Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.14 KB, 85 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự : BLHS
Bộ luật tố tụng hình sự : BLTTHS
Hội đồng xét xử : HĐXX
Kiểm sát các hoạt động tư pháp : KSHĐTP
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật : KSTTPL
Kiểm sát viên : KSV
Thực hành quyền công tố : THQCT
Tố tụng hình sự : TTHS
Viện kiểm sát : VKS
Cơ quan điều tra : CQĐT
Viện kiểm sát nhân dân : VKSND
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao : VKSNDTC
Xã hội chủ nghĩa : XHCN
Vụ án hình sự : VAHS
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vụ án một cách công khai, dân chủ, công bằng. Không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm đồng thời đảm bảo công lý được
1
thực thi không những thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là
chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Muốn làm được điều này chúng ta phải tổ chức và phân định rạch ròi nhiệm
vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khoa học, hợp
lý dựa trên những tiêu chí về chức năng của tố tụng hình sự trong nhà nước
pháp quyền, đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử.
Ở nước ta trong những năm gần đây, hệ thống các cơ quan tư pháp được
củng cố và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp bước đầu đã được
cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra trong tình
hình mới. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ ngày 2/6/2005 của Bộ


Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “Công
tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật
dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được
sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động
của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý” và đề ra Chiến lược cải là: “xác
định rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các
cơ quan tư pháp”.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong vụ án hình sự, do vậy hoạt động của Viện kiểm sát
là một quy trình xuyên suốt từ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Khác với hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự, Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên toà đối với những vụ án do toà án thu
thập chứng cứ mà có khiếu nại của đương sự, các việc dân sự, các vụ việc
mà Viện kiểm sát có kháng nghị. Vì vậy trong Tố tụng hình sự Viện kiểm
sát có chức năng đặc biệt quan trọng bởi lẽ quyết định truy tố của Viện kiểm
sát (bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử
2
tại phiên toà sơ thẩm. Nếu không có sự kiểm sát các thủ tục tố tụng tại toà
thì sẽ không có phiên toà hình sự một cách khách quan và đúng thủ tục tố
tụng, hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên toà xét xử vụ án hình sự là cơ sở
thực tiễn giúp các nhà nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy
định pháp luật về mô hình tố tụng, tổ chức bộ máy của cơ quan Viện kiểm
sát nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử, bảo đảm tự do, dân chủ cho
công dân góp phần bảo vệ pháp chế XHCN và đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn Xét xử vụ án
hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi lẽ đây là giai đoạn mà vụ án hình
sự được xem xét, giải quyết công khai, nó thể hiện tập trung các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự và cũng là giai đoạn thể hiện tập trung quyền và
nghĩa vụ pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự còn nhiều điểm bất cập, một số nguyên
tắc của tố tụng hình sự chưa được thể hiện đầy đủ, làm cho hiệu quả xét xử
của Toà án chưa cao.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49 đã
chỉ rõ “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện
nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân được tổ chức phù hợp với tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc
chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của Công
tố trong hoạt động điều tra”. Do đòi hỏi việc nghiên cứu một cách có hệ
thống và đề xuất phương hướng hoàn thiện chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay là việc làm cần
thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm hiện thực hoá chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện
kiểm sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã
có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm
hiểu các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên
cứu theo những khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn Thạc sỹ, luận án tiến
sỹ và các đề tài nghiên cứu khoa học về đổi mói tổ chức hoạt động, chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân.
Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận
và thực tiễn đổi mới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình như:
Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb
Khoa học xã hội), Hà Nội, 2001; luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Hữu
Khoa (Đại học Luật Hà Nội năm 2009: Chức năng của Viện kiểm sát trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của). PGS, TS luật học Nguyễn Thái Phúc:

