Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.73 KB, 58 trang )

Bộ giáo dục đào tạo bộ t pháp
Trờng đại học luật hà nội
Nguyễn hữu khoa
Chức năng của viện kiểm sát
Trong Giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
chuyên ngành: Luật hình sự
mã số: 60 38 40
luận văn thạc sỹ luật học

Ngời hớng dẫn:
Ts Nguyễn đức maI
.
Hµ néi 2010
DANH MôC C¸C CH÷ VIÕT T¾T
BLHS : Bé luËt h×nh sù.
BLTTHS : Bé luËt tè tông h×nh sù.
H§XX : Héi ®ång xÐt xö.
KSV : KiÓm s¸t viªn.
TTHS : Tè tông h×nh sù.
VKS : ViÖn kiÓm s¸t.
VKSND : ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n.
2
.
Mục lục
Nội dung Trang
Danh mục viết tắt 1
Mục lục 2
Lời nói ĐầU . 4
Chơng 1. Cơ sở lý luận và pháp luật hiện hành thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ


thẩm vụ án hình sự .8
1.1. Cơ sở lý luận về chc nng ca Vin kim sát trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự 8
1.1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự 8
1.1.2. Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự 16
1.2. Pháp luật hiện hành về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự 20
1.2.1. Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố 20
1.2.1.1. Trớc khi mở phiên tòa 20
1.2.1.2. Tại phiên tòa . 24
1.2.1.3. Kết thúc phiên tòa 30
1.2.2. Thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật 32
1.2.2.1. Trớc khi mở phiên tòa .32
1.2.2.2. Tại phiên tòa 35
3
.
1.2.2.3. Kết thúc phiên tòa 37
Chơng 2. thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phơng
hớng và một số giải pháp hoàn thiện 40
2.1. Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự . 40
2.1.1. Những kết quả đạt đợc 40
2.1.2. Những tồn tại 41
2.1.2.1. Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố . 41
2.1.2.2. Thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật 48
2.2. Phơng hớng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự 50

2.2.1. Phơng hớng thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự . 50
2.2.2. Phơng hớng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự . 55
2.3. Giải pháp thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự . 57
2.3.1. Cơ sở thực tiễn và t tởng chỉ đạo hoàn thiện chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 57
2.3.2. Các giải pháp hoàn thiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 59
2.3.2.1. Giải pháp về cơ sở pháp lý . 59
2.3.2.2. Giải pháp về tổ chức-con ngời . 63
2.3.2.3. Giải pháp về cơ sở vật chất-kỷ thuật 64
Kết luận 66
Danh mục tài liệu tham khảo 68
4
.
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện kiểm
sát nhân dân cũng nh các cơ quan T pháp khác giữ vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự ổn
định của xã hội. Để thực hiện vai trò quan trọng đó, pháp luật đã quy định cho
Viện kiểm sát có các chức năng cụ thể để thực hiện nhiệm vụ.
Hiện nay, Đảng và Nhà nớc ta tiến hành công cuộc cải cách t pháp và cải
cách Viện kiểm sát là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ
máy Nhà nớc nói chung và cải cách t pháp nói riêng. Theo tinh thần Nghị
quyết số 49-NQ/TW Về Chiến lợc cải cách t pháp đến năm 2020 đã xác định:
Trớc mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng nh hiện nay là thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp. Viện kiểm sát nhân dân

đợc tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án. Nghiên cứu việc chuyển
Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cờng trách nhiệm của Công tố trong
hoạt động điều tra. Ban chỉ đạo cải cách t pháp Trung ơng đã ban hành Kế
hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22 tháng 02 năm 2006 đã giao cho Ban cán sự
Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì thực hiện nhiệm vụ Nghiên cứu
xây dựng mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong tiến trình cải cách t pháp; chuẩn bị điều kiện để sắp xếp tổ chức bộ máy
của Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho phù hợp với việc đổi mới tổ chức Toà
án theo thẩm quyền xét xử sẽ đợc thực hiện sau năm 2010.
5
.
Nh vậy, theo tiến trình cải cách t pháp, thì trớc mắt Viện kiểm sát nhân
dân vẫn giữ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động t pháp
và đợc tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án nhân dân.
Trong tơng lai, Viện kiểm sát sẽ đợc tổ chức thành Viện công tố và trách
nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra đợc tăng cờng. Trong giai đoạn cải
cách t pháp hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chức năng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của
Toà án hay là chỉ thực hành quyền công tố tại phiên toà. Vì vậy việc xác định
đúng và rõ ràng chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự để từ đó xác định mô hình tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát ở nớc
ta đáp ứng đợc yêu cầu cải cách t pháp trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp
thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Nhằm góp một phần vào việc xác định chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tiến trình cải cách t pháp,
tác giả lựa chọn Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự làm đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu

