MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ khi xã hội loài người được hình thành, các hoạt động chung của nhân
loại đã được quản lý bởi các quy phạm xã hội nhất định. Khi xã hội xuất hiện
giai cấp thì cách thức quản lý và điều chỉnh các hoạt động xã hội cũng thay đổi.
Sự hình thành Nhà nước và sự ra đời của pháp luật đáp ứng cho sự thay đổi này.
Nhà nước ban hành ra pháp luật nhằm hướng xã hội theo trật tự mà giai cấp thống
trị mong muốn. Nhưng mục đích đó không bao giờ được thực hiện một cách triệt
để và cho đến tận ngày nay điều đó vẫn còn tiếp tục biểu hiện ngay trong xã hội
văn minh vì có những lực lượng hay bộ phận dân cư chống lại Nhà nước, chống lại
pháp luật và xã hội hoặc vì lý do nào đó mà họ đã vi phạm pháp luật.
Trong xã hội tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hiện tượng vi phạm
pháp luật vần tiếp tục xảy ra một cách phổ biến và đáng lo ngại, nhất là trong
những năm gần đây khi chúng ta đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế quản
lý kinh tế. Những biến đổi xã hội tiêu cực do sự tác động của mặt trái củ nền
kinh tế thị trường đã ảnh hưởng nặng nề tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh” mà chúng ta đang quyết tâm phấn đấu và
xây dựng, trong đó vi phạm pháp luật nổi lên như một hiện tượng tiêu cực đặc
biệt với những hậu quả nặng nề. Các thống kê xã hội học và các báo cáo của các
cơ quan bào vệ pháp luật gần đây đã cho thấy tình trạng đáng báo động của hiện
tượng này, buộc các nhà quản lý và bất kỳ người nào có trách nhiệm đều phải
quan tâm, lo lắng. Nhận diện hiện tượng xã hội đặc biệt này một cách đúng đắn
trở thành một yêu cầu cấp thiết phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật trong thời gian sắp tới một cách có hiệu quả nhằm xây dựng một
xã hội như mục tiêu mà tất cả những người tiến bộ đều mong muốn đã nêu trên
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ lý do đó, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay có một ý nghĩa hết sức to lớn và
cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền
“của dân, do dân và vì dân” mà ở đó pháp luật giữ vai trò thống trị, mọi người
sống và làm việc theo Hiến pháp pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, xảy ra ở mọi xã hội có pháp luật và
Nhà nước nên nó được rất nhều các nhà quản lý cũng như các nhà luật học quan
tâm. Cho đến nay ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vi
phạm pháp luật nhưng chủ yếu đi theo từng mảng hay từng lĩnh vực cụ thể. Ví
dụ, trong lĩnh vực hình sự, việc nghiên cứu tội phạm được đặc biệt chú ý như
các công trình nghiên cứu về vấn đề lỗi của PGS- TS Nguyễn Ngọc Hòa, vấn đề
đồng phạm của TS Lê Thị Sơn, TS Trần Văn Độ và nhiều đề tài luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật, cao học luật và tiến sĩ luật học khác nghiên cứu từng tội
hoặc nhóm tội phạm cụ thể. Vi phạm pháp luật xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực
được pháp luật điều chỉnh và hầu như ở lĩnh vực nào cũng có những chương
trình, những vấn đề tài nghiên cứu về vi phạm pháp luật ở lĩnh vực ở lĩnh vực đó
như hành chính, dân sự, lao động, kinh tế, môi trường. Trong số các công trình
nghiên cứu đó thì các công trình nghiên cứu về tội phạm và tội phạm học là
phong phú, toàn diện và triệt để hơn cả. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trên đây chủ yếu đi theo xu hướng luật chuyên ngành thực định tình hình vi
phạm pháp luật xảy ra trên thực tế, còn việc nghiên cứu các yếu tố có liên quan
đến vi phạm pháp luật như vấn đề cơ sở để vi phạm hóa đối với một số hành vi
xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật, những yếu tố ảnh hưởng đến tình
hình vi phạm pháp luật thì rất ít được quan tâm hoặc chủ yếu quan tâm ở một
vài khía cạnh hẹp và trính khái quát không cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài này nhằm góp phần nhỏ bé cho việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp
luật thêm phong phú và đa dạng hơn.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Có thể nói, vi phạm pháp luật là một vấn đề hết sức phức tạp, chính vì thế
mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và khẳng định một số vấn đề
có tính chất lý luận trong đó bổ sung một số ý kiến của cá nhân trong quá trình
nghiên cứu để có thể trao đổi một số vấn đề lý luận liên quan đến thực tiễn. Từ
mục đích đó, luận văn tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
a. Vi phạm pháp luật với một số quan điểm từ trước đến nay.
b. Cơ chế của vi phạm pháp luật
c. Cấu thành của vi phạm pháp luật
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến vi phạm pháp luật
e. Đặc điểm của tình hình vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay
f. Tình hình kiểm soát vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong thời gian gần đây;
g. Xu hướng của tình hình vi phạm và một số giải pháp phòng, chống vi
phạm pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận văn.
Ngoài việc xuất phát từ cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lê-nin, tác giả đã sử dụng nhiều
phương pháp cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội học,
phỏng vấn, lịch sử theo yêu cầu của từng vấn đề.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Với tư cách là một luận văn tốt nghiệp của chương trình cao học luật, đề
tài nghiên cứu: “Vi phạm pháp luật - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam” đã góp phần khẳng định một số quan điểm lý luận về vi phạm pháp luật
như vấn đề lỗi của cá nhân, lỗi của tổ chức đồng thời đưa ra quan điểm riêng
về tiêu chí để dự báo tình hình vi phạm pháp luật và mạnh dạn dự báo xu hướng
của tình hình vi phạm pháp luật ở một số lĩnh vực theo những tiêu chí trên.
Ngoài ra, qua việc nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật của Việt Nam trong
thời gian gần đây, luận văn đã có một số ý kiến nêu lên những kiến nghị và giải
pháp cho công tác phòng, chống vi phạm pháp luật trong thời gian tới.
6. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành hao chương:
1. Chương I: Một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
2. Chương II: Tình hình vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng,
chống vi phạm pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
1.1.1. Hành vi
Con người, trong quá trình tồn tại và phát triển đã có nhiều hoạt động tác
động vào thế giới tự nhiên và khai thác những lợi ích vật chất để duy trì sự tồn
tại của mình và của giống nòi. Trong quá trình đó, con người lại có quan hệ với
nhau. Khi đó ngôn ngữ bắt đầu hình thành cùng với tư duy- con người trở thành
chủ thể có ý thức và hoạt động của con người dần được ý thức điều khiển. Với
tư cách đó, loài người đã tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên để trở thành chủ thể
có tính độc lập và có khả năng làm chủ bản thân. Các hoạt động của con người
như vậy (bao gồm cả hành động và không hành động) được gọi là hành vi. Các
hành vi ấy có thể chỉ là hành vi mang tính cá nhân nhưng cũng có khi mang tính
xã hội, có ảnh hưởng đến đời sống chung của cộng đồng. Lợi ích của cá cộng
đồng và của mỗi cá nhân được duy trì và đảm bảo nhờ sự phù hợp, thống nhất
trong các hoạt động. Cũng có không ít những hành vi lệch chuẩn. Nhưng muốn
biết được đâu là chuẩn đâu là không chuẩn thì phải xác định được có hành vi
hay không. Vì vậy phải có cơ sở để xác định hành vi. Cơ sở đó chính là các xử
sự được thể hiện ra bên ngoài của con người có sự kiểm soát của ý thức.
