiến bình quân gia quyền của tất cả tất
cả các loại nguồn vốn làm kết quả ước đoán chi phí biên. Với giả thiét rằng:

Ngân Hàng đã tài trợ được với mức chi phí huy động chung thấp nhất thì chi phí
huy động biên phải bằng với chi phí dự kiến bình quân gia quyền.

Chi phí huy động bình quân Tổng chi phí bằng tiền
gia quyền dự kiến =
Số lượng huy động
3.3 Đánh giá các phương pháp:
Tùy theo mục đích sử dụng của con số huy động vốn tính toán được mà người
ta lựa chọn phương pháp tíng toán. Chi phí huy động trung bình theo nguyên giá
có tác dụng đánh giá được tình hình hoạt động trước đó của Ngân Hàng, từ đó
làm căn cứ định giá đối với các sản phẩm của Ngân Hàng trong tương lai. Chi phí
biên của mội loại nghiệp vụ cụ thể được sử dụng khi Ngân Hàng muốn quyết
định nên huy động loại nguồn vốn nào trong một tập hợp các sản phẩm, dịch vụ
mà nhà hoạch định dự đínhẽ huy động.
Ngoài việc hàng ngày theo dõi tính toán chi phí huy động vốn, các nhà làm
Ngân Hàng hiện đại cũng theo dõi sát xao xu hướng vận động của các nguồn vốn
riêng lẻ thông qua sự trợ giúp của công nghệ tin học hiện đại để có thể kịp thời
đưa ra các quyết định đúng đắn về vốn của Ngân Hàng mình.
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
24
4. CÁC MỤC TIÊU QUẢN LÍ, PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN, CƠ
SỞ CỦA VIỆC ĐỀ RA KẾ HOẠCH VÀ CHIẾN LƯỢC HUY ĐỘNG
VỐN
Mục tiêu cơ bản của quản trị NHTM cũng giống như mục tiêu của các tổ chức
kinh doanh khác, đó là thu được doanh lợi tối đa.
Việc gia tăng doanh lợi của một Ngân Hàng là hàm số của các biến số bao
gồm tổng thu nhập, chi phí quản lí, chi phí Ngân Hàng, lãi suất đầu vào, việc sử
dụng vốn vào tín dụng hoặc đầu tư. Các biến số này đến lượt nó lại bị ảnh hưởng

bởi một loạt các biến số khác, chẳng hạn như tổng tài sản, thành phần tài sản, các
chi phí, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kì, qui mô cơ cấu nguồn vốn …
Mục tiêu quản lí nguồn vốn là cơ sở và tiền đề cho việc đề ra các kế hoạch và
chiến lược về nguồn vốn của Ngân Hàng. Bất kì một Ngân Hàng nào cũng hướng
tới ba mục tiêu:
- Tìm kiếm các nguồn vốn rẻ
- Tạo ra nguồn vốn ổn định
- Xây dựng qui mô và cơ cấu nguồn phù hợp.
4.1 Tìm kiếm nguồn vốn rẻ:
Tiết kiệm chi phí đầu vào để tạo ra một đầu ra cố định trước là mục tiêu của
bất kì doanh nghiệp nào. Ngân Hàng nào cũng vậy, nguồn vốn rẻ gắn liền với lãi
suất đầu vào thấp và các chi phí cho hoạt động huy động thấp. Nhưng nguồn vốn
rẻ lại đồng nghĩa với kì hạn ngắn hơn và do đó không ổn định bằng các nguồn
dài. Ngân Hàng phải cân nhắc nguồn rẻ và kì hạn ổn định để từ đó chọn ra một
phương pháp huy động riêng phù hợp với đơn vị.
4.2 Tạo nguồn vốn ổn định:
Tiêu chí nguồn ổn định gắn liền với kì hạn thực càng dài, càng tốt và, lượng
khách hàng đông đảo, đa dạng.
4.2.1 Kì hạn danh nghĩa và kì hạn thực tế:
- Kì hạn danh nghĩa: Là kì hạn ghi trên sổ của khách hàng, là những cam
kết về mặt thời gian mà người gửi tiền hay người cho vay đã hứa.
- Kì hạn thực tế: Là kì hạn thực mà toàn bộ số tiền gửi của khách hàng
nằm trong quĩ của Ngân Hàng.
Ông A gửi tiền tiết kiệm trong Ngân Hàng với kì hạn 2 năm (đây thuộc loại
tiền gửi trung hạn) lãi suất 6% năm. Do cần tiền chi tiêu nên chỉ sau 3 tháng ông
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng- Tài chính
Lê Minh Đức Tài chính Doanh Nghiệp
41A
25
đã rút trước hạn và chịu phạt ( một số Ngân Hàng cho phép ông hưởng lãi suất

không kì hạn). Vậy khoản tiền mà ông A gửi có kì hạn danh nghĩa ghi sổ là 2
năm nhưng kì hạn thực tế là 3 tháng, Điều gì sẽ xảy ra nếu có vô số người như
ông A đến rút tiền trước kì hạn ? Việc ông A rút tiền trước kì hạn có nhiều lí do.
Có thể ông nghe đồn rằng Ngân Hàng ông đang gửi tiền có nguy cơ bị phá sản,
có thể ông cần tiền cho chi tiêu mua sắm hay đầu tư, mcũng có thể ông đã có
cách cất trữ tiền ở một nơi khác có độ sinh lời và an toàn cao hơn …Đây chính là
các giả định mà nhà quản trị Ngân Hàng phải tính trước.
4.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến kì hạn thực tế:
Kì hạn thực tế là kì hạn thực mà Ngân Hàng có thể sử dụng số tiền gửi. Có
nhiều yếu tố tác động đến vấn đề này. Vì vậy, Ngân Hàng phải tính toán, hoạch
định một cách chặt chẽ để đảm cho hoạt động của Ngân Hàng.
- Kì hạn danh nghĩa
- Tình hình kinh tế xã hội
- Tâm lí của khách hàng
- Thói quen tiêu dùng
- Các chính sách của Nhà nước, của NHTW
- Các cơ hội đầu tư
Trong những điều kiện nhât định, kì hạn thực tế có thể dài hơn kì hạn kì hạn
danh nghĩa. Trong ví dụ trên, nếu sau 2 năm ông A không rút tiền mà gửi tiếp thì
kì hạn thực tế sẽ dài hơn kì hạn danh nghĩa. Khi kì hạn yhực tế càng dài thì sự ổn
định của nguồn vốn huy động càng cao. Sự tăng trưởng của số dư tiền gửi chính
là cơ sở để đo lường tính ổn định của kì hạn. Chúng ta có thể có được một hình
ảnh về tính ổn định của nguồn tiền mà không phụ thuộc vào kì hạn danh nghĩa.
4.3 Xây dựng qui mô và cơ cấu nguồn vốn phù hợp:
Có hai trường phái chính quan tâm đến việc quản lí qui mô theo hai cách tiếp
cận khác nhau:
4.3.1 Bắt nguồn từ nhu cầu:
Theo trường phái này, để xây dựng qui mô và cơ cấu nguồn vốn phù hợp thì
phải dự doán chính xác được nhu cầu (ở đây là nhu cầu sử dụng bên tài sản). Các
Ngân Hàng tập trung vào các nguồn truyền thống gắn liền với các công cụ và thị

trường truyền thống. Trước tiên, họ ưu tiên vào các nguồn rẻ chi phí huy động
thấp, lãi suất thấp và ổn định. Nếu thấy vẫn không phù hợp với nhu cầu về vốn

×