Từ trớc đến nay có rất nhiều công trình khoa học, các bài báo viết trên
các tạp chí về chức năng của Viện kiểm sát và các nội dung có liên quan nh:
Bàn về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải
cách t pháp của Tiến sĩ Lê Thị Tuyết Hoa đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 18
năm 2007 bàn về chức năng của Viện công tố trong tố tụng hình sự sau năm
2010; Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự của tác giả
Nguyễn Đức Mai đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 04 năm 2003 bàn về mối
quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát tuân
6
.
theo pháp luật; Về vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy Nhà nớc ta của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Nhà nớc và pháp
luật số 07 năm 2000 đề cập đến tính độc lập của cơ quan công tố; Thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử của tác giả Lý Văn Chính đăng trên Tạp
chí Toà án nhân dân số 06 năm 2006 đề cập đến những vớng mắc khi thực
hiện quyền công tố tại phiên tòa;
Các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn có nhiều quan điểm khác
nhau. Tuy nhiên, về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình trong giai đoạn cải cách t pháp còn nhiều vấn đề cha đợc đề
cập một cách toàn diện, cụ thể. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống để làm sáng tỏ chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó đa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật về chức năng, hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự theo tiến trình cải cách t pháp.
3. Phạm vi, đối tợng nghiên cứu đề tài
Vấn đề chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự có nội dung rộng và phức tạp. Vì vậy, trong phạm vi một Luận văn
Thạc sĩ luật học không thể đề cập hết mà chỉ giới hạn nghiên cứu ở góc độ về
chức năng và thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa và sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vụ án hình

sự theo quy định của pháp luật hiện hành và theo tinh thần Nghị quyết số 49-
NQ/TW.
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận chung về chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân, quy định của pháp luật về nhiệm vụ để thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
4. Phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu đề tài
7
.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, T tởng Hồ Chí Minh về Nhà
nớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nớc về việc xây dựng hệ thống
tổ chức hoạt động và chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói
chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Ngoài phơng pháp nêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả còn
sử dụng phơng pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, để
giải quyết các vấn đề đặt ra.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và
thực tiễn từ đó đa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét sử sơ thẩm vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu trên cơ sở phân tích về mặt lý luận và thực tiễn về
chức năng và thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự; đánh giá thực việc hiện chức năng để đa ra một số giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về việc thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn cải cách t pháp.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ và phân định chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật và theo
tinh thần cải cách t pháp. Trên cơ sở đó hoàn thiện các quy định của pháp luật
hiện hành để việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 02 chơng:
8
.
Ch ơng 1 : Cơ sở lý luận và pháp luật hiện hành thực hiện chức năng của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Ch ơng 2 : Thực tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phơng hớng và một số giải pháp hoàn
thiện.
chơng 1
Cơ sở lý luận và pháp luật hiện hành thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
1.1. Cơ sở lý luận về chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Từ khi giành độc lập, Nhà nớc ta đã sử dụng các cơ quan của Bộ máy
khác nhau để quản lý, giữ vững nền độc lập. Trong đó mỗi cơ quan nhà nớc đ-
ợc giao mỗi chức năng khác nhau để hoạt động. Chức năng là phơng diện hoạt
động chủ yếu, có tính chất cơ bản, lâu dài, xuất phát từ bản chất của sự vật
hiện tợng nhằm thực hiện mục đích của chính quyền Nhà nớc.
Chức năng theo tiếng latinh là functio có nhiều nghĩa khác nhau, có thể
hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, chức năng, vai trò hay hiểu là loại hoạt
động đặc biệt của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó Tùy ngữ cảnh
cụ thể để áp dụng, nhng nghĩa chủ đạo của chức năng là phơng diện hoạt động
để thực hiện nhiệm vụ của mình.
9