Tuy nhiên, hành vi cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau túy
theo quan điểm tiếp cận. Hành vi được các nhà sinh vật học xem xét với tư cách
là cách sống và hoạt động trong một môi trường nhất định dựa trên sự cần thiết
thích nghi tối thiểu của cơ thể đối với môi trường, hành vi của con người bị bó
hẹp trong các hoạt động thích nghi với môi trường để đảm bảo sự tồn tại cảu cá
thể người trong môi trường đó. Chuẩn mực để đánh giá hành vi chính là mức
độ thích nghi của cơ thể đối với môi trường. Các nhà tâm lý học lại cho rằng
hành vi của con người bao giờ cũng có mục đích, con người không phải là cá thể
thích nghi thụ động
Hành vi là tiêu chí quan trọng có bản để đánh giá con người. Nó bị chi
phối bởi nhiều nguyên tắc, nguyên lý, nhiều quan hệ. Về mặt tâm lý cũng như
mặt tự nhiên, cái sinh học của con người là nơi phát sinh và chứa đựng rất nhiều
nhu cầu; những nhu cầu đó bị ức chế bởi khả năng xã hội trong việc thỏa mãn
chúng. Thông thường, nhu cầu cá nhân cao hơn và vượt ra ngoài khuôn khổ xã
hội. Đó là cái hạt nhân phát ra mọi quyết định trong việc ứng xử của con người
trước sự tác động của ngoại cảnh. Nó là trung tâm điều tiết phẩm hạnh của con
người sao cho phù hợp với các quy luật của đời sống xã hội mà con người đã
nhận thức được và qua đó đặt ra những quy tắc ứng xử tương ứng. Việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội thực chất là việc điều chỉnh hành vi con người. Có
hàng loạt các yếu tố tác động, ảnh hưởng rất sớm đến hành vi như đạo đức,
phong tục, tập quán, lễ nghi tôn giáo trong cuộc sống, trong đó có yếu tố ảnh
hưởng rất lớn đến hành vi của con người theo những hướng nhất định là pháp
luật. Chịu sự tác động của các quy phạm pháp luật, các hành vi của con người
trở thành hành vi pháp lý.Con người, một năm là sản phẩm của lịch sử (của hoàn
cảnh tự nhiên và xã hội), mặt khác, là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử đó.
Như vậy con người cũng chính là chủ thể sáng tạo ra các quy phạm, trong đó có
các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật cũng do con người xây dựng
nên, đó là những quy tắc được ra theo yêu cầu của quản lý xã hội một cách
chung nhất. Trong các hành vi của con người có hành vi hợp lý. Hành vi được
coi là hợp lý khi nó phù hợp với hoàn cảnh khách quan, với quy luật của sự vận
động. Các nhà quản lý bao giờ cũng muốn trật tự xã hội diễn ra bởi các hành vi
hợp lý nhưng điều đó không phải bao giờ cũng xảy ra vì người ta có thể nhận
thức được nhưng cũng có thể không nhận thức được các quy luật đó. Vì vậy mà
ở mức độ tương đối,nhà quản lý muốn các hành vi xã hội xảy ra theo ý chí của
mình. Theo đó có hành vi hợp pháp và không hợp pháp. Hành vi là hợp pháp
hay không hợp pháp được xác định bởi các quy phạm pháp luật và cũng chính vì
vậy, sự xác định này còn phụ thuộc vào nhà làm luật.
1.1.2 Hành vi pháp luật
Hành vi pháp lý là hoạt động có ý thức của con người diễn ra trong môi
trường có sự điều chỉnh của pháp luật. Những hoạt động đó có thể mang tính
tích cực hay tiêu cực của cá nhân hay tổ chức về mặt xã hội được xác định trước
bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp các hành vi pháp
luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp.
1.1.2.1 Hành vi hợp pháp.
Hằng ngày, trong đời sống xã hội, các hoạt động của con người diễn ra rất
đa dạng, theo nhiều xu hướng, động thái, tính chất khác nhau, có mối quan hệ
với nhau. Các hoạt động sống của con người nói chung và có tính phổ biến là
các hành vi phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, nhờ đó mà trật xã hội được duy
trì, lợi ích của cá nhân, của cộng đồng được bảo đảm. Xuất phát từ điều này mà
các nhà cầm quyền trong bất kỳ một Nhà nước nào cũng đều đưa ra những
chuẩn mực cho cuộc sống dưới những hình thức pháp lý nhất định. Khi xây
dựng các quy phạm pháp luật, các nhà làm luật đã xác định một “khung pháp
lý” chỉ ra hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống, đồng thời cũng
chỉ ra cách ứng xử tương ứng cho con người vào hoàn cảnh đó. Đó có thể là việc
quy định về quyền, có thể là quy định về nghĩa vụ. Hành vi pháp lý bị các quy
phạm pháp luật điều chỉnh là hành vi khách quan do đòi hỏi của pháp luật.
Nói chung, việc xác định một hành vi hợp pháp phải có căn cứ vào quy
định của pháp luật. Một hành vi được coi là hợp pháp khi hành vi đó phù hợp
với pháp luật. Cụ thể hơn nữa thì hành vi đó có thể là sự thực hiện một quyền –
một xử sự được phép trong giời hạn mà quy phạm đã xác định (sử dụng pháp
luật). Hành vi đó có thể là một hành động tích cực của con người nhằm đáp ứng
một yêu cầu nào đó của Nhà nước hay của chủ thể khác có quyền (thì hành pháp
luật), hành vi đó cũng có thể là sự kiềm chế không thực hiện điều mà pháp luật
cấm (tuân thủ pháp luật). Như vậy, quy phạm pháp luật là căn cứ thực hiện và
lập trường đánh giá thống nhất về hành vi. Phần lớn những hành vi loại này
mang tính tích cực, có lợi cho xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi có lợi
cho xã hội đều là hành vi hợp pháp.
Có quan điểm cho rằng: “hành vi hợp pháp là hành vi có ích cho xã hội
phù hợp với những quy định của pháp luật, là việc sử dụng (hoặc không sử dụng
khi pháp luật cho phép) các quyền chủ thể, là việc thực hiện các nghĩa vụ pháp
lý của các chủ thể quan hệ pháp luật”
1
. Tuy nhiên, hành vi phù hợp với pháp luật
chưa chắc đã phù hợp với thực tế hay đòi hỏi của cuộc sống. Trên thực tế, không
phải bao giờ sự quy định của pháp luật cũng là hợp lý. Đó là khi những quy
phạm pháp luật được xây dựng không tuân theo đòi hỏi khách quan của cuộc
sống. Có thể thấy một điều rõ ràng là đời sống xã hội thì luôn luôn biến đổi,
trong khi đó, pháp luật lại có tính khuôn mẫu ổn định, có xu hướng đi sâu và
phản ánh sự phát triển của đời sống xã hội. Hơn thế nữa, pháp luật ra đời còn ít
nhiều bị chi phối bởi ý chí của những nhà làm luật. Nếu họ công tâm, vì lợi ích
chung và có trình độ để nhận thức các quy luật của đời sống xã hội thì pháp luật
xứng đáng là chuẩn mực để làm khuôn mẫu cho các vi xã hội. Trong trường hợp
ngược lại, vì nhận thức chủ quan của nhà làm luật có khoảng cách với đời sống
xã hội do lợi ích ích kỷ hoặc do trình độ hạn chế không phản ánh được nhu cầu
và sự vận động khách quan của cuộc sống thì pháp luật có thể lại trở thành một
lực cản đối với sự tiến bộ xã hội. Khi đó những hành vi hợp pháp biết đâu lại là
có hại cho xã hội. Nói cách khác, đó là pháp luật không phù hợp. Trong trường
hợp này, hành vi hợp pháp có thể mang lại những kết quả không tốt, vì vậy mà
pháp luật không còn xứng đáng là chuẩn mực cho xã hội nữa. Đã có không ít
những văn bản pháp luật ra đời đã trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội,
nhất ra đời trở thành lực cản cho sự phát triển của xã hội, nhất là khi đó là văn
bản pháp luật có giá trị cao, vì các văn bản có giá trị thấp hơn được ban hành
theo đó cũng có sự bất hợp lý tương ứng. Những hành vi được thực hiện theo
yêu cầu của những quy định như vậy là hành vi hợp pháp không hợp lý.
