Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Phát triển bền vững du lịch Nha Trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.31 MB, 143 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________



Nguyễn Trịnh Ngọc Hiền








Chuyên ngành : Địa lý học
Mã số : 60 31 95




LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐỨC TUẤN








Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


LỜI CẢM ƠN

 Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng
Khoa học Công nghệ và Sau Đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Địa
lí và các Thầy Cô trong khoa Địa lí trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
 Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Đức
Tuấn - Thầy đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên
cứu để hoàn thành luận văn.
 Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các bạn đồng nghiệp
công ty Polaris đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
hoàn thành luận
văn.
 Cuối cùng, Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người
thân yêu, bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong
những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.


Thành phố Hồ Chí Minh 2009
Tác giả

Nguyễn Trịnh Ngọc Hiền






MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Xu thế toàn cầu hoá đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch trên phạm
vi toàn cầu phát triển nhanh, đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia đồng thời cũng
góp phần làm trầm trọng hơn nạn ô nhiễm môi trường khiến các hệ sinh thái bị huỷ
hoại. Không những vậy, đôi khi du lịch còn là tác nhân gây mất ổn định về đời sống
văn hoá, xã hội. Chính vì vậy, c
ác nhà du lịch thế giới đang tỏ ra quan tâm nhiều
đến việc nghiên cứu các tác động xấu do du lịch gây ra đối với môi trường và đề
xuất một chiến lược phát triển mới đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trường.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, du lịch ở Việt Nam được chú ý đầu tư
phát triển, góp phần qua
n trọng làm tăng trưởng kinh tế - xã hội của nước nhà.
Thành phố biển Nha Trang với tiềm năng và khả năng phát triển du lịch đã nhanh
chóng trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ du khách trong nước mà cả du
khách nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển đó cũng đồng thời kéo theo nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường. Do đó, để đạt tới sự hài hoà giữa phát triển mạnh
ngà
nh du lịch mà không làm tổn hại đến môi trường sinh thái thì chúng ta đặt ra
mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Đây là một đề tài nóng hổi trong giai đoạn
hiện nay và được nhiều người quan tâm, ủng hộ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và những bài học rút ra từ thực tiễn phát triển du
lịch bền vững trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, cũng như do tính cấp
thiết của vấn đề, chúng tôi chọn đề tài “Phát triển bền vững

du lịch biển Thành
phố Nha Trang”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài tập trung vào việc vận dụng những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển bền vững du lịch trên thế giới và Việt Nam soi sáng cho việc đánh giá khả
năng phát triển loại hình du lịch này tại Nha Trang, góp phần phát triển du lịch tại
thành phố biển xinh đẹp nà
y theo hướng bền vững.


3. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Tổng quan một số vấn đề lý luận và thực tiễn vế phát triển du lịch bền vững
trên thế giới và Việt Nam, vận dụng vào thực tế phát triển du lịch biển tại
thành phố Nha Trang.
- Phân tích tiềm năng, hiện trạng phát triển du lịch biển ở Nha Trang theo
hướng bền vững
- Trên cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững, các định hướng chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, của khu vực, kiến nghị một số giải
phá
p phát triển du lịch bền vững ở thành phố Nha Trang.
4. Nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc tổng quan các cơ sở lý luận cho việc phát triển bền
vững du lịch biển thành phố Nha Trang. Phân tích tiềm năng, hiện trạng và đề xuất
một số giải phá
p để phát triển bền vững du lịch biển ở thành phố Nha Trang.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề du lịch biển trên địa bàn thành phố Nha
Trang từ năm 2000 đến nay trên quan điểm phát triển bền vững.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

6.1. Trên thế giới
Nga
y từ những năm 1980, khi các vấn đề về phát triển bền vững bắt đầu được đề
cập đã có nhiều nghiên cứu khoa học được thực hiện nhằm phân tích những ảnh
hưởng của du lịch đến sự phát triển bền vững. trọng tâm của các nghiên cứu này
nhằm giải thích cho sự cần thiết phải đảm bảo tính vẹn toàn của môi trường sinh
thái trong khi tiến hà
nh các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du
lịch tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là
những nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt
động du lịch gây ra và đưa ra khái niệm “du lịch rắn” (hard tourism) để chỉ kiểu du
lịch ồ ạt và “du lịch mềm” (soft tourism) để chỉ một chiến lược du lịch mới tôn
trọng môi trường.