.
Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội mà nhà nớc giao cho mỗi
cơ quan những chức năng khác nhau để hoạt động. Nếu căn cứ vào mối quan
hệ giữa quyền lực chính trị và pháp luật ngời ta chia quyền lực thành: Quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền t pháp. Trên cơ sở phân chia quyền lực,
căn cứ vào phơng thức thực hiện quyền lực nhà nớc ngời ta chia chức năng nhà
nớc thành: Chức năng lập pháp, chức năng hành pháp và chức năng t pháp.
Để bộ máy nhà nớc thực hiện nhịp nhàng, chính xác và hiệu quả, nhà nớc
tiến hành phân công giữa các bộ phận của bộ máy, nghĩa là phân định thẩm
quyền. Thẩm quyền của cơ quan nhà nớc bắt nguồn và phát sinh từ thẩm
quyền của nhà nớc nên thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nớc không bao giờ
lớn hơn thẩm quyền của nhà nớc. Do đó, nhà nớc bao giờ cũng giao cho cơ
quan nhà nớc những hình thức hoạt động nhất định. Đó có thể là hình thức
hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, xét xử
Trong hệ thống các cơ quan nhà nớc cấu thành nên bộ máy nhà nớc đều
có thẩm quyền do pháp luật quy định. Căn cứ vào nhiệm vụ để quy định chức
năng và căn cứ vào nhiệm vụ chức năng để giao các quyền hạn để thực hiện
nhiệm vụ, chức năng đó. Các khái niệm chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn là khác nhau nhng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thẩm quyền là ph-
ơng tiện để thực hiện nhiệm vụ. Chức năng không phải yếu tố của thẩm quyền,
mà các quyền và nghĩa vụ thực hiện chức năng mới là yếu tố của thẩm quyền.
Nh vậy, chức năng của cơ quan nhà nớc là những hoạt động cơ bản lâu dài có
tính chất định hớng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi thẩm
quyền nhằm đạt đợc những mục đích.
Để bảo vệ nền độc lập và phục vụ cách mạng thì Nhà nớc đã giao cho
Viện kiểm sát (VKS) thực hiện chức năng cơ bản để hoạt động nhằm thực
hiện chức năng chung của nhà nớc. Ngay từ ngày thành lập Nhà nớc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh bãi bỏ quan chức hai ngạch hành chính
10

.
của chính quyền thực dân phong kiến, đồng thời ban hành một loạt các Sắc
lệnh để thiết lập ngay các cơ quan t pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm
đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội, đảm bảo cho việc củng cố
chính quyền cách mạng. So với Toà án thì cơ quan Công tố đợc thiết lập muộn
hơn. Từ hệ thống Công tố nằm trong Toà án theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 13
tháng 9 năm 1945, sau đó đợc qui định cụ thể tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24
tháng 01 năm 1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 Theo sắc
lệnh số 13/SL quy định: Công tố viên chỉ có quyền kháng cáo về việc hình
[18, tr.125] thì theo Sắc lệnh số 85/SL năm 1950 quy định: Công tố viên có
quyền kháng cáo về việc hộ cũng nh việc hình [18, tr. 251] đã đánh dấu sự
mở rộng thẩm quyền kiểm sát của cơ quan Công tố đối với hoạt động xét xử.
Hệ thống Công tố đợc tách dần ra khỏi hệ thống Toà án và sự ra đời của
Hiếp pháp 1959 đánh dấu bớc ra đời của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
với t cách là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nớc. Chức năng nhà nớc
của VKSND từ thẩm quyền đợc giao là thực hiện chức năng t pháp cùng với
Tòa án nhân dân và các cơ quan t pháp khác. Lúc này không còn Viện Công
tố trực thuộc Chính phủ mà thay thế vào đó là hệ thống VKS, cơ quan độc lập
trong hệ thống bộ máy nhà nớc. Theo Hiến pháp 1959 thì VKS không những
có chức năng công tố mà còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và trong hoạt động t pháp.
Chức năng của VKS theo chiều dài của lịch sử và gắn liền với sự phát
triển kinh tế đất nớc. Đánh giá và nhìn nhận về chức năng của VKS trong hệ
thống cơ quan nhà nớc nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đợc nâng
lên một bớc rõ rệt theo quy định của Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục khẳng
định theo Hiến pháp năm 1992.
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VII
ngày 04 tháng 12 năm 1991 về chỉ đạo xây dựng Hiến pháp năm 1992 kết
luận: Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ hai chức năng kiểm sát việc tuân theo
11

.
pháp luật và chức năng công tố. Theo đó, VKSND đợc Quốc hội giao cho
chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan
chính quyền địa phơng, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lợng vũ
trang, mọi công dân. Khi phát hiện có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật
thì VKS thực hiện các biện pháp đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật đợc thực
hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, thay mặt nhà nớc buộc tội ra Toà án để xử
lý theo pháp luật. Theo Điều 137 Hiếp pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức
VKSND thì: Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo
pháp luật, thực hành quyền công tố. Đây là phơng diện hoạt động cơ bản đợc
cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội giao cho VKSND. Tuy nhiên vấn đề
này cũng có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng VKSND có
hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật,
cũng có quan điểm cho rằng xét về chức năng nhà nớc thì VKSND có một
chức năng duy nhất là kiểm sát tuân theo pháp luật, nh tác giải Nguyễn Thái
Phúc: Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát là chức
năng cơ bản, trực năng, thuộc tính của Viện kiểm sát nhân dân, vì chức năng
đó mà dẫn đến sự ra đời hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nớc ta
[12, tr. 133].
Điều kiện kinh tế xã hội phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đợc
mở rộng, do đó chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nớc đợc thay đổi
cho phù hợp. Ngày 25 tháng 12 năm 2001, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
51/2001/NQ sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó
tại Điều 2 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, t pháp. Theo đó, VKSND thực hiện chức năng
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp.
Theo tiến trình cải cách t pháp của Bộ chính trị trong đó cải cách hệ
thống VKSND là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy
12