Trong một số trường hợp, pháp luật quy định hợp lý (phù hợp với đòi hỏi
của quá trình vận động của tiến bộ xã hội) nhưng có thể có một khoảng cách với
cuộc sống, chẳng hạn nói lại có sự khác biệt với những quy phạm đạo đức hay
tôn giáo Hành vi khi đó là hợp pháp nhưng không hợp tình và không dễ gì
1
Học viện Chính trị quốc gia, (1998), Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
, tra.370
được xã hội chấp nhận. Không phải nói ở đâu xa, ngay trong bộ luật hình sự
năm 1985 của Việt Nam khi quy định về hành vi không tố giác tội phạm, nếu
người thực hiện tội phạm là thân nhân hay bạn bè của người đi tố cáo thi hành
vì tố cáo của người đó mặc dù là phù hợp pháp luật nhưng chắc chắn không dễ
gì tránh được búa rìu dư luận. Hành vi này, người sự điều chỉnh của pháp luật nó
còn chịu sự điều chỉnh rất sâu sắc của đạo đức. Chuyện này đã từng xảy không ít
trong thực tế và vì vậy, hành vi đó lại bị lên án bởi dư luận xã hội. Có lẽ chính vì
thế mà trong Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi vào năm 1999, hành vi tố
cáo chỉ đặt ra cho một số tội có liên quan đến an ninh quốc gia.
Với những phân tích trên ta thấy, việc đánh giá các quy định của pháp luật
về hành vi hợp pháp phải có nhiều tiêu chí hay căn cứ khác nhau. Nếu việc quy
định của pháp luật thuần túy chỉ xuất phát từ ý chí chủ quan của nhà làm luật thì nó
khó có điều kiện được thực hiện hóa thành hành vi xã hội tích cực của con người.
1.1.2.2 Hành vui bất hợp pháp
Ngược lại với hành vi hợp pháp là hành vi bất hợp pháp, do vậy khi muốn
nhận thức một hành vi có phải là bất hợp pháp hay không cũng phải căn cứ vào
sự quy định của pháp luật được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Một
hành vi được coi là bất hợp pháp khi nó là xử sự không đúng với yêu cầu của
pháp luật (phần này sẽ được phân tích kỹ ở dấu hiệu trái pháp luật của hành vi vi
phạm dưới đây). Điều cần xác định đầu tiên ở đây là dấu hiệu hành vi. Phải có
hành vi có tính xác định của con người thì những biểu hiện khác mới có thể xem
xét được. Tuy nhiên, hành vi không phải bao giờ cũng là yếu tố được xem xét có
phải vi phạm pháp luật hay không. Lịch sử tồn tại của pháp luật trong thời kỳ
chiếm hữu nô lệ và phong kiến đã chứng minh điều đó. Ví dụ một trường hợp
vào khoảng cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ IV – TCN, Denis – một ông vua độc tài sứ
Cyracuse (Italia) đã cho rằng “điều nó chiêm bao ban đêm chính là cái nó đã
nghĩ lúc ban ngày”, nên đã giết chàng thanh niên Marsyas vì anh đã chiêm bao
thấy mình cắt cổ vua. Trong trường hợp này hành vi đã không được xét tới khi
xác định một người phạm tội vì chiêm bao hay suy nghĩ đều không phải là hành
vi. Nó không có mối liên hệ nào với bên ngoài, với thế giới khách quan, nó
không phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Ngày nay, điều này đã bị thay
đổi theo sự tiến bộ xã hội.
Trong số những hành vi bất hợp pháp, không phải hành vi nào cũng là
hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi bất hợp pháp cần phải có thêm một số
dấu hiệu khác để có thể trở thành hành vi vi phạm pháp luật. Ta sẽ làm rõ điều
này qua sự phân tích các dấu hiệu cụ thể của vi phạm pháp luật cùng với khái
niệm vi phạm pháp luật.
1.1.3. Vi phạm pháp luật
Trong khoa học pháp lý, khái niệm vi phạm pháp luật được nhắc tới rất
nhiều ở các ngành luật. Ví dụ, khái niệm vi phạm pháp luật hành chính lần đầu
tiên được định nghĩa trong pháp lệch xử phạt vi phạm hành chính ngày
30/1101989: “Vi phạm pháp luật hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính” hoặc được định nghĩa gián tiếp trong điều 1, khoản 2 Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995: “Xử lý vi phạm hành chính được áp dụng
đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý
nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Trong Bộ luật hình sự, vi phạm pháp luật
hình sự bị coi là tội phạm và được định nghĩa “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ trính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”. Nói chung, theo các cách xác định về vi phạm pháp luật
trên, vi phạm luôn luôn có các dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, có dấu hiệu
lỗi (cố ý hoặc vô ý) nhưng chưa có một cách nhìn khái quát về vi phạm pháp
luật, thậm chí chưa có cả sự khái quát cho khái niệm vi phạm pháp luật với các
chủ thể là cá nhân hay tổ chức ngay trong một khoa học pháp lý cụ thể (ví dụ,
khái niệm về vi phạm hành chính). Điều này sẽ được phân tích để làm rõ trong nội
dung khái niệm vi phạm pháp luật ở phần dấu hiệu của vi phạm tiếp sau. Đó là.
1.1.3.1. Dấu hiệu trái pháp luật của hành vi.
Có thể nói rằng đây là dấu hiệu đặc biệt quan trọng của vi phạm pháp luật.
Những dấu hiệu khác chỉ có thể nhận biết được thông qua dấu hiệu này. Nói
chung trong các quan điểm hiện đại, không có quan điểm nào phủ nhận dấu hiệu
hành vi. Hành vi ở đây có thể là hành động, có thể là không hành động. Hành
động là xử sự của con người thông qua các thao tác, hoạt động cụ thể tác động
vào thế giới khách quan làm biến đổi nó với những mức độ nhất định mà theo
tiếng Hán, đó là các “tác vi”. Còn hành vi thể hiện dưới dạng không hành động
là xử sự của con người không thực hiện một việc gì đó, và còn được gọi là “bất
tác vi”. Hành vi bằng hành động thì luôn có tính xác định cụ thể, ngược lại hành
vi không hành động rất khó xác định vì chỉ có thể xác định được nếu nó nằm
trong mối quan hệ nào đó được pháp luật xác định. Nếu không như vậy, nó có
thể chỉ là suy nghĩ hay tình cảm của con người. Theo C.Mác thì “ngoài hành vi
của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải
là đối tượng của nó”. Dưới cách nhìn của nhà làm luật thì hành vi trái pháp luật
phải là xử sự gây tác hại đến sự tồn tại và phát triển bình thường của trật tự xã
hội. Hành vi gây tác hại đó có thể là sự thực hiện những hành động mà pháp luật
cấm. Loại hành vi này tác động lên thế giới khách quan, trực tiếp làm biến đổi
chúng, gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ theo ý
chí của nhà làm luật. Hành vi gây hai dưới dạng không hành động không trực
tiếp gây ra thiệt hại. Nó được hiểu là sự trốn tránh thực hiện một nghĩa vụ nhất
định vì vậy mà đã không ngăn chặn được thiệt hại xảy ra hoặc một lợi ích
chung đã không được thực hiện.
Một vấn đề nữa cần xác định ở đây là hành vi được hiểu như thế nào trong
hoạt động của tổ chức. Thông thường khi người ta nói tới hành vi là nói tới hoạt
động của cá nhân. Thực chất hoạt động của tổ chức phải thông qua tổng hợp các
hoạt động của cá nhân. Nếu đã xác định vấn đề như vậy thì khi hành vi được
hiểu là xử sự có sự kiểm soát của ý thức và ý chí thì liệu có thể luôn luôn có sự
thống nhất ý chí hay giữa các cá nhân trong tổ chức hay không khi các quyết
định về hoạt động của tổ chức được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong
trường hợp này, thiểu số những người không nhất trí thì trách nhiệm của họ sẽ
được xác định như thế nào khi quyết định trên là trái pháp luật? Các tổ chức do
con người thành lập nên, khi đó nó trở thành một thực thể độc lập với chủ thể đã
thành lập ra nó. Khi đã nói đến tổ chức người ta phải nói tới hoạt động của nó,
nó được sinh ra vì mục đích gì, ai sẽ là người đại diện, là người chịu trách nhiệm
cho tổ chức và trước tổ chức Như vậy, việc xác định hành vi của tổ chức hay
của cá nhân phải xem cơ chế của hành vi.