Viện kiểm sát hay Viện công tố, Luận án tiến sỹ luật học của Lê Thị Tuyết
Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, Hà Nội, 2002. Đề tài khoa học cấp bộ của
Thạc sỹ Nguyễn Xuân Hà – Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy
định của BLTTHS năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ chức hệ thống
các cơ quan tư pháp theo tinh thần nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Ngô Văn Đọn (Chủ biên):
Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công
tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình
sự, (Đề tài khoa học cấp bộ), Hà Nội, 2004; Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận
và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 2006.
4
- Nhóm nghiên cứu thứ hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Các bài viết liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát bao gồm:
Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới
(Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư
pháp - nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp
chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006;
Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Lê Cảm: Một số
vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội,
2000
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn Thạc sỹ, luận
án tiến sỹ và các đề tài nghiên cứu khoa học về đổi mới tổ chức hoạt động,
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu làm rõ
địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nói chung hoặc ở một góc độ nhất định như

đi sâu phân tích thế nào là quyền công tố chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu cụ thể, toàn diện về chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án
hình sự, chưa đánh giá một cách có hệ thống những điểm còn hạn chế trọng
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, chưa
phân tích nguyên nhân và các giải pháp khắc phục. Nhóm nghiên cứu thứ
hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí
chuyên ngành cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích, làm rõ một vài khía cạnh
5
của vấn đề. Vì vậy đây là vấn đề tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu nhất là
trong bối cảnh chúng ta đang nghiên cứu, thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, làm sáng tỏ vấn đền này cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đáp ứng yêu
cầu của cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của
Toà án đồng thời đảm bảo chất lượng tranh tụng tại toà, góp phần đấu tranh
phòng, chống tội phạm, chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội
phạm cũng như bảo vệ pháp chế XHCN.
Xét thấy đây là thời điểm thích hợp cho việc nghiên cứu một cách khoa
học để tìm hiểu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự đồng thời tìm ra những nguyên nhân tồn tại và các giải pháp khắc
phục. Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài "Chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự" để làm luận văn thạc sĩ
Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về chức năng của Viện kiểm sát
trong xét xử vụ án hình sự và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng xét

xử của Toà án.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
6
Phân tích làm rõ khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp.
Phân tích, đánh giá các quy định của Pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
và thực tiễn áp dụng các quy định đó.
Làm rõ nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện chức
năng của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Các giai đoạn xét xử được nghiên cứu trong đề tài bao gồm chức
năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng của
Viện kiểm sát trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra, trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đề tài chỉ đưa ra quan điểm, kiến nghị mang tính nguyên tắc,
phương hướng hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan đến chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích chức năng của VKS theo
BLTTHS năm 2003 và thực tiễn hoạt động của ngành Kiểm sát trong 5 năm
trở lại đây ( từ 2005 đến năm 2010).
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
7
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận của chủ
nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn được sử dụng trong
Luận văn là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp luật học so
sánh, khảo sát thực tiễn, đối thoại với chuyên gia và các nhà hoạt động thực
tiễn trong lĩnh vực luật học.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ các quy định về chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn
được chia làm 3 chương, 6 mục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
8
1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử các vụ án hình sự
Khi nói đến chức năng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo từ điển
tiếng Việt định nghĩa: “Chức năng là phương diện hoạt động có tính chất cơ
bản, xuất phát từ bản chất của sự vật, hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã
hội của việc giải quyết các nhiệm vụ đó đặt ra” [43,tr, 267].
Theo tiếng Latinh chức năng “functio” có nhiều nghĩa khác nhau, có
thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, chức năng, vai trò hay hiểu là loại
hoạt động của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó…Tùy ngữ cảnh cụ
thể để áp dụng, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt
động để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Chức năng của cơ quan Nhà Nước là những phương diện hoạt động
chủ yếu có tính chất cơ bản và lâu dài của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện
những mục tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để