.
nhà nớc nói chung và các cơ quan t pháp nói riêng, mục đích xây dựng nhà n-
ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 (Nghị quyết 49-NQ/TW) Về chiến
lợc cải cách t pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: Trớc mắt, Viện kiểm
sát nhân dân giữ nguyên chức năng nh hiện nay là thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động t pháp .
Nh vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành cũng nh theo tiến trình
cải cách t pháp thì VKSND có chức năng: Chức năng thực hành quyền công tố
và chức năng kiểm sát các hoạt động t pháp.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố thể hiện rõ
nét ở giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS thực hiện truy tố ngời có hành vi vi
phạm pháp luật ra trớc Toà án để xét xử và buộc tội tại phiên toà theo quy
định của pháp luật và theo trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là
chức năng đợc nhà nớc giao cho VKSND, không một cơ quan nhà nớc nào có
thể thay thế.
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 1992 về chức năng của VKSND,
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nói riêng. Điều 23 của BLTTHS quy định: Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố ng-
ời phạm tội ra trớc Toà án. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của tố tụng hình
sự, trong đó VKSND có trách nhiệm đồng thời thực hiện hai chức năng:
1) Thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc truy tố đúng ngời, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt ngời phạm tội, không làm oan ngời vô tội;
2) Kiểm sát việc xét xử nhằm đảm bảo việc xét xử vụ án hình sự khách
quan, toàn diện, nghiêm minh, kịp thời và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố
13
.

tụng pháp luật quy định, bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ các phán quyết
của Toà án về vụ án.
Các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng chỉ nhằm
mục đích thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử,
trong khi đó VKS và Tòa án có mối quan hệ đặc thù riêng. VKS với vai trò là
cơ quan giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử, cụ thể là
giám sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa theo các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự. Trong khi đó Tòa án thực hiện theo nguyên tắc xét xử độc lập
và tuân theo pháp luật, song việc thực hiện chức năng một cách độc lập của
VKS và cơ quan Tòa án vẫn có mối quan hệ với nhau.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nên Luật tố tụng hình sự
quy định nếu nh trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền hủy bỏ các quyết
định không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật của cơ quan điều tra thì
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét thấy các bản án, quyết định vi phạm pháp
luật thì VKS chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua việc kháng nghị để
yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét bản án, quyết định của Tòa án cấp dới hoặc
kiến nghị đối với Tòa án cấp dới hoặc cùng cấp để xem xét khắc phục các vi
phạm pháp luật trong hoạt động xét xử (Điều 18 Luật tổ chức VKSND).
Theo quy định của Luật tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử sơ thẩm kể từ
khi VKS chuyển hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng sang Tòa án và kết thúc khi
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Đây là
giai đoạn trung tâm của tố tụng. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung và tính chất
hoạt động thực hiện chức năng của VKS, có thể chia quá trình xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự thành ba giai đoạn (phần) cụ thể: Giai đoạn chuẩn bị xét xử; giai
đoạn xét xử tại phiên tòa và giai đoạn sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.
Chức năng của VKSND đợc thể hiện trong mỗi giai đoạn cụ thể này của quá
tố tụng hình sự thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và giai đoạn sau khi kết
14
.

thúc phiên tòa thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đợc
thể hiện rõ nét nhất, còn tại phiên tòa thể hiện đậm nét của chức năng thực
hành quyền công tố, buộc tội tại phiên tòa. Tùy theo trong mỗi giai đoạn tố
tụng cụ thể mà pháp luật quy định VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau để thực hiện các chức năng này. Tuy nhiên các chức năng này đan xen,
bổ trợ nhau và có mối quan hệ khắng khít nhau.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của VKS trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. VKS chỉ có một chức năng duy nhất là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án. Chức
năng thực hành quyền công tố chỉ là một nội dung để thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng, VKS chỉ có một chức năng trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó là thực hành quyền công tố tại phiên tòa,
trong đó bao gồm cả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bổ trợ cho chức năng thực hành quyền
công tố.
Quan điểm thứ ba cho rằng, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
VKS thực hiện hai chức năng độc lập đó là chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án và thực hành quyền công tố,
trong đó chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án đợc thực hiện xuyên suốt, chức năng thực hành quyền công tố là
chức năng cơ bản.
Để xác định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS có chức
năng nào, và chức năng nào là chức năng cơ bản thì phải căn cứ vào các quy
định của pháp luật hiện hành về chức năng nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời phải xem xét bản chất và nội dung của
các chức năng cụ thể đó. Theo chúng tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm
15
.