Ngày 14/6/1992, tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển
(UNCED) đã diễn ra hội nghị thượng định về Trái đất (The Earth summit). Tại hội
nghị này 182 chính phủ đã thông qua Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21), một
chương trình hành động toàn diện nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân
loại bước vào thế kỷ XXI. Chương trình nghị sự 21 đã nêu ra các vấn để liên quan
đến môi trường và phát triển có nguy cơ gây ra những tác động nguy hại về kinh tế
và sinh t
hái từ đó đề ra chiến lược nhằm hướng tới các hoạt động mang tính bền
vững hơn.
Từ đầu những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững nhằm
hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo sự phát triển lâu dài.
Một số loại hình du lịch quan tâm đến môi trường đã bắt đầu xuất hiện như: du lịch
sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch khám phá, du lịch thay thế, du lịch
mạo hiểm, … đã góp phần nâ
ng cao hình ảnh về một loại hình du lịch có trách

nhiệm, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Năm 1996, hưởng ứng chương trình Nghị sự Trái đất, ngành du lịch toàn cầu đại
diện bởi ba tổ chức quốc tế gồm: Hội đồng lữ hành du lịch thế giới (WTTC), Tổ
chức du lịch thế giới (WTO) và Hội đồng Trái đất (Earth council) đã ứng dụng
những nguyên tắc của
Agenda 21 vào du lịch, phối hợp xây dựng một chương trình
hành động với tên gọi “Chương trình nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới sự phát triển
về môi trường”. Chương trình này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh
nghiệp du lịch, các chính phủ, các cơ qua
n du lịch quốc gia, các tổ chức thương mại
và người đi du lịch.
Chương trình nghị sự 21 về du lịch đã đưa ra các lĩnh vực ưu tiên hành động với
mục đích xác định và dự kiến các bước tiến hành. Chương trình này nhấn mạnh sự
cần thiết phối hợp hành động giữa các chính phủ, phân tích tầm quan trọng về chiến
lược và kinh tế của ngành du lịch, đồng thời
nêu bật những lợi ích to lớn của việc
phát triển du lịch theo hướng bền vững.




6.2. Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về du lịch mới được quan tâm nhiều từ thập niên 90
của thế kỷ XX trở lại đây cùng với sự khởi sắc của du lịch nước ta. Các công trình
nổi bật như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam, Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam 1995 – 2000, Cơ sở địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Du lịch sinh thái,…
và nhiều công trình khác, tập trung nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn với quy m
ô và
phạm vi lãnh thổ khác nhau. Trong những năm gần đây, các tác động của du lịch
đối với môi trường tự nhiên và xã hội đã ngày càng trở nên nghiêm trọng và thu hút

sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Điều đó cũng cho thấy yêu cầu cấp thiết của
việc xây dựng và phát triển du lịch bền vững.
Các cuộc hội thảo như Hội thảo quốc tế về phát triển du lịch bền vững ở Việt
Nam
do tổng cục Du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seidel (CHLB Đức) tổ
chức tại Huế (tháng 5/1997), Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở
Việt Nam (tại Hà Nội, tháng 4/1998),… du lịch bền vững đã được nhiều nhà nghiên
cứu trong nước và quốc tế đề cập, thảo luận.
Qua sơ lược lịch sử các nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến phát triển du
lịch bền vững, chúng ta có thể khái quát thành những điểm sau
:
- Trên thế giới, lĩnh vực du lịch và du lịch bền vững đã được nhiều nhà khoa
học và các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu. Các ấn phẩm về lý luận và
thực tiễn về vấn đề phát triển du lịch bền vững là những tài liệu bổ ích cho
việc nghiên cứu và vận dụng cho các quốc gia bắt đầu tham
gia tìm hiểu về
loại hình du lịch này.
- Ở Việt Nam, du lịch bền vững là một lĩnh vực còn mới mẻ, các vấn đề về
lý luận của du lịch bền vững đang tiếp tục được thảo luận để đi đến thống
nhất về nhận thức và quan điểm trong các nhà nghiên cứu và điều hành du
lịch. Từ đó, tiến hành đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển Việt Nam

nói chung và thành phố Nha Trang nói riêng dựa trên quan điểm phát triển
bền vững.