phục vụ việc thực hiện chức năng chung của bộ máy Nhà Nước.
Cũng như nhiều cơ quan Nhà Nước khác ở từng thời kỳ phát triển
kinh tế xã hội khác nhau thì Nhà Nước cũng giao cho chức năng khác nhau.
Hệ thống cơ quan Công tố được tách dần khỏi hệ thống cơ quan Tòa án và
sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 quy định sự thành lập của Viện kiểm sát
trong hệ thống cơ quan Nhà Nước trong bộ máy Nhà Nước. Thực hiện nghị
quyết của Đại hôi Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 và Hiến pháp 1959,
ngày 27 tháng 7 năm 1960 chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân khai sinh ra hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam. Đây là hệ thống cơ quan Nhà Nước chịu sự lãnh đạo
thống nhất của VKSNDTC; Độc lập với hệ thống cơ quan xét xử và các cơ
quan hành chính khác. VKS có nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong việc
9
giải quyết các vụ án hình sự như cơ quan Công tố trước đây, đồng thời kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ
quan Nhà Nước ở địa phương, các nhân viên Nhà Nước và công dân. Tiếp
đó tại các bản Hiến pháp 1980, 1992 và các văn bản pháp luật có liên quan
từng bước có quy định rõ ràng hơn về tổ chức và hoạt động của VKS. Đó là
VKS có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà
Nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân
viên Nhà Nước, công dân; thực hành quyền công tố và bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chức năng của các cơ quan Nhà Nước
cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoạt động trong tình hình mới. Trong đó
hệ thống cơ quan VKS cũng không phải là ngoại lệ, sự thay đổi lớn nhất về
chức năng từ trước tới nay. Điều đó được thể hiện qua Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp 1992, theo đó tại Điều 2 Hiến pháp 1992
ghi nhận: “Quyền lực Nhà Nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp

giữa các cơ quan Nhà Nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp”. Trong đó chức năng của VKS được điều chỉnh theo hướng
đề cao chức năng công tố so với giai đoạn trước đây và thu hẹp chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà Nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà Nước, công
dân bằng chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó Điều 137 Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: VKS có chức năng “thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Trên cơ sở của Hiến
pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định “Viện kiểm sát nhân dân
10
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định
của pháp luật”.
Theo tiến trình cải cách tư pháp của Bộ chính trị trong đó cải cách hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng của
cải cách bộ máy Nhà Nước nói chung và cải cách các cơ quan tư pháp nói
riêng nhằm mục đích xây dựng Nhà Nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Với việc ra đời của Nghị quyết số 08/2002 của Bộ chính trị về những nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đặc biệt Bộ chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ “Trước mắt, VKS vẫn
giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp”.
Như vậy sự ra đời của VKS với tư cách là một cơ quan Nhà Nước là
một đòi hỏi tất yếu, khách quan của quá trình bảo vệ và xây dựng Nhà Nước
pháp quyền Việt Nam XHCN. Ở từng giai đoạn cụ thể mà VKS có các chức
năng khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay VKS có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể hơn về chức
năng của Viện kiểm sát trong TTHS: VKS “thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”. Đây là chức năng