cho rằng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS tồn tại hai chức
năng độc lập là chức năng kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của Tòa án và thực hành quyền công tố, trong đó chức năng
thực hành quyền công tố là chức năng cơ bản. Hai chức năng này của VKS đ-
ợc quy định rõ tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và các Điều 23, 91, 141 của
BLTTHS. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án đợc thực hiện
xuyên suốt từ khi hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng chuyển sang Tòa án đến
khi bản án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị, còn chức
năng thực hành quyền công tố đợc thể hiện tập trung và rõ nét nhất tại phiên
tòa sơ thẩm.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án của VKS vừa là chức năng tố tụng vừa là chức năng giám sát nhà nớc.
Vì chức năng xét xử là chức năng t pháp của nhà nớc giao cho Tòa án thực
hiện và Tòa án là chủ thể duy nhất thực hiện quyền t pháp, do đó kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án là
hoạt động kiểm sát quyền lực nhà nớc nói chung và kiểm sát hoạt động xét xử
của Tòa án nói riêng, nó có ý nghĩa quan trọng và góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa của VKS đợc tập trung
chủ yếu và rõ nét nhất ở ở chức năng buộc tội, bảo vệ quyết định truy tố của
mình. Đây là chức năng cơ bản của VKS cũng nh của cả quá trình tố tụng từ
giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên, chức năng buộc tội
chỉ là một hình thức của thực hành quyền công tố. VKS thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ là chủ thể thực hiện
chức năng buộc tội mà còn thực hiện các hoạt động khác. Giữa chức năng
công tố (chức năng nhà nớc) và chức năng buộc tội (chức năng tố tụng) có
16
.
mối quan hệ mật thiết nhau. Chức năng công tố trong giai đoạn xét xử không

chỉ thực hiện thông qua chức năng buộc tội tại phiên tòa mà còn đợc thực hiện
thông qua các hoạt động khác nh kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
Hai chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vừa
có tính độc lập tơng đối vừa có sự liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại bổ sung
cho nhau, và ở trong một phạm vi nhất định hai chức năng này có những nối
dung xâm nhập nhau không thể tách rời vừa thuộc chức năng này vừa thuộc
chức năng kia. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự thống nhất trong chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các chức
năng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mối quan hệ khắng khít
với các giai đoạn khác trong quá trình tố tụng, nó vừa là hệ quả của giai đoạn
điều tra vừa là kiểm chứng cho giai đoạn điều tra.
Tóm lại, VKS là chủ thể trung tâm thực hành quyền công tố trong tố tụng
hình sự. Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
thực hiện chức năng buộc tội, chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, chức năng buộc tội chỉ là một hình thức của thực hành quyền công tố,
chức năng thực hành quyền công tố có phạm vi rộng hơn chức năng buộc tội.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng thực hành quyền
công tố là chức năng cơ bản, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án thực hiện xuyên suốt. Hai chức năng này
có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ trợ nhau quan suốt giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Thực hiện chức năng này sẽ đảm bảo tính đúng đắn cho
việc thực hiện chức năng kia và ngợc lại.
1.1.2. Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS là cơ quan tiến hành
tố tụng cùng với Tòa án. Là cơ quan tiến hành tố tụng, VKS phải là cơ quan
thực hiện chức năng của tố tụng hình sự (TTHS). Trong giai đoạn xét xử, VKS
17
.
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền

công tố. Nh vậy chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự có những đặc điểm cụ thể nào?. Ngoài những đặc điểm chung của chức
năng của VKSND trong bộ máy nhà nớc và trong tố tụng hình sự thì chức
năng của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm còn có đặc điểm riêng, mang
tính đặc thù, đó là:
Thứ nhất, đây là hoạt động chỉ do cơ quan duy nhất là VKS tiến hành theo
quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, VKS là cơ quan có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động t pháp. Với chức năng, nhiệm vụ
của mình, VKS thực hiện quyền lực nhà nớc, trực tiếp thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động t pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà n-
ớc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân; bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của nhà nớc, của tập thể và lợi
ích hợp pháp của công dân phải đợc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo
quy định của pháp luật.
Là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố, trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn là đọc
cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có; quyết định của VKS liên quan
đến việc giải quyết vụ án; tham gia xét hỏi; thực hiện việc luận tội bị cáo tại
phiên toà; tranh luận với bị cáo, ngời bào chữa và những ngời tham gia tố tụng
khác.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Tòa án, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát biên bản phiên
toà, bản án, quyết định của Toà án; kiểm sát việc chuyển giao bản án, quyết
định của Toà án; kiểm tra việc gửi hồ sơ kháng cáo, kháng nghị; cấp, thu hồi
18
.
giấy chứng nhận ngời bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động
tố tụng khác theo quy định của pháp luật TTHS.