Tiếp thu các nghiên cứu đi trước, tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu còn khá
mới mẻ này: Phát triển bền vững du lịch biển Nha Trang với mong muốn được
đóng góp một phần nhỏ bé của mình, cũng như hy vọng đề tài của mình thực sự có
ý nghĩa thực tiễn nhằm làm cho du lịch ở thành phố quê hương phát triển ngày một

bền vững hơn, góp phần tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước.
7. Cơ sở phương pháp l
uận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống
Hệ thống lãnh thổ du lịch được cấu thành bởi nhiều phân hệ khác nhau về
bản chất nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan điểm hệ thống giúp chúng
ta nắm bắt và điều khiển được hoạt động của mỗi phân hệ nói riêng và toà
n bộ hệ
thống du lịch nói chung. Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống phức tạp gồm
nhiều thành phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là một dạng đặc biệt của
địa hệ mang tính chất hỗn hợp, có đầy đủ các thành phần: tự nhiên, kinh tế, xã hội
và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản. Vì vậy,
quan điểm hệ thống luôn
được quán triệt trong nghiên cứu luận văn.
Du lịch biển Nha Trang là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống lãnh thổ du
lịch Việt Nam và đồng thời cũng chính là một hệ thống lãnh thổ du lịch gồm nhiều
thành phần.
7.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Các đối tượng nghiên cứu của địa lý không thể tách rời một lãnh thổ cụ thể
với những đặc trưng riêng. Lã
nh thổ du lịch được tổ chức như một hệ thống liên kết
không gian của các đối tượng du lịch và trên cơ sở các nguồn tài nguyên, các dịch
vụ cho du lịch. Quan điểm này được vận dụng vào luận văn thông qua việc phân
tích các tiềm năng và các tác động nhiều mặt đối với lãnh thổ du lịch Nha Trang,
kết hợp có quy luật trên cơ sở phân tích, tổng hợp các thành phần của hệ thống lãnh
thổ du lịch,
phát hiện và xác định những điểm đặc thù của chúng.



7.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có sự vận động, biến đồi và phát triển. Nghiên
cứu quá khứ để có cơ sở cho việc đánh giá đúng hiện tại, phân tích nguồn gốc phát
sinh, phát triển tạo tiền đề cho việc dự báo tương lai, dự báo các xu hướng phát
triển. Quan điểm này được vận dụng trong quá trình phân tích các giai đoạn chủ yếu
của quá trình hình thành, phát triển hệ thống du lịch, các phân hệ cũng như xu
hướng phát
triển của hệ thống lãnh thổ.
7.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Phát triển du lịch đi đôi với bảo vệ môi trường là một bộ phận không thể
thiếu của chính sách sinh thái toàn vẹn. Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài
nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn và đóng góp lợi ích cho cộng đồng, đảm
bảo sự phát
triển bền vững.
Với quan điểm này, tính toàn vẹn lãnh thổ của hệ sinh thái phải được coi
trọng, trong đó các tác động của du lịch đối với khả năng chịu đựng của hệ sinh thái
cần được tính đến, đảm bảo sự phát triển du lịch trên cơ sở môi trường được bảo vệ
một cách có hiệu quả và bền vững.
7.2. Cơ sở phương pháp nghiên cứu
7.2.
1. Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: tài liệu lưu
trữ quốc gia và trung ương, tài liệu của các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch và
các tài liệu có liên quan khác. Các tài liệu thống kê luôn được bổ sung, cập nhật và
được chọn lọc để thực hiện các nghiên cứu trong luận văn.
7.2.2. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương phá
p đặc thù của địa lý nói chung và địa lý du lịch nói riêng.
Phương pháp này được sử dụng từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình
tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối liên hệ về thời gian, không gian, số lượng,

chất lượng của đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận văn được thể hiện
một cách rõ nét hơn thông qua ngôn ngữ phi lời của hệ thống các bản đồ, biều đồ.