hiến định, đặc trưng cơ bản của VKS. Nó quy định chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử một vụ án hình sự. Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự thì
chức năng của VKS là thực hành quyền công tố đồng thời kiểm sát các hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra hoặc một số cơ quan được giao hoạt động
điều tra, các chủ thể khác tham gia vào công việc điều tra cũng như hỗ trợ
cho công tác điều tra nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động điều tra được
11
tiến hành một cách khách quan, toàn diện, kịp thời. Trong công tác kiểm sát
hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, VKS có chức năng phát hiện kịp
thời các vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và các chủ thể
khác để kiến nghị, sửa chữa, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ pháp
luật của Cơ quan điều tra qua đó tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để
áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật của
các cá nhân, cơ quan Nhà Nước, các tổ chức xã hội. Từ sự phân tích trên cho
thấy, chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong xét xử vụ án hình sự.
Để hiểu rõ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Đặc biệt là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
trước hết cần phải nghiên cứu khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trong tổng thể của cả quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Hay nói cách khác là nghiên cứu chức năng của VKS
trong bộ máy Nhà Nước nói chung, chức năng của VKS trong TTHS nói
riêng. Như vậy, có thể khẳng định rằng trong TTHS, VKS đồng thời thực
hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật.
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Khi nghiên cứu chức năng của VKS chúng ta hay đề cập đến khái
niệm thực hành quyền công tố, bên cạnh đó lại xuất hiện khái niệm quyền
công tố hay Công tố quyền. Đây là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng cần làm sáng tỏ, nó liên quan trực tiếp đến chức năng của VKS. Tuy
vậy trên thực tiễn lại có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến chưa có sự nhận
thức một cách thống nhất, chính thống về các khái niệm, nội dung, chủ thể
của hai thuật ngữ trên. Xét về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, làm
rõ hai thuật ngữ trên sẽ góp phần hiểu một cách đầy đủ vị trí, vai trò của
12
VKS trong mối quan hệ tổng thể với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhất là
trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang nghiên cứu chức năng, vị trí, vai trò
của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà Nước Pháp
quyền Việt Nam XHCN.
Quá trình phát triển và hoàn thiện chế định quyền công tố gắn liền với
sự ra đời của Nhà Nước và pháp luật. Tùy từng kiểu Nhà Nước trong từng
thời kỳ nhất định và với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội, con
người, yếu tố văn hóa, truyền thống chính trị của mỗi quốc gia để thiết kế
một bộ máy Nhà Nước khác nhau. Do vậy, để thực chế định quyền công tố
cũng có những khác biệt nhất định, đi đôi với việc hoàn thiện thể chế, hoàn
thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia thì việc hoàn thiện chế định quyền
công tố cũng ngày càng rõ nét. Ở nước ta Hiến pháp năm 1980 đề cập đến
quyền công tố, thực hành quyền công tố khi quy định chức năng của VKS tại
Điều 138. Cũng tại Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002)
đã khẳng định lại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, thực hành quyền
công tố trong chức năng của VKS. Vậy quyền công tố và thực hành quyền
công tố là gì? Mặc dù các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh
vực pháp luật đã tập trung nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có cách hiểu
thống nhất về hai khái niệm trên:
“Quan điểm thứ nhất thì đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS.
Quan điểm thứ hai coi quyền công tố chỉ là quyền năng, một hình thức
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong TTHS.
Quan điểm thứ ba coi quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ

phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền buộc tội (quyền
truy cứu trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà Nước (nhân danh quyền lực
13
công) đối với kẻ phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà Nước giao cho một
cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan VKS). Để làm được điều này, cơ
quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị
can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. Và do quyền công
tố là truy cứu trách nhiệm hình sự nhân danh công quyền đối với người
phạm tội nên đối tượng của quyền công tố chỉ là phạm và người phạm tội
[27, tr, 5 – 6].
Quan điểm thứ năm cho rằng “Công tố là buộc tội, đưa một người ra
trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [7, tr,32].
Quan điểm cuối cùng lại cho rằng quyền công tố là quyền do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ
giai đoạn khởi vụ án đến giai đoạn thi hành án [11, tr, 14].
Như vậy các quan điểm trên hoặc là đã mở rộng phạm vi quyền công
tố sang cả các lĩnh vực khác; hoặc là đã thu phạm vi quyền công tố trong
một giai đoạn cụ thể là giai đoạn VKS truy tố người phạm tội và thực hiện
chức năng buộc tội tại phiên tòa; hoặc coi quyền công tố là một quyền năng
cụ thể của VKS trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Nhìn chung các quan điểm trên phần nào
vẫn có những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên các quan điểm trên vẫn chưa phân
định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố, để làm rõ
được khái niêm này trước hết cần phải xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực
tiễn sau:
- Quyền công tố là quyền lực công, xuất hiện và gắn liền với sự ra đời
của Nhà Nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà
Nước từ Nhà Nước chủ nô đến nhà nước hiện đại [11, tr, 118 -119]. Nhà