Thứ hai, chủ thể tiến hành chức năng tại phiên toà sơ thẩm do KSV tiến
hành và phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Khi tham gia phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên (KSV) đại diện cho VKS
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS đợc pháp luật TTHS qui định. Đó là
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử của Tòa án. Theo Điều 1 Pháp lệnh KSV: "Kiểm sát viên đợc bổ nhiệm theo
qui định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động t pháp". Vấn đề này đợc thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa sơ thẩm mà
tại đó chủ thể tiến hành chỉ là KSV, không một ai khác. Theo tác giả V.X
Baxcốp (Liên Xô cũ) cho rằng:
Kiểm sát viên của bất kỳ cấp nào, với t cách là công tố nhà nớc là
ngời đại diện của Viện trởng Viện kiểm sát Liên bang cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Xô Viết, họ là ngời giữ gìn pháp chế trong tố tụng hình sự. Khi
duy trì công tố nhà nớc, họ đồng thời có trách nhiệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong xét xử của Tòa án. Duy trì công tố nhà nớc và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật cần phải xem nh cái riêng và cái chung [23,
tr. 19].
Ngoài KSV, thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc sau khi kết thúc
phiên tòa sơ thẩm thì còn có các chủ thể khác tham gia, tuy nhiên vẫn có sự
tham gia của KSV có thẩm quyền. Chẳng hạn việc xem xét yêu cầu trả hồ sơ
vụ án, quyết định điều tra bổ sung hay trả lại cho Toà án thì ngời quyết định là
Viện trởng, Phó viện trởng VKS nhng cũng có sự đề xuất của KSV hoặc việc
kiểm tra bản án, quyết định để xem xét kháng nghị, dự thảo kháng nghị phúc
thẩm bản án sơ thẩm có thể do Kiểm tra viên, chuyên viên thực hiện nhng
cũng đều có sự nhất trí của KSV trớc khi trình lãnh đạo VKS quyết định.
19
.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo
pháp luật tại phiên tòa, KSV phải tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
theo qui định của BLTTHS, bởi đặc thù của hoạt động này có đối tợng tác động

là các quyền tự do, dân chủ của cá nhân. Chính vì vậy, pháp luật hiện hành đã
quy định rất chặt chẽ trình tự, thủ tục từ việc tiến hành các hoạt động chuẩn bị
xét xử, đọc cáo trạng, trình tự xét hỏi, tranh luận
Thứ ba, chức năng của VKS trong giai đoạn này chủ yếu ban hành quyết
định trực tiếp bằng lời nói.
Chức năng của VKS trong giai đoạn này thể hiện tập trung tại phiên toà sơ
thẩm với đặc điểm của nó là trực tiếp và bằng lời nói nên ở giai đoạn này KSV
phải công bố các quyết định và yêu cầu bằng lời nói, mặc dù quyết định truy tố
bằng bản cáo trạng đã ban hành bằng văn bản trớc đó. KSV tham gia xét hỏi và
tranh luận công khai tại phiên tòa mà không ban hành thành các văn bản cá
biệt. Lời nói của KSV tại phiên tòa xem là một văn bản pháp lý có hiệu lực thi
hành ngay nh quyết định của KSV thực hành quyền công tố tại phiên toà về
việc luận tội, truy tố bị cáo ở điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình sự (BLHS)
và đề nghị mức hình phạt ra sao, cũng nh quyết định rút một phần hoặc toàn bộ
cáo trạng đã truy tố của VKS trớc đó. Mặc dù các quyết định truy tố của VKS
bằng bản cáo trạng đã có hiệu lực pháp luật nhng tại phiên tòa KSV phải công
bố lại các quyết định này và việc công bố lại bằng lời nói của KSV có giá trị
pháp lý trực tiếp để trên cơ sở đó Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét việc thực
hiện giới hạn xét xử cũng nh thực hiện quyền bào chữa của bị cáo Nói nh vậy
không có nghĩa là hoạt động thực hiện chức năng của VKS tại phiên tòa không
đợc lập thành văn bản mà trong giai đoạn này của VKS còn có bắt đầu trớc
phiên toà và kết thúc sau phiên toà nên trớc hết VKS có quyền ban hành các
quyết định bằng văn bản cá biệt khác nhau nh quyết định truy tố, quyết định
kháng nghị Hoặc sau phiên tòa, VKS có những kiến nghị chính thức bằng văn
bản đối với những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án đã đợc
20
.
KSV kiến nghị trực tiếp bằng lời nói tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Dù thế nào
thì tại phiên tòa VKS thực hiện chức năng của mình vẫn thực hiện trực tiếp
bằng lời nói của KSV là chủ yếu và nó có giá trị pháp lý trực tiếp thi hành tại