Nói với hành vi vi phạm pháp luật là ta nói tới thái độ tiêu cực của các
chủ thể có năng lực trước pháp luật. Tuy nhiên, không phải cứ thực hiện hành vi
trái pháp luật là mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Trong thực tế, có rất nhiều
hành vi trái pháp luật không những mang lại hậu quả xấu mà có khi nó còn có
tính tích cực, là một biểu hiện của tiến bộ xã hội, thể hiện tính năng động của
những chủ thể thực hiện nó. Không khó khăn gì lắm để lấy ví dụ về những
trường hợp này. Đó là những giám đốc năng động thời kỳ bao cấp đã dám “vượt
rào” để làm lợi cho doanh nghiệp, cho đơn vị của mình, mặc dù không có hại
cho xã hội. Khi pháp luật không còn phù hợp với thực tế nữa thì nó trở thành rào
cản cho sự phát triển của xã hội, tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp pháp của hành
vi sẽ không còn tính pháp lý nữa. Cùng với sự xác định hành vi nào là hợp pháp
không phù hợp với thực tế thì sự xác định hành vi nào là trái pháp luật một cách
bất hợp lý đều dẫn đến sự phản ứng tiêu cực của xã hội. Tất nhiên, điều này
không mang tính phổ biến mặc dù nó thường xảy ra ở những giai đoạn có tính
chất giao thời. Hành vi kiểu “vượt rào” trên đây được coi là hành vi dũng cảm,
thậm chí còn đáng khuyến khích vì nó buộc nhà làm luật trở nên linh hoạt hơn
đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của xã hội ngày càng phát triển.
Những phân tích trên đây mới chủ yếu nói tới hành vi trái pháp luật –
những hành vi thực hiện pháp luật không đúng hoặc không thực hiện pháp luật
nhưng chúng ta không thể quên một điều là muốn xác định được điều đó thì phải
có pháp luật và muốn có pháp luật thì phải có hoạt động xây dựng pháp luật.
Hoạt động này, trong nhiều trường hợp vừa là hoạt động xây dựng pháp luật vừa
là hoạt động thực hiện pháp luật. Thế nhưng không phải bảo giờ hoạt động này
cũng có tính hợp pháp. Nhiều khi các cơ quan nhà nước đã ban hành những văn
bản trái với những văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nhất là trái với Hiến
pháp và các đạo luật. Tất nhiên, hoạt động này phải là hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền và các văn bản pháp luật phải có tính thứ bậc theo quy định của
pháp luật. Chính vì được pháp luật quy định nên cũng đã có không ít các văn
bản được ban hành trái pháp luật. Vì là các văn bản tạo ra những khuôn mẫu cho
hành vi nên nó kéo theo sự trái pháp luật của hàng loạt các hành vi “hợp pháp”
kiểu này. Việc ban hành văn bản trái pháp luật xảy ra có thể là trái thẩm quyền
(có thể là vượt cấp, có thể là không đúng hình thức) nhưng cũng có thể là trái
với nội dung quy định của các văn bản có hiệu lực cho xã hội nhưng nó tiếp tay
cho hàng loạt các hành vi trái pháp luật một cách “hợp pháp” nói trên.
Hiện nay, sự phát triển của xã hội ngày càng dòi hỏi nhiều hơn sự tham
gia của các tổ chức. Các tổ chức được hình thành bằng rất nhiều cách thức khác
nhau. Có thể đó là sự kết hợp của nhiều thành viên tự nguyện thành lập ra vì một
mục đích nào đó, cũng có thể tổ chức đó được Nhà nước thành lập vì những mục
đích khác nhau, chính vì thế mà hoạt động của chúng cũng có sự khác nhau. Có
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực
quản lý, có tổ chức hoạt động trên lĩnh vực công ích nên tính chất, phạm vi,
thẩm quyền có thể khác nhau. Cũng chính vì lẽ đó mà hoạt động của chúng cũng
tồn tại ở các dạng khác nhau. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự giống nhau ở
chỗ, các hoạt động của chúng là sự kết hợp của nhều cá nhân với những vị trí và
vai trò khác nhau. Đặc điểm nói chung của loại chủ thể này là hoạt động theo
nội quy, quy chế của riêng chúng, từ đó hoạt động trái pháp luật của chúng có
thể phát sinh ngay từ việc xây dựng nội quy quy chế. Mặc dù các tổ chức hoạt
động trên cơ sở của chế độ tự quản nhưng phải theo nguyên tắc “được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm”. Thực ra, nguyên tắc này chỉ được đặt ra cho
các tổ chức kinh tế, xã hội chứ không phải đặt ra cho các cơ quan nhà nước. Như
vậy, hoạt động trái pháp luật của tổ chức có thể là đã làm những cái mà pháp
luật cấm, nhưng chỉ như vậy thì chưa hết. Trong thực tế thì các tổ chức có thể
không làm cái mà nhà nước bắt buộc phải làm. Có thể lấy một ví dụ về trường
hợp này như việc một tổ chức kinh tế đã không thực hiện các biện pháp ngăn
chặn tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động của mình gây ra.
1.1.3.2. Dấu hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể.
Sau khi đã xem xét dấu hiệu trái pháp luật của hành vi, phải xác định dấu
hiệu năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Như đã phân tích ở phần hành vi
trên đây, ta thấy hành vi phải là xử sự của con người có sự kiểm soát của lý trí
và ý chí. Lý trí và ý chí chỉ có thể xác định ở những chủ thể có ý thức. Lý trí là
khả năng nhận thức sự vận động của thế giới khách quan, còn ý chí là khả năng
điều khiển và kiểm soát hành vi trên cơ sở của sự nhận thức đó. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của các chủ thể được Nhà nước quy định dựa trên khả năng đánh
giá và kiểm soát hành vi xã hội của con người trong những điều kiện cụ thể nhất
định như lứa tuổi, học vấn Mỗi chủ thể lại có khả năng nhận thức, năng lực
kiểm soát và điều khiển hành vi ở mức độ khác nhau. Chính vì vậy, cần phải
phân hóa khả năng đó giữa các chủ thể. Mỗi cá nhân là một thực thể thống nhất
của cái sinh vật và cái xã hội – một phần tử đơn nhất của cộng đồng xã hội, một
hiện tượng có tính lịch sử, có nhân cách – một bản sắc độc đáo của con người.