Nước ra đời và tồn tại trong một xã hội có giai cấp đối kháng không thể điều
14
hòa được. Đồng thời bất cứ kiểu Nhà Nước nào cho dù sơ khai nhất cũng
ban hành ra pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các mức độ
khác nhau và để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, trừng phạt những
người có ý chí chống lại giai cấp cầm quyền thông qua việc buộc tội đối với
người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Do vậy bản chất của quyền
công tố chính là quyền nhân danh Nhà Nước để bảo vệ lợi ích công đó chính
là sự buộc tội.
- Thiết chế Nhà Nước càng phát triển ở mức độ cao thì sự phân công,
phân nhiệm các chức năng để thực hiện quyền lực công đó càng được phân
công, phân nhiệm một cách rõ ràng và cụ thể. Ở Nhà Nước phong kiến
trước đây quyền công tố cũng như quá trình tố tụng của một vụ án hình sự
có thể được giao cho một người vừa có chức năng quản lý hành chính vừa
có chức năng điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình sự. Tuy nhiên xã hội
ngày càng phát triển, sự chuyên môn hóa ngày càng cao thì quyền công tố
cũng được giao cho một cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt để nhân
danh Nhà Nước xử lý người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Cơ
quan đó sử dụng các quyền năng pháp lý nhất định đó được gọi là cơ quan
có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
- Quyền công tố cũng như bất kỳ một quyền (hay nhóm quyền) nào
của VKS luôn phải được xem xét trong mối quan hệ với tính đặc thù của một
lĩnh vực pháp luật cụ thể trong hoạt động của VKS [29, tr, 29]. Hay nói cách
khác đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Xem xét khái niệm
quyền công tố trong tổng thể lĩnh vực pháp luật hình sự để thấy quyền công
tố là quyền nhân danh quyền lực công để trấn áp, hoặc công khai tố cáo với
xã hội về một hành vị bị coi là vi phạm pháp luật hình sự. Ở đây cần phải
hiểu thuật ngữ công tố với ý nghĩa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Có
nghĩa là mọi hoạt động để thực hành quyền công tố trước hết phải nhằm mục
15

đích bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà Nước, nghĩa vụ chứng minh
tội phạm và người phạm tội thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi
đó ở các lĩnh vực tố tụng khác nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự.
- Bản chất của TTHS là hoạt động của các cơ THTT trong việc phát
hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện ở
ba chức năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức
năng xét xử. Trong đó chức năng buộc tội là hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hình thức buộc tội là
nhân danh Nhà Nước (công quyền) giữ vai trò là động lực chính thu hút hoạt
động của tất cả các chủ thể TGTT.
Như vậy, công tố là quyền lực thuộc về Nhà Nước, là quyền nhân
danh Nhà Nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Quyền này được Nhà Nước giao cho
một cơ quan thực hiện trong việc phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ để xác định
tội phạm và đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm ra trước Tòa án và bảo vệ
sự buộc tội đó tại phiên tòa. Qua đó có thể xác định được đối tượng, nội
dung, phạm vi của quyền công tố. Đối tượng công tố là yếu tố mà quyền lực
công tố tác động vào nhằm đạt mục đích cụ thể của quyền công tố, đó có thể
là mục đích buộc tội được người phạm tội để trừng phạt, khôi phục trật tự
pháp luật đã bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan
Nhà Nước, tổ chức chính trị…Do vậy quyền công tố là quyền lực Nhà
Nước, do Nhà Nước đứng ra thay mặt xã hội thực hiện việc buộc tội nhằm
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và
đối tượng của quyền công tố nhắm tới chính là tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người
16
đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Phạm vi của quyền công tố bắt đầu
từ khi có tội phạm xảy ra thì quyền công tố cũng bắt đầu xuất hiện và kết