phiên tòa.
Thứ t, chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đợc pháp luật bảo đảm thi hành thông qua các quyền hạn do pháp luật tố tụng
hình sự quy định.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trọng tâm, đánh giá,
kiểm chứng và kết luận của một quá trình TTHS, do đó pháp luật qui định cho
VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn để thực thi chức năng đó nhằm đảm bảo
cho pháp luật đợc thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Tại Điều 23, khoản 2
Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng và ngời tham gia tố tụng, áp dụng những biện
pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan hoặc cá nhân này.
1.2. Pháp luật hiện hành về chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
1.2.1.1. Trớc khi mở phiên tòa
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án kèm
theo bản kết luận điều tra đến VKS để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Trong giai đoạn này, VKS thấy đủ căn cứ để truy tố vụ án ra trớc Toà án để
xét xử thì VKS phải ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng. Theo quy định
tại Điều 167 BLTTHS thì trong bản cáo trạng truy tố phải ghi rõ tội danh và
điều khoản của Bộ luật hình sự. Giai đoạn xét xử sơ thẩm bắt đầu từ khi VKS
chuyển hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng truy tố đến Toà án và kết thúc khi
21
.
bản án không bị kháng cáo, kháng nghị. Nội dung thể hiện rõ nét nhất của
chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn này là xem xét tính có căn
cứ của quyết định truy tố của mình, giải quyết việc rút quyết định truy tố và
xử lý trờng hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu VKS xét thấy có căn cứ quy định tại
Điều 107 của BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can
theo quy định tại Điều 19, 25 và khoản 2 Điều 69 của BLHS, thì VKS rút
quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án (Điều 181 BLTTHS). Nh
vậy, theo tinh thần của Điều 181 BLTTHS thì phạm vi rút quyết định truy tố là
khoảng thời gian hồ sơ vụ án chuyển sang Toà án và trớc khi Toà án mở phiên
toà và giới hạn của việc rút quyết định truy tố là rút toàn bộ quyết định truy tố
chứ không rút một phần quyết định truy tố, bởi lẽ việc rút quyết định truy tố
trong trờng hợp này thì Toà án đình chỉ vụ án.
Tuy nhiên, theo Thông t liên ngành số 01 ngày 08 tháng 12 năm 1988
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao (Thông t Liên
ngành số 01) quy định: Trớc khi mở phiên toà, nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ
quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án, nếu rút
một phần thì Hội đồng xét xử chỉ xét xử phần không bị rút truy tố. Nh vậy,
theo Thông t Liên ngành số 01 thì VKS có thể rút toàn bộ hoặc rút một phần
quyết định truy tố. Rút toàn bộ quyết định truy tố là rút tất cả các nội dung
truy tố của bản cáo trạng mà VKS đề nghị Toà án đa ra xét xử, trong trờng
hợp này thì VKS đề nghị Toà án đình chỉ vụ án. Rút một phần quyết định truy
tố là việc một hoặc nhiều bị can đợc rút quyết định truy tố trong vụ án có đồng
phạm hoặc một bị cáo bị VKS truy tố về nhiều tội khác nhau, nay VKS rút
quyết định truy tố về một hoặc một số tội nào đó, tức không rút hết. Theo
Thông t Liên ngành số 01, trong trờng hợp này thì VKS đề nghị Toà án đình
chỉ phần quyết định truy tố đã bị VKS rút và HĐXX chỉ đa ra xét xử phần
không bị rút. Tuy nhiên, khi vận dụng Điều 181 BLTTHS và Thông t Liên
22
.
ngành số 01 thì hiểu vấn đề này còn nhiều quan điểm khác nhau. Đó là trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, trờng hợp Toà án cha đa vụ án ra xét xử mà VKS
rút một phần quyết định truy tố thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án hay
HĐXX, bởi vì theo Thông t Liên ngành 01 thì khi VKS rút một phần quyết

định truy tố thì việc xét xử phần không bị rút quyết định truy tố thuộc thẩm
quyền của HĐXX.
Theo chúng tôi, cần sửa đổi rõ ràng hơn về giới hạn rút quyết định truy tố
của VKS và thẩm quyền giải quyết việc rút quyết định truy tố, theo đó VKS có
quyền rút toàn bộ hoặc một phần quyết định truy tố, nếu VKS rút toàn bộ
quyết định truy tố thì Toà án đình chỉ, nếu VKS rút một phần quyết định truy
tố thì Toà án đa vụ án ra xét xử phần không bị rút quyết định truy tố.
Trong trờng hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì VKS xem xét
giải quyết việc trả hồ sơ của Toà án. Nếu Toà án trả hồ sơ không có căn cứ
theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS hoặc không đúng quy định theo
Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 11 năm 2004 của Hội đồng
thẩm phán (Nghị quyết số 04-NQ/HĐTP) thì VKS chuyển lại hồ sơ cho Toà
án và tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu Toà án trả hồ sơ bổ sung có căn cứ và hợp
pháp thì tiến hành điều tra bổ sung. Những yêu cầu điều tra bổ sung mà VKS
có thể tiến hành bổ sung đợc thì VKS tự mình điều tra bổ sung, nếu xét thấy
các yêu cầu điều tra bổ sung phức tạp mà VKS không thể tự mình điều tra bổ
sung đợc thì VKS ra quyết định trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành
điều tra bổ sung.
Trong trờng hợp kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung
quyết định truy tố trớc đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành
theo yêu cầu của Toà án thì VKS chuyển lại hồ sơ cho Toà án và giữ nguyên
quyết định truy tố và đề nghị Toà án tiếp tục đa vụ án ra xét xử. Trờng hợp
kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung quyết định truy tố thì VKS lập
cáo trạng truy tố mới. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì
23
.
VKS đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết (Điều 179 BLTTHS). Nh
vậy, trong trờng hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung cáo trạng
truy tố so với trớc đây hoặc kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì
có thể xem là rút toàn bộ hay rút một phần truy tố không?. Theo chúng tôi