Khoa học tự nhiên hiện đại và sự phát triển của khoa học nhân văn trong thời đại
ngay nay đã chứng minh rằng sự tồn tại hiện thực của mỗi con người cụ thể nói
riêng và là của cả xã hội nói chung quy định bởi nhiều quy luật. Quy luật sinh
học tạo thành phương tiện sinh học của con người, ví dụ, quy luật về sự phù hợp
giữa cơ thể với môi trường, quy luật về biến dị và di truyền; quy luật tâm lý – ý
thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người, như các quy
luật hình thành tư tưởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu, lý tưởng, niềm tin và ý
chí ;các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa con người với con người
như quy luật của sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng, quy
luật về đấu tranh giai cấp Trong mỗi xã hội, con người có khả năng riêng biệt,
cao thấp ở những trình độ nhất định. Nhu cầu của mỗi cá nhân thường xuyên có
sự mâu thuẫn với khả năng đã thúc đẩy con người hoạt động và đấu tranh với
chính mình, với xã hội. Sự đấu tranh này có thể là tích cực, có thể là tiêu cực. vì
vậy, một chủ thể có khả năng nhận thức cao hơn, có thể điều khiển hành vi một
cách hữu hiệu hơn thì điều kiện cho họ thực hiện sự đấu tranh có tính tích cực
cũng cao hơn. Ngược lại, những chủ thể mà khả năng nhận thức hạn chế thì khả
năng điều khiển hành vi cũng thấp hơn. thậm chí có những chủ thể không có
những khả năng này. Như đã phân tích ở trên, con người là một thực thể thống
nhất của “cái sinh vật” và “cái xã hội”, trong đó “cái sinh vật” của con người
mang tính bản năng như đói thì ăn, khát thì uống còn “cái xã hội” thì vô cùng
phong phú và liên tục mở rộng. Nó liên quan đến trình độ phát triển của đời
sống xã hội. Theo đó, con người ngày càng được tự do hơn vì làm chủ được bản
thân, làm chủ xã hội, tự nhiên và cũng chính vì thế mà Nhà nước cũng phải vận
động theo xu hướng tiến bộ đó bằng cách thừa nhận ngày càng rộng rãi quyền và
tự do của con người. Điều đó đòi hỏi khả năng nhận tức về tự do cũng cao hơn
theo trình độ phát triển của xã hội để có khả năng kiểm soát hành vi một cách
tương ứng. Ngay ở mỗi con người, ở từng giai đoạn phát triển của mình, khả
năng đó cũng khác nhau do độ tuổi, kết quả tiếp thu tri thức của các thế hệ trước,
sự đúc rút kinh nghiệm sống và còn phụ thuộc vào cả môi trường xã hội. Vì vậy
mà không thể có một tiêu chuẩn chung cho mọi chủ thể trong xã hội và cho mọi
quan hệ xã hội. Tính chất phức tạp hay giản đơn của từng loại quan hệ xã hội sẽ
đòi hỏi những năng lực nhận thức và ứng xử tương ứng. Đối với mỗi cá nhân,
năng lực đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng nó phụ thuộc trực tiếp vào độ
tuổi và trạng thái thần kinh (sức khỏe tâm thần) của con người. Trong Bộ luật
Dân sự của nước ta được ban hành năm 1995, năng lực chủ thể xác định cho cá
nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nếu như năng lực pháp
luật là cái mọi người có như nhau (xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng) thì năng
lực hành vi là cái để phân biệt về khả năng thực hiện năng lực đó, khả năng gánh
chịu trách nhiệm về hậu quả do việc thực hiện năng lực đó trong thực tế. Cụ thể,
trong bộ luật này, năng lực hành vi được xác định theo độ tuổi tương ứng với
các mức độ :từ 0 đến chưa đủ 6 tuổi thì chưa có năng lực hành vi, từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 15 tuổi có năng lực hành vi để tham gia vào những quan hệ dân sự
giản đơn có giá trị nhỏ để phục vụ cho nhu cầu tối thiểu, từ đủ 15 đến chưa đủ
18 tuổi được tham gia nhiều hơn vào các quan hệ dân sự thông thường nếu có tài
sản để đảm bảo trừ trường hợp cần có sự đồng ý của cha mẹ từ 18 tuổi trở lên
thì được tham gia vào mọi quan hệ dân sự. Cùng với độ tuổi, như đã nói ở trên,
sức khỏe tâm thần là yếu tố không thể thiếu để con người có thể nhận thức thế
giới một cách bình thường. Như vậy, pháp luật đã phải tính đến khả năng gánh
chịu hậu quả do hành vi của chủ thể thực hiện.
Ngay trong một loại quan hệ pháp luật thì thời điểm này cũng khác thời
điểm khác do quan điểm của nhà làm luật tương ứng với trình độ phát triển xã
hội. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 của
nước ta là một ví dụ. Theo bộ luật hình sự 1985 thì những người từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 16 tuổi thì chỉ chịu trách nhiệm về tội nghiêm trọng với lỗi cố ý,
còn những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về hình sự về mọi
hành vi phạm tội. Trong khi đó Bộ luật năm 1999, do tính chất của các hành vi
cần phải được phân hóa chính xác hơn, nên dộ tuổi từ đủ 14 đến 16 phải chịu
trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý và tội đặc biệt nghiêm
trọng Thực ra việc quy định đó đã xuất phát từ khả năng về nhận thức và điều
khiển hành vi một cách rõ ràng hơn và cũng từ đó mà khả năng gánh chịu về hậu
quả cũng được xác định chính xác cho chủ thể thực hiện hành vi. Tuy nhiên,
pháp luật lại phải có chức năng mô hình hóa, do vậy mà nó không thể quy định
chi tiết cho từng cá nhân cụ thể mà chỉ có thể quy định tương ứng với từng loại
chủ thể. Việc quy định này cơ ưu điểm là mang tính quy phạm phổ biến, khái
quát nhưng khi xem xét vào các trường hợp cụ thể thì nhiều khhi nó không hợp
lý lắm. Không phải bao giờ một người có đủ 16 tuổi cũng “khôn hơn” một người
14 tuổi hoặc không phải bao giờ những người có đủ 18 tuổi cũng “khôn” như
nhau. Môi trường sống, chế độ giáo dục, quan hệ xã hội, quan hệ gia đình sẽ
trực tiếp “dạy khôn” người ta ở các mức độ khác nhau. Một điều đặc biệt nữa là
thể trạng sức khỏe tâm thần của mỗi con người cụ thể. Ngay trong một con
người đang ở trong trạng thái tâm thần bình thường, cũng có khi minh mẫn sáng
suốt, cũng có khi căng thẳng, mất bình tĩnh và do vậy mà có thể đã không nhận
thức một cách bình thường và không dễ dàng có thẻ kiemr soát được hành vi của
chúng mình. Ngoài ra, do diễn biến của tình hình sức khỏe hoặc những sự kiện
bất thường xảy ra trong cuộc sống mà những khả năng nêu trên của con người bị
thay đổi (có thể là tốt lên có thể là xấu đi, thậm chí có thể còn bị mất). Những
trạng thái này có thể xảy ra trước, trong hoặc sau khi thực hiện các hoạt động có
dấu hiệu trái pháp luật. Trường hợp này, ta dùng thuật ngữ “hoạt động” thay thế
cho thuật ngữ “hành vi” sẽ chính xác hơn vì hành vi phải là xử sự có sự kiểm
soát của ý chí và lý trí của những người có ý thức cùng thới thể trạng tâm thần
bình thường.
Trong nhiều trường hợp, người có năng lực hành vi thông thường nhưng
vẫn thực hiện hành vi trái pháp luật mà không ý thức được việc mình làm là hợp
pháp hay bất hợp pháp. Điều đó không phải do trạng thái sức khỏe tâm thần của
người thực hiện hành vi. Họ vẫn khẳng định xử sự của họ là đúng. Rõ ràng, kinh
nghiệm sống, kiến thức được trang bị hằng ngày của người ta là chưa đủ để đáp
ứng yêu cầu của pháp luật, của cuộc sống. Ngay trong hoạt động của nhân viên
nhà nước những người luôn được coi là người có năng lực hành vi trong hoạt
động của mình nhưng hoạt động của những người này không pải luôn luôn
đúng.Thực tế đã chứng minh điều này mà cụ thể là những trường hợp làm sai do
non kém về trình độ nghiệp vụ chứ chưa nói tới việc họ làm sai.Cái khó của nhà
làm luật là chỉ có thể xác định cụ thể lứa tuổi hay thể trạng sức khỏe tâm thần
của con người ở trạng thái chung nhất mà thực tế lại vô cùng phong phú , đa
dạng và phức tạp .
Bên cạnh hành vi được xác định trên cơ sở của lứa tuổi và sức khỏe tâm
thần thì pháp luật còn xác định bổ sung về khả năng chịu trách nhiệm pháp lý
đối với các chủ thể bằng tài sản. Ví dụ trong trường hợp những người đã có đủ
15 đến chưa đủ 18 tuổi thì có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự một cách độc lập nếu có tài sản để đảm bảo như quy định của Bộ luật dân
sự của nước ta.