thúc khi bản án hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng
cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình chỉ theo các quy định của pháp luật. Nó
“treo lơ lửng” đối với bất kỳ người thực hiện hành vi tội phạm nào kể cả tội
phạm ẩn nếu còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy các cơ quan
tiến hành tố tụng sẽ áp dụng các quyền năng pháp lý khác nhau để phát hiện
tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, tìm ra các chứng cứ buộc tội,
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình
được BLTTHS giao cho để khởi động quyền công tố thì cũng xuất hiện khái
niệm thực hành quyền công tố. Đây là khái niệm có liên hệ mật thiết với
nhau bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà Nước với
người thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà Nước là
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Điều
đó có nghĩa là phát sinh quyền công tố và có cơ quan dùng các quyết định cụ
thể để thực hiện quyền công tố. Cơ quan được giao thực hiện quyền công tố
chính là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Vậy thực hành
quyền công tố là thực hiện hóa các quyền công tố trong đời sống xã hội.
Việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở mỗi quốc gia khác nhau thì được
giao cho các cơ quan khác nhau, từ đó vị trí, vai trò, phạm vi hoạt động của
cơ quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau là khác nhau.
Để hiểu một cách đầy đủ về thực hành quyền công tố cần phải xác
định rõ phạm vi của thực hành quyền công tố. Có thể xác định được phạm vi
thực hành quyền công tố trùng với phạm vi của quyền công tố có nghĩa là
phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho
đến khi bản án hình sự được tòa án xét xử có hiệu lực pháp luật không bị
17
kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên thực tế thì không phải bất kỳ vụ án nào xảy ra các cơ quan
bảo vệ pháp luật cũng có thể phát hiện ra để xử lý một cách kịp thời. Đây là
mối quan hệ giữa khả năng và việc thực hiện hóa khả năng, giữa Nhà Nước

trao quyền và việc thực hiện quyền lực đó trên thực tế của cơ quan Nhà
Nước có thẩm quyền.
Việc xác định rõ khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố là cơ sở
xác định nội dung thực hành quyền công tố. Đó là hoạt động của VKS trong
việc ban hành các quyết định tố tụng, trực tiếp tiến hành một số hoạt động
điều tra, ra các yêu cầu điều tra đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng…trong việc giải quyết một vụ án hình
sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi
là tội phạm, bao gồm các hoạt động cụ thể của quyền công tố như khởi tố vụ
án, khởi tố bị can; ban hành các lệnh, quyết định, yêu cầu hay trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra; đọc cáo trạng, xét hỏi, tranh luận, luận tội…
Như vậy: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử”
[2, tr, 11].
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự
Thuật ngữ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” lần đầu tiên trong lịch
sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980,
được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát
18
nhân dân 1992, Bộ luật Tố tụng Hình sự 1988. Đến thời điểm năm 2001, đã
xuất hiện cụm từ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” - Điều 137 Hiến pháp
1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Tối
cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Điều 1
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố và kiếm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật”. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 lại tiếp tục

sử dụng cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Mặc dù là những thuật
ngữ được ghi nhận trong Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà
Nước và trên tực tế đã được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức nào định nghĩa về
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật” và “kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Như vậy, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tồn tại đồng thời hai thuật ngữ rất
dễ bị nhầm lẫn: “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” và “kiểm sát các hoạt
động tư pháp”. Trước hết ta làm rõ khái niệm “kiểm sát”: Là một dạng giám
sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại chủ thể kiểm sát - Viện kiểm sát,
với quyền năng kiểm sát và phương thức kiểm sát riêng biệt. Tuy nhiên,
“kiểm sát”, ở tầng nghĩa phổ thông, là “kiểm tra việc chấp hành pháp luật
của Nhà Nước” [23. Tr. 43]. Nếu theo cách hiểu như vậy, trong TTHS, còn
có rất nhiều chủ thể khác cũng có quyền và nghĩa vụ “kiểm tra việc chấp
hành pháp luật của Nhà Nước” và có thể coi là hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTHS. Bên cạnh đó chúng ta cần làm rõ khái niệm
“kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” và khái niệm “kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”, cho đến nay, khoa học
pháp lý cũng như thực tiễn đơi sống chính trị - pháp lý đều thừa nhận hoạt
19
động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền tư pháp, tuy nhiên về phạm vi,
chủ thể thực hiện quyền tư pháp còn có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền tư pháp là một dạng quyền lực
Nhà Nước được thực hiện qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn,
tính hợp lý của hành vi, quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về quyền,
lợi ích giữa các chủ thể pháp luật, do vậy, chủ thể thực hiện quyền tư pháp
chỉ là Tòa án và hoạt động xét xử [7, tr. 11]. Đây là quan niệm về quyền tư
pháp theo nghĩa hep.
Cũng có quan điểm cho rằng, tư pháp là xét xử, giải quyết các tranh
chấp trong xã hội, thực hiện quyền tư pháp là thay mặt Nhà Nước phán
quyết về xung đột pháp lý, vi phạm pháp luật do Tòa án tiến hành. Nhưng để