việc thay đổi nội dung của quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án sau khi Toà
án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung không thể xem là việc rút toàn bộ hoặc một
phần quyết định truy tố, mà đây đợc xem là việc giải quyết vấn đề điều tra bổ
sung theo yêu cầu của Tòa án, bởi lẽ việc thay đổi này không phải do VKS tự
mình phát hiện.
Chức năng thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đợc bắt đầu khi bản cáo trạng truy tố và hồ sơ vụ
án chuyển đến Toà án. Nh vậy khi giải quyết vấn đề Toà án trả hồ sơ để điều
tra bổ sung có đợc xem trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hay không. Vấn đề
này còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, đây là giai
đoạn chuẩn bị xét xử, bởi lẽ việc trả hồ sơ của Toà án nhằm mục đích bổ sung
thêm các chứng cứ quan trọng để xử lý vụ án đợc đúng pháp luật và VKS chỉ
giải quyết theo các nội dung yêu cầu của Toà án, đồng thời vấn đề xử lý trờng
hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đợc quy định trong Chơng Chuẩn bị
xét xử. Xét trên thực tiễn, khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì phải
xoá sổ thụ lý và việc trả hồ sơ của Toà án phải theo quy định của Nghị quyết
số 04-NQ/HĐTP. Cụ thể trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần
nêu rõ thuộc trờng hợp cụ thể nào quy định tại các điểm a, b và c Điều 179 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 và những vấn đề cụ thể cần điều tra bổ sung.
Không đợc nêu kết quả điều tra bổ sung có ý nghĩa nh thế nào đối với việc
giải quyết vụ án.
Do đó, kết quả điều tra bổ sung đa số làm thay đổi bản cáo trạng và quyết
định truy tố hoặc đình chỉ vụ án. Và trên thực tế khi hồ sơ vụ án đợc chuyển
đến cơ quan tố tụng nào thụ lý thì cơ quan tố tụng đó thực hiện nhiệm vụ
24
.
quyền hạn của mình để giải quyết vụ án và cơ quan đó có quyền quyết định
việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Vì vậy, vấn đề giải
quyết việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án không thuộc phạm vi của
giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Theo chúng tôi cần sửa đổi rõ ràng hơn về việc giải quyết trờng hợp Toà
án trả hồ sơ điều tra bổ sung, vấn đề này không thuộc giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm. Theo đó việc giải quyết việc điều tra bổ sung ở giai đoạn nào thì
thuộc phạm vi của giai đoạn đó. Khi VKS tự điều tra bổ sung theo yêu cầu của
Toà án thì thuộc phạm vi của giai đoạn truy tố, nếu VKS không tự mình bổ
sung đợc mà chuyển cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung thì thuộc
phạm vi của giai đoạn điều tra. Do đó chức năng của VKS trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xem xét tính có căn cứ của quyết
định truy tố của mình và giải quyết việc rút quyết định truy tố.
1.2.1.2. Tại phiên tòa
Tại phiên toà chức năng thực hành quyền công tố của VKS là chức năng
buộc tội thông qua việc công bố bản cáo trạng truy tố, tham gia xét hỏi, luận
tội và tranh luận. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS thì trớc khi tiến hành
xét hỏi, KSV đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung. Những ý kiến bổ
sung có thể là giải thích những chứng cứ đã thu thập đợc, làm rõ nội dung của
bản cáo trạng đã truy tố, về vấn đề dân sự trong hình sự, về vật chứng KSV
không đợc trình bày bổ sung thêm tội danh cho bị cáo hoặc bổ sung những ng-
ời phạm tội không đợc truy tố, không làm thay đổi nội dung cáo trạng, tức là
không đợc bổ sung những nội dung không có lợi hoặc làm xấu đi tình trạng
của bị cáo. Đây là một nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Bản cáo trạng truy tố bị can ra trớc Toà án thuộc thẩm quyền của Viện trởng
VKS, KSV chỉ là ngời đợc Viện trởng uỷ quyền tham gia phiên toà để thực
hiện chức năng truy tố và buộc tội. Bản cáo trạng phải thể hiện đầu đủ hành vi
phạm tội, động cơ, mục đích, hậu quả và các tình tiết quan trọng khác và ngời
25

×