7.2.3. Phương pháp khai thác thông tin địa lý (GIS)
Đây cũng là một trong những phương pháp đặc thù của địa lý. Phương pháp
này được sử dụng trong việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, quản lý dữ liệu, cập nhật,
xử lý các dữ liệu và thiết kế các bản đồ phục vụ cho nội dung đề tài nghiên cứu.
7.2.4. Phương pháp điều tra thực địa
Đây cũng là một phương pháp truyền thống và đặc trưng của địa lý. Phương
phá
p này được xem là đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu khoa học nhằm tích luỹ
tư liệu thực tế về đặc điểm hình thành, phát triển của lãnh thổ du lịch. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn được chú trọng thực hiện để đạt được
tính thực tiễn về đặc trưng của lãnh thổ. Trong nghiên cứu du lịch, các thông tin thu
thập được qua điều tra thực tế gi
úp các nhà nghiên cứu tổng hợp được nhiều ý kiến
và quan điểm của các du khách, các nhà quản lý du lịch một cách khách quan.
7.2.5. Phương pháp đánh giá tổng hợp
Các tài liệu đã được tác giả thu thập, điều tra, thống kê sẽ được tổng hợp,
phân tích với quan điểm hệ thống để làm cơ sở nghiên cứu nội dung đề tài.
7.2.6. Phương pháp điều tra và lấy ý kiến chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu tác giả luôn tranh thủ ý kiến của giá
o viên hướng
dẫn đồng thời cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia về du lịch, các nhà điều
hành du lịch ở thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà.
8. Những nội dung cơ bản của luận văn, dự kiến các chương mục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1 : Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững

Chương 2 :
Tiềm năng và thực trạng phát triển bền vững du lịch biển thành
phố Nha Trang
Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp phát triển bền vững du lịch
biển ở thành phố Nha Trang
Kết luận và kiến nghị



Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG

1.1. Khái niệm về du lịch bền vững
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Theo thời gian, qua từng thời đại khác nhau, có những quan niệm khác nhau
về du lịch.
Ở thời kỳ đồ đá, con người “đi” vì sự sinh tồn, vì tránh đói, tránh rét, tránh
sợ hãi.
Đến thời kỳ cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng
ngựa đã mang mục đích tiêu khiển của những tầng lớp thống trị. Sự ra đời của tàu
hỏa vào t
hế kỷ XIX đã tạo động lực cho giao thông phát triển, đồng thời cũng tạo
điều kiện cho du lịch phát triển hơn. Sau đó đến sự có mặt của tàu thủy, ô tô, máy
bay,… làm cho du lịch ngày càng trở nên gần gũi với con người hơn.
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan,
đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu
tiên, du lịch đư
ợc hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc nhóm người, rời khỏi nơi
ở của mình trong khoảng thời gian ngắn, đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi,
giải trí hay chữa bệnh.

Năm 1985, I.I. Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động
của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm t
hời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất, tinh
thần, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.
Ở Việt Nam, theo luật Du lịch ban hành vào tháng 6 – 2005, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006, “du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu t
ham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.


WTO định nghĩa “Du lịch theo nghĩa hành động, được định nghĩa là một
hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung
quanh hoạt động này. Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một
quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích
giải trí, tiêu khiển”.
Tuy có khá nhiều các quan điểm khác nhau về du lịch nhưng vẫn chưa có sự
thống nhất chung. Do đó, tác giả m
ong muốn được áp dụng một quan điểm mới của
Ts. Nguyễn Đức Tuấn với nội dung khá đầy đủ về du lịch như sau: “Du lịch là sự
ra đi của các cư dân và tạm trú cách xa (khoảng 600m) nơi ở thường xuyên của
mình để tạo ra các mối quan hệ với nhà cung ứng dịch vụ du lịch, chính quyền
và dân địa phương nơi đến, nhằm mục đích phục vụ cho việc nghỉ ngơi, giải trí,
tham qu
an các danh lam thắng cảnh, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đoàn tụ gia đình,
và thực hiện các hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn giáo, thể thao có tác
dụng nâng cao chất lượng cuốc sống của con người. Ngoài ra, du khách phải
nghỉ đêm và mua các dịch vụ ở nơi đến”.

1.1.2. Quan niệm về phát triển bền vững

Từ thế kỷ XIX, qua thực tiễn quản lý rừng ở Đức, người ta đã đề cập tới sự
“phát triển bền vững”. Nhưng mãi đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khái niệm này
mới được phổ biến tương đối rộng rãi.
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải và cân nhắc đến việc
khai thác các tài nguyên có khả năng phục hồi và không phục hồi, cần xem
xét các
điều kiện khó khăn cũng như thuận lợi trong việc tổ chức xen kẽ các hoạt động ngắn
hạn và dài hạn.
Đến năm 1987, Ủy ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà
Grohalem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong
bản báo cáo “Tương lai chúng ta” như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là sự
phát triển có thể đáp ứng những điều kiện hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại
đến k
hả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.