đi đến các phán quyết đó cần có sự tham gia của nhiều cơ quan. Do vậy hoạt
động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan
thực hiện một số hoạt động tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp ( giám định
tư pháp, công chứng tư pháp, luật sư) [11, tr. 27 – 28]. Đây là quan niệm về
quyền tư pháp theo nghĩa rộng.
Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện
những chức năng, thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án
mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà Nước
pháp quyền biến thành hiện thực, có bốn hình thức cơ bản là : Hoạt động
giải thích các quy phạm pháp luật, hoạt động xét xử (tài phán), hoạt động
kiểm tra tính hợp pháp trong việc áp dụng các chế tài về hành chính, tố tụng
hình sự và hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt động xác nhận sự
kiên (hành vi) có ý nghĩa pháp lý trong đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền
chủ thể tương ứng của các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan
hệ xã hội hoặc làm hạn chế quyền chủ thể tương ứng của các công dân trong
quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội [3, tr.14].
20
Các quan điểm nêu trên đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý về
quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và chủ thể thực hiện quyền tư pháp và
đều giống nhau ở chỗ hoạt động tư pháp là hoạt động liên quan đến quyền
lực Nhà Nước, gắn với giải quyết vụ án hoặc các tranh chấp pháp luật, được
Nhà Nước giao cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành, trong đó xét xử là
khâu trung tâm của hoạt động tư pháp, kết quả của việc xét xử là Tòa án ra
bản án, kết luận về một sự kiện pháp lý, hành vi pháp lý của vụ việc. Do vậy
có thể xác định hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện Quyền lực Nhà
Nước về tư pháp, có chủ thể là các cơ quan tư pháp, bao gồm: Tòa án, VKS
CQĐT, Cơ quan Thi hành án, gắn với quá trình giải quyết vụ án, vụ việc cụ
thể và tuân theo những nguyên tắc đặc thù, những quy trình, thủ tục tố tụng
chặt chẽ, bảo đảm việc việc giải quyết được chính xác, khách quan, đúng
pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Đó là khái niệm “kiểm sát các

hoạt động tư pháp” chúng ta cần làm rõ khái niệm “kiểm sát việc tuân theo
pháp luật”.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, TTHS là toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án.
Nói cách khác, “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà Nước, tổ chức
xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác
và đúng pháp luật”, các hoạt động TTHS bao gồm:
- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự:
Là hoạt động của các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây
là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện thông qua
hoạt động của người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là những
công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức
21
danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải
quyết vụ án hình sự.
- Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động
của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của
người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật
vụ án (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch).
- BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ
quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn,
thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng Như vậy, trong
một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS.

Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong lĩnh vực TTHS, có
thể coi là các hoạt động TTHS, do đó, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS là kiểm sát tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu
trên.
Theo lý luận chung về Nhà Nước và pháp luật, quyền lực là hiện
tượng khách quan trong quan hệ xã hội, quyền lực Nhà Nước dù được tổ
chức theo nguyên tắc nào, phân công hay phân quyền thì hoạt động tư pháp
cũng là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà Nước. Một trong những sự giám
sát Nhà Nước về tư pháp. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám
sát, xem xét việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết
các hành vi phạm pháp kiên tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp
22
luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất” [46, tr.441]. Về bản chất thì
kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên có một số điểm khác biệt giữa
“kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS” và “kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTHS” ở phạm vi, đối tượng kiểm sát, cụ thể:
- Hoạt động tư pháp trong TTHS là hoạt động chỉ do các cơ quan tư
pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu
trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực
Nhà Nước. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS hay kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với các hoạt động TTHS không chỉ là kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong TTHS mà còn bao gồm cả những hoạt động của các
cơ quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những
người tham gia tố tụng, không mang tính quyền lực Nhà nước.
- Hoạt động tư pháp trong TTHS bao gồm những dạng thực hiện pháp
luật ở mức độ cao: Áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật - do các dạng
thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người
tiến hành tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong

TTHS bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng (tuân thủ
pháp luật - kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm,
chấp hành pháp luật - thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực).
Điều 23 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định: “…Viện kiểm sát
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp
thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này”.
23
Đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS của Viện
kiểm sát là hoạt động áp dụng, chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia
vào quá trình TTHS, trong đó không loại trừ bản thân các hoạt động của
chính Viện kiểm sát.
Về phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS của Viện
kiểm sát bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường hợp cần
thiết được tiến hành trước khi khởi tố) và kết thúc khi bản án được thi hành.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS đối với hoạt đông của các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Viện kiểm sát có các quyền hạn do pháp luật quy định để phát
hiện và loại trừ các vi phạm pháp luật đã xảy ra.
Các quyền năng nhằm phát hiện vi phạm pháp luật của các chủ thể,
như quyền kiểm tra, giám sát việc khởi tố vụ án, truy tố, xét xử, thi hành án.
Thực hiện các quyền năng này giúp cho VKS phát hiện được các vi phạm
pháp luật, xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm trên cơ sở đó
đưa ra các biện pháp khắc phục vi phạm, bảo đảm chấp hành pháp luật được
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bên cạnh đó VKS còn có các quyền năng trong việc yêu cầu khắc
phục, xử lý vi phạm đối với các chủ thể tham gia vào TTHS, như kiến nghị ,

yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử, kiến nghị,
kháng nghị với Chánh án xử lý, khắc phục các vi phạm pháp luật trong quá
trình xét xử vụ án hình sự…
Như vậy: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là
hoạt động mang tính quyền lực Nhà Nước, trong đó Viện kiểm sát sử dụng
mọi quyền năng pháp lý để kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
24
gia tố tụng nhằm phát hiện những vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2. Đặc điểm và hình thức thực hiện chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là một bộ
phận thuộc chức năng chung của VKS trong tố tụng hình sự, là mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng, cái bộ phận trong cái tổng thể. Do vậy, xuất phát
từ chức năng của VKS trong TTHS, có thể rút ra chức năng của VKS trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự thì VKS cũng thực hiện hai chức năng tương
ứng. Khái niệm, phạm vi, nội dung của công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử trong giai đoạn xét xử cũng được xác định trên cơ sở khái
niệm, phạm vi, nội dung của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự.
Trong Bộ luật TTHS 2003 tuy không đưa ra khái niệm giai đoạn tố
tụng hình sự nhưng đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố tụng một cách
rõ nét trong đó xét xử được coi là một giai đoạn trong quá trình giải quyết
một vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật TTHS 2003, việc giải quyết
vụ án hình sự phải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục, thời hạn
cụ thể nhằm mục đích chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Do vậy có thể
căn cứ vào cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể chia
quá trình tố tụng thành các giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án. Như vậy, trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, chức năng của Viện
kiểm sát là: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động xét xử của
Tòa án.
1.2.1. Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự
25

×