Những phân tích trên đây chủ yếu mới dừng lại ở năng lực của cá nhân chứ chưa
nói tới năng lực của pháp nhân hay tổ chức. Xuất phát từ đặc điểm của từng loại
chủ thể mà pháp luật quy định cho chúng có địa vị pháp lý khác nhau. Các chủ
thể là tổ chức có tư cách độc lập với người thành lập ra nó. Sự thừa nhận, sự cho
phép thành lập hoặc được Nhà nước thành lập đã cho thấy sự có mặt của các tổ
chức là cần thiết, có tính khách quan khi chúng tham gia vào cào hoạt động có
ích cho xã hội. Muốn một tố chức có hoạt động có ích thì tổ chức ấy phải cần
phải có những bảo đảm về mặt pháp lý và thực tế . Chính những đảm bảo này sẽ
là sự thể hiện cụ thể nhất, trực tiếp nhất về năng lực của tổ chức. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của tổ chức được thực hiện thông qua những người đại diện hợp
pháp cho tổ chức. Những người đại diện hợp pháp cho tổ chức. Những người đại
diện hợp pháp cho tổ chứckhi hoạt động nhân danh tổ chức. Đó là những người
được coi như đã nhận được sự uỷ quyền của tập thể. Thực ra, sự quyết định của
tổ chức là quyết định của tập thể, trong đó mỗi cá nhân có một phần trách nhiệm
gắn với những lợi ích mà họ có thể có được do những quyết định ấy. Họ sẽ là
người phải chấp nhận tình trạng “được ăn, thua chịu” sau khi đã tham gia vào tổ
chức và đã thực hiện sự uỷ quyền cho người đại diện (thường được thể hiện
trong các nghị quyết của tổ chức như đại hội cổ đông, bầu ra những người lãnh
đạo). Trong trường hợp những quyết định cảu tổ chức được ban hành bởi những
người đại diện cho tổ chức vượt thẩm quyền mà tổ chức đã uỷ quyền thì cá nhân
này sẽ phải là người chịu trách nhiệm về phần vượt quá đó. Thực chất năng lực
trách nhiệm pháp lý của chủ thể là tổ chức được xác định là khả năng gánh chịu
hậu quả pháp lý từ hoạt động của tổ chức. Nhưng điều đó không có nghĩa là
trách nhiệm được chia đều cho các chủ thể tham gia vào tổ chức. Chính vì vậy,
cần có sự phân hoá trách nhiệm cho cá nhân khi tham gia hoạt động của tổ chức.
Tất nhiên, phải có cơ chế cho việc phân hoá này. Ví dụ trong trường hợp bồi
thường thiệt hại do một thànhv iên hoặc của nhóm thành viên trong tổ chức gây
ra khi hoạt động nhân danh tổ chức, người ta không thể đi đòi bồi thường ở từng
cá nhân mà tổ chức phải đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường thay, sau đó tổ
chức có quyền yêu cầu các cá nhân phải bồi thường ngược lại cho mình. Như
vậy, năng lực trách nhiệm của tổ chức thực chất suy cho cùng cũng là sự xác
định cho cá nhân, được thực hiện thông qua các cá nhân và cuối cùng cá nhân
vẫn là người gánh chịu. Điều này liên quan rất chặt chẽ với vấn đề lỗi sẽ được
xác định ở nội dung sau.
1.1.3.3. Dấu hiệu lỗi.
Nếu như trong dấu hiệu trái pháp luật của hành vi xác định sự tác động,
ảnh hưởng của hành vi lên các quan hệ xã hội,dấu hiệu năng lực trách nhiệm
pháp lý xác định khả năng nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi của chủ thể
để gánh chịu hậu quả của hành vi thì dấu hiệu lỗi là sự xác định thái độ, mức độ
tiêu cực cảu chủ thể khi thựuc hiện hành vi.
Trong các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật hay trong giáo
trình giảng dạy pháp luật ở bậc đại học… hầu hết lỗi đều được xác định là thái
độ hoặc trạng thái tâm lý của củ thể đối với hành vi và hậu quả của nó. Có thể
thấy hàng loạt các ví dụ về khái niệm này. Chẳng hạn: “lỗi là trạng thái tâm lý
của chủ thể đối với hành vi, cũng như hậu quả do hành vi đó gây ra”
2
hay “Lỗi
là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với
hành vi vi phạm pháp luật của mình”
3
hoặc “Lỗi là trạng thái tâm lý của người
thực hiện hành vi trái pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội”
4
; cũng có khi trực
tiếp đồng nhất lỗi trong tội phạm với lỗi nói chung là: “… thái độ tâm lý của
người phạm tội với hành vi phạm tội mà người đó thực hiện và đối với hậu quả
của hành vi đó”
5
.
Nói chung, theo những cách hiểu trên đây thì lỗi đều được hiểu là hoạt
động tâm lý bên trong của các chủ thể vi phạm pháp luật. Nó thuộc mặt chủ
quan của vi phạm pháp luật. Có thể nói đây là một khái niệm hết sức phức tạp.
điều phức tạp đầu tiên mà nó cho thấy là lỗi mà một hoạt động tâm lý bên trong
của chủ thể và vì vậy nó không thể cân, đong, đo, đếm được, do đó nó là một
khái niệm rất trừu tượng và khó khái quát. Thứ hai, các khái niệm trên hầu như
mới nói tới lỗi với tư cách là hoạt động tâm lý của cá nhân (hoặc con người cụ
thể) chứ chưa nói tới loại chủ thể là tổ chức. Thực ra nếu nói lỗi là hoạt động
2
Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Truờng đại học Luật Hà Nội, 2002, Hà Nội, tr.494
3
Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân, 2000, tr.129
4
Chủ biên PGS-TS Trần Ngọc Đường, Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc
gia, 1998, tr.373.
5
Nguyễn Duy Lãm, sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb giáo dục, 1996,tr.212.
tâm lý bên trong của con người thì liệu có thể nói tổ chức có lỗi được hay
không? Như ở phần trên đã phân tích thì hoạt động của tổ chức là hoạt động
phức tạp do sự kết hợp của nhiều người, trong khi đó thì mỗi cá nhân là một
thực thể độc lập, có nhân cách, có suy nghĩ, tình cảm và nhu cầu khác nhau. Mặt
khác, các tổ chức do con người thành lập ra nhưng bản thân tổ chức cũng là một
chủ thể có tư cách riêng, độc lập với những người đã thành lập ra nó. Chính vì
những lý do trên mà buộc chúng ta phải xem lại hoặc là khái niệm lỗi hoặc là
phải xác định tư cách của chủ thể là cá nhân hay tổ chức trong vi phạm pháp
luật, nếu không thì không thể có khái niệm vi phạm pháp luật nói chung cho cả
cá nhân và cho cả tổ chức. Mâu thuẫn này đã xảy ra trong thực tế. Nếu như luật
hình sự khẳng định tội phạm chỉ có thể là các cá nhân thì vấn đề sẽ trở nên đơn
giản, nhưng không phải chỉ có pháp luật hình sự đièu chỉnh các quan hệ xã hội
mà có rất nhiều ngành luật tham gia điều chỉnh và vì vậy cùng khôgn chỉ có khái
niệm tội phạm mà còn có nhiều khái niệm khái niệm vi phạm pháp luật khác tuỳ
theo sự quy định của từng ngành luật hoặc tuỳ từng quan niệm. Chẳng hạn có
quan điểm khẳng định rằng: “… lỗi luôn là của cá nhân. Vì vậy, tổ chức không
thể có lỗi dưới góc độ pháp lý được … trong cấu thành vi phạm hành chính của
tổ chức, do không thể xác định được lỗi của nó nên ở đây yếu tổ chủ quan
không có ý nghĩa gì cả. Chỉ cần tổ chức đó có biểu hiện xâm hại đến các khách
thể trong lĩnh vực quản lý nhà nước, trái pháp luật hành chính là xem như đủ cơ
sở để coi là chủ thể của vi phạm hành chính”
6
.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là lỗi có luôn luôn là dấu hiệu bắt buộc trong
tất cả các vi phạm pháp luật mà không hoặc là phải xem xét lại khái niệm lỗi.
Như ta đã xem xét ở trên thì lỗi là trạng thái (hay thái độ) tâm lý của chủ thể đối
với hành vi và hậu quả của hành vi, trong khi đó thì hoạt động của một tổ chức
nhất định nhất định phải có sự kết hợp của nhiều người còn mỗi người lại có
hoạt động tâm lý riêng, có cáh đánh giá khác nhau về tính hợp pháp của hành vi,
về hậu quả của hành vi đó. Nói cách khác, thì mỗi cá nhân sẽ có một trạng thái
tâm lý độc lập. Nếu muốn xác định lỗi cho chủ thể là tổ chức thì phải xem lỗi
6
Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, 2000, tr.123,133.
của từng cá nhân ở trong tổ chức và thực tế thì không có lỗi chung của tổ chức
được. đây là cơ sở quan trọng để xác định trách nhiệm cuối cùng cho chủ thể vi
phạm. Chính vì mỗi con người là một thực thể độc lập trong một tập thể nhưng
lại được phân công trách nhiệm cụ thể với chức năng, nhiệm thẩm quyền theo sự
phân công hay uỷ quyền của tập thể, của tổ chức, do vậy mà những người hoạt
động nhân danh tổ chức và vì lợi ích của tổ chức mà có lỗi thì đương nhiên lỗi
đó sẽ bị coi là lỗi của tổ chức và chính tổ chức phải chịu trách nhiệm về lỗi đó.
Sự liên quan của các cá nhân trong tổ chức chính là do sự uỷ quyền nay. Thực
ra, lỗi của tổ chức ở đây được xét một cách “kéo dài” từ thời điểm mà tổ chức
phân công hay uỷ quyền cho các cá nhân chịu trách nhiệm. Tại thời điểm mà các
cá nhân nhận được trách nhiệm thì chính cá nhân đã được tự do ý chí, họ có
quyền nhận hay không nhận trách nhiệm đó. Theo sự uỷ quyền thì cá nhân
người nhận được sự uỷ quyền gần như đương nhiên phải có một lợi ích gì ở đó.
Mặt khác, nếu cá nhân người được uỷ quyền có hành vi thực hiện một cách trái
pháp luật nhưng trong phạm vi được uỷ quyền thì hành vi của cá nhân đó chính
là hành vi của tổ chức , tổ chức trong trường hợp đó đã có sự lựa chọn, được “tự
do ý chí” và có khả năng “kiểm soát” hành vi của người mà mình đã uỷ quyền
tại thời điểm uỷ quyền. Việc xác định lỗi ở đây đã không còn trực tiếp là việc
xác định lỗi trong trường hợp cụ thể xảy ra khi diễn ra hoạt động trái pháp luật
của cá nhân nữa và không chỉ còn là trạng thái tâm lý nữa. Trong trường hợp
này, quan điểm cho rằng trong vi phạm pháp luật của tổ chức thì không cần xác
định lỗi được coi là hợp lý, vì rằng trong những trường hợp đó tổ chức đương
nhiên bị coi là có lỗi.
Bên cạnh đó, hành vi vi phạm được thấy trong tổ chức có thể tồn tại dưới
một dạng khác. Đó là trường hợp cá nhân người được tổ chức uỷ quyền đã nhân
danh tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi đó lại nằm
ngoài hoặc vượt quá phạm vi được uỷ quyền bởi tổ chức. Trong trường hợp này,
tổ chức đã không xác định trước được hành vi có thể xảy ra ở người được uỷ
quyền vào lúc tổ chức tiến hành uỷ quyền cho người đó. Khi đó, phải xác định
hai trường hợp:
- Tổ chức có biết và có thể kiểm soát được hành vi của cá nhân người
được uỷ quyền.
- Tổ chức không biết và cũng không thể kiểm soát được hành vi của người
được uỷ quyền.
Trong truờng hợp thứ nhất, tổ chức vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm
cùng với cá nhân vi phạm, vì nếu không có danh nghĩa của tổ chức thì cá nhân
đó không thể thực hiện được hành vi vi phạm. Trong điều kiện đó, tổ chức có
thể chấm dứt sự uỷ quyền hoặc ngăn chặn người đã lợi dụng danh nghĩa của tổ
chức để thực hiện hành vi vi phạm. Khi đó, tổ chức vẫn có sự tự do ý chí và
được lựa chọn một trong hai cách xử sự đã nếu trên. Nói cách khác, tổ chức vẫn
bị xác định là chủ thể có lỗi trong trường hợp này. Nếu xác định như vậy thì rất
có thể xảy ra truờng hợp bán hoặc cho thuê tư cách pháp nhân như đã từng xảy
ra ở hàng loạt doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong thời
gian gần đây. Đó là những doanh đã ra đời mà không hoạt động hoặc tham gia
vào các hoạt động mua đi bán lại hoá đơn hàng hoá để kiếm lợi bất chính sau khi
Luật doanh nghiệp có hiệu lực và Chính phủ bỏ rất nhiều các loại giấy phép con.
Việc cho thuê doanh nghiệp gắn liền với những lợi ích của chính người cho thuê
và người cho thuê cũng vẫn phải chịu trách nhiệm về việc cho thuê doanh
nghiệp của chính mình và sự vi phạm của người đi thuê. Việc xác định như vậy
có ý nghĩa rất lớn trong quản lý và đặc biệt là chế độ hậu kiểm trong quản lý
kinh tế ở các doanh nghiệp. Chính vì vậy, tính có lỗi của tổ chức ở đây được xác
định do tổ chức hoàn toàn có thể biết trước và điều khiển hành vi cũng như hậu
quả của hành vi do người mà mình đã trao trách nhiệm thực hiện.
Trong trường hợp thứ hai, người được uỷ quyền thực hiện hành vi ngoài
phạm vi uỷ quyền mà tổ chức không thể biết và cũng không thể kiểm soát, thì có
thể khẳng định tổ chức không có lỗi. căn cứ để kết luận như vậy là dựa vào khả
năng được tự do ý chí của tổ chức trong trường hợp này đã khôgn còn ý nghĩa,
người thực hiện hành vi đã nằm ngoài sự kiểm soát của tổ chức.Khi đó cá nhân
người thực hiện hành vi chính là chủ thể có lỗi, là người phải chịu trách nhiệm
về hoạt động cuả chính mình.
Trong các trường hợp tổ chức là người có lỗi thì người đại diện cho tổ
chức sẽ thay mặt tổ chức lãnh nhận trách nhiệm của người :“có trạng thái tâm lý
của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi”.
Vấn đề nữa cần xác định ở đây là lỗi của tổ chức cần phải phân biệt thành
lỗi cố ý hay vô ý. Việc phân biệt này có ý nghĩa rất lớn đối với khả năng phải
chịu trách nhiệm về hậu quả do hành ci ci phạm gây ra vì nó được coi là “thuớc
đo trách nhiệm pháp lý”. Như đã phân tích ở trên, lỗi được xem xét một cách
“kéo dài” nên lỗi được phân biệt chủ yếu dựa vào thái độ của các chủ thể khi uỷ
quyền và khi được uỷ quyền.
Từ những dấu hiệu của vi phạm pháp luật, có thể xây dựng định nghĩa vi
phạm pháp luật. Nói chung, trong cách hiểu truyền thống về vi phạm pháp luật
người ta thường nghĩ đến chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân nhất là khái niệm
về tội phạm trong khoa học luật hình sự. Từ những phân tích trên đây về dấu
hiệu trái pháp luật của hành vi, đâu hiệu lỗi và năng lực trách nhiệm pháp lý của
chủ thể, có thể xây dựng một khái niệm vi phạm pháp luật khả dĩ có thể dung
nạp được một cách chung nhất cho tất cả các chủ thể vi phạm dù là cá nhân hay
tổ chức. Nó còn có một ý nghĩa khác nữa nếu như hành vi của chủ thể là tổ chức
có thể tội phạm hoá, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khả năng gây thịêt hại cho
xã hội do vi phạm pháp luật của các tổ chức ngày càng lớn và cần được hình sự
hoá. Theo những phân tích trên thì vi phạm pháp luật được hiểu như sau:
Vi phạm pháp luật là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ do cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
trong điều kiện họ có thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình.
So với những cách hiểu trước về vi phạm pháp luật, khái niệm này không
trực tiếp đề cập vấn đề lỗi mà nói một cách gián tiếp để khi xác định một vi
phạm pháp luật sẽ không mắc phải sự cân nhắc vấn đề có hay không có lỗi và
chủ thể vi phạm là ai, cứ thoả mãn những nội dung trên thì mặc nhiên có thể xác
định được một vi phạm pháp luật. Mặt khác, trong cấu thành của vi phạm pháp
luật, mặt chủ quan sẽ nếu vấn đề một cách chi tiết hơn vấn đề lỗi, đồng thời khi
nói tới tính trái pháp luật của hành vi có thể thấy khi các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ thì không một hành vi nào xâm hại tới nó mà không có tính trái
pháp luật cả.
1.2. Cơ chế của hành vi vi phạm pháp luật
Cơ chế hoạt động của hành vi vi phạm pháp luật là toàn bộ những yếu tố,
những bộ phận có mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình hoạt
động của chủ thể tạo nên hành vi vi phạm pháp luật. Những bộ phận, những yếu
tố đó bao gồm:
1.2.1. các yếu tố bên trong
1.2.1.1. Yếu tố sinh lý
Tất cả các hoạt động của con người đều phải dựa trên nền tảng của các
yếu tố sinh lý. Đây là yếu tố vật chất, giữ vai trò cơ sở cho mỗi hoạt động của
con người. Nó liên quan chặt chẽ với các vấn đề về thể chất như sức khỏe, bênh
tật, tuổi tác … đây là điều kiện quan trọng không thể thiếu được đối với bất kỳ
hoạt động nào của con người kể cả hoạt động mang tính chất cá nhân hay hoạt
động trong mối liên hệ với xã hội bởi vì thiếu nó, tất cả các yếu tố khác đều
không thể được thực hiện hoá trong cuộc sống. Các vấn đề như tuổi tác , bệnh
tật … ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của con người vì nó liên quan đến nhu cầu,
đến khả năng hoạt động, khả năng làm chủ, khả năng tiếp nhận của từng cá
nhân. trạng thái sức khoẻ ở đây bao gồm cả trạng thái vật chất, cả trạng thái tinh
thần, trong đó có sức khoẻ tâm thần. Những yếu tố này nhiều khi chi phối cả
hoạt động tâm lý của các chủ thể. Hoạt động của các yếu tố sinh lý ban đầu
mang tính bản năng, chẳng hạn như đói thì ăn, khát thì uống. Nó xuất phát từ
nhu cầu tự nhiên của con người cũng như bất kỳ một sinh vật nào khác và là
phản xạ không điều kiện. Khi con người không kiểm soát được bản năng sinh
vật của mình sẽ nảy sinh mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng mà thường theo
xu hướng nhu cầu vượt quá khả năng. Đó cũng là lúc các hoạt động của ý thức
đảm nhiệm vai trò điều khiển hoạt động của con người. Đây chính là sự khác
biệt căn bản giữa con người xã hội với con người sinh vật trong thể thống nhất
của bản chất con người. Cái sinh học trong aon người là nơi phát sinh và chứa
đựng rất nhiều nhu cầu; những nhu cầu đó bị ức chế bởi khả năng xã hội trong
việc thoả mãn chúng.
Thông thường, nhu cầu cá nhân cao hơn và vượt ra ngoài khuôn khổ xã
hội. Sự mâu thuẫn, ức chế giữa cái tự nhiên mang bản năng sinh vật đó với cái
xã hội tạo thành nội dung cuộc sống nội tâm của mỗi con người cụ thể. Đó là hạt
nhân phát ra mọi sự quy định trong việc ứng xử của con người trước sụ tác động
của ngoại cảnh, là động lực để hình thành lên các hành vi mang tính xã hội của
mỗi cá nhân, trong đó có các hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.1.2. Yếu tố tâm lý – ý thức
Như đã phân tích ở trên, động lực để hình thành lên hành vi xuất phát từ
nhu cầu và sự mâu thuẫn, ức chế giữa cái tự nhiên mang bản năng sinh vật với
cái xã hội trong đời sống nội tâm của mỗi con người cụ thể. Nếu cơ chế sinh học
nói trên là yếu tố vật chất thì yếu tố tâm lý- ý thức là yếu tố tinh thần- yếu tố
quan trọng nhất để khẳng định tư cách người trong các hoạt động mang tính xã
hội. Khả năng làm chủ bản thân của con người trực tiếp được thể hiện ở yếu tố
này. Nếu cơ chế sinh học của con người mang tính bản năng gắn liền với các
phản xạ không điều kiện thì các hoạt động tâm lý- ý thức gắn liền với quá trình
hình thành các phản xạ có điều kiện do bản chất của ý thức là sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ não và được cải biến ở trong đó. Các hoạt động này diễn
ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh củ não bộ người, ohuj thuộc vào haotj
động của bộ não nên khi bộ não tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ rối loạn. Rõ
ràng trong cơ chế hành vi của con người, sự quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau
giữa hai yếu tố sinh lý và yếu tố tâm lý- ý thức đã tạo ra sự thống nhất bên trong
của hành vi con người. Đôi khi, hoạt động của con người cũng có khi xảy ra tình
trạng vô thức- một hiện tượng tâm lý điều khiển những hoạt động của con người
ở bên ngoài phạm vi của ý thức hoặc không có sự chỉ đạo trực tiếp của ý thức .
Những hoạt động này mang tính tự động so thói quen hoặc chưa bao giờ ý thức
được. Khi xét một hành vi xem nó có phải là vi phạm pháp luật hay không cần
phải phân tích kỹ trường hợp này.
Những hoạt động sinh lý có sự kết hợp với hoạt động tâm lý- ý thức của
con người là cơ sở có tính vật chất để xác định tính có lỗi trong hành vi của chủ
thể gắn với điều kiện chủ thể và mặt chủ quan trong vi phạm pháp luật. Thiếu
bất cứ yếu tố nào, sẽ không có hành vi, không có vi phạm pháp luật. Tuy nhiên,
để có thể nhận thức được một hành vi thì hành vi phải có hình thức biểu hiện cụ
thể ra bên ngoài, phải có mối liên hệ với thế giới khách quan. Trong phần dấu
hiệu của vi phạm pháp luật ở trên ta thấy, không thể truy cứu trách nhiệm pháp
lý nếu như không có vi phạm pháp luật và cũng không thể có vi phạm pháp luật
nếu không có hành vi. Những biểu hiện của hoạt động sinh lý kết hợp với hoạt
động của tâm lý – ý thức sẽ chưa phải là hành vi nếu chưa biều hiện ra bên
ngoài, hay nói cách khác, đó mới chỉ có thể là suy nghĩ, tình cảm hay ước mơ
mà thôi. Chính vì lẽ đó, trong cơ chế của hành vi vi phạm, ta không thể không
xét mối liên hệ giữa hoạt động sinh lý và hoạt động tâm lý- ý thức với thế giới
khách quan. Theo đó, hành vi vi phạm phải có cơ chế biểu hiện bên ngoài.
1.2.2. các biểu hiện bên ngoài
Các biểu hiện bên ngoài của hành vi chính là biểu hiện “sống” của con
người, thể hiện mối quan hệ của con người với thế giới khách quan. Không có
sự liên hệ với thế giới con người không tồn tại, không có hành vi và vì vậy cũng
chẳng có vi phạm pháp luật. Nhờ có hoạt động trong mối liên hệ với thế giới mà
người ta có thể chấp nhận thức được con người với tư cách là chủ thể sáng tạo,
độc lập với thế giới. Những hoạt động này của con người rất đa dạng, phong phú
nhưng tựu trung thì nó được biểu hiện dưới hai hình thức tác động chủ yếu sau:
1.2.2.1 Sự tác động chủ động đến các quan hệ xã hội
Ban đầu khi con người còn ở thời kỳ mông muội, còn ăn hang ở lỗ thì
giống như loài vật, họ cũng phải đấu tranh sinh tồn bằng các hoạt động mang
tính tích cực để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, Nhưng nói chung, các hoạt
động này ban đầu chủ yếu mang tính bản năng và về sau có sự bổ sung kinh
nghiệm so các thế hệ trước truyền lại. Khi các quan hệ xã hội còn mang nặng
tính cộng đồng do tính độc lập của cá nhân còn hạn chế thì sự hợp tác của con
người trở nên rất chặt chẽ. Ngược lại, quá trình lao động đã sáng tạo ra những