Theo ơng Jordan Ryan – đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam thì
“phát triển bền vững là một q trình đảm bảo tăng tối đa phúc lợi của xã hội và
xóa bỏ đói nghèo thơng qua việc quản lý ở mức tối ưu và có hiệu quả tài ngun
thiên nhiên”. Ơng khẳng định phát triển bền vững nằm ở phần giao nhau của 3 vòng
tròn: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về mơi trường. Cũng
theo ơng, chúng ta khơng nê
n coi phát triển bền vững như một phương tiện thuận
lợi để gom tất cả các vấn đề về kinh tế, xã hội và mơi trường lại với nhau, mà cần
có một quan điểm tồn diện để đảm bảo các chính sách có tác dụng hỗ trợ thay vì
mâu thuẫn nhau.









Hình 1.1. Mơ hình phát triển bền vững mơ phỏng theo quan điểm của Jordan Ryan

Trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tháng 6/1992 tại Rio De Janeiro,
“phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp giữa
ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.
Bà Nguyễn Ngọc Lý (Trưởng ban Phát triển bền vững – UBND thành phố
Hà Nội) cũng đồng ý với các định nghĩa về phát triển bền vững của hội nghị Rio De
Janeiro, cho rằng khái niệm về phát triển bền vững cần đư
ợc vận dụng linh hoạt tùy
theo từng thời điểm lịch sử, từng nền kinh tế - xã hội khác nhau và tùy theo những
nền văn hóa khác nhau của các quốc gia.
Ngồi ra, còn có một số tác giả cho rằng: “phát triển bền vững bên cảnh yếu
tố là bền vững về kinh tế, xã hội và mơi trường, cần phải có cả sự bền vững về an
Hệ kinh tế
Hệ tự nhiên
Hệ xã hội
Phát triển
bền vững



ninh, chính trị và bảo đảm công bằng xã hội. Khái niệm phát triển bền vững mang
tính chất toàn cầu nên không thể hiểu phát triển bền vững chỉ trong phạm vi một
nước mà phải tính đến những yếu tố hợp tác quốc tế, yếu tố phối hợp phát triển giữa

các quốc gia, nhất là những ảnh hưởng trong lĩnh vực môi trường.
Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” t
rong quá
trình hoạch định chính sách và quản lý phát triển kinh tế với ý muốn nhấn mạnh
phương thức và việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.
Tuy hiện có khá nhiều quan điểm khác nhau về phát triển bền vững, song tựu
trung, tất cả đều thống nhất ở các nội dung sau:
“ Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về 3 mặt: Kinh tế - xã hội
môi trường
để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần
của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung
cấp tài nguyên để phát triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng
cuộc sống của các thế hệ trong tương lai”.
Như vậy, để PTBV thì phải cùng đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát triển
có hiệu quả về ki
nh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội; nâng cao mức sống,
trình độ sống của các tầng lớp dân cư; (3) Cải thiện môi trường môi sinh, bảo đảm
phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Thể hiện qua hình 1.2
và hình 1.3 sau đây:

Mục tiêu kinh tế



Phát triển
bền vững


Mục tiêu xã hội Mục tiêu sinh thái



Hình 1.2: Mô hì
nh phát triển bền vững của ngân hàng Thế giới World Bank



Giá trị máy móc
Cạnh tranh quốc tế

Kinh tế
Nông nghiệp bền vững
Bảo vệ nguồn nước
Kiểm soát thuốc BVTV
Bảo vệ cuộc sống, văn hóa
trong nông nghiệp

Phát triển
Hệ thống quata
Hợp tác nông trại

Chính sách thu nhập
Nghiên cứu phát triển




Phát triển bền vững

Sinh thái


Xã hội
Bảo vệ
Bả ệ habitat o v

Bình ổn giá
Du lịch sinh thái
Chất lượng cảnh quan Quản lí và bảo vệ MT
vùng nông thôn Chất lượng nước
Đa dạng sinh học

Sức khỏe và sự an toàn

Các giá trị giải trí
Chống t
hất nghiệp

Hình 1.3: Mô hì
nh phát triển bền vững của Villen, 1990

1.1.3. Quan niệm về phát triển du lịch bền vững
Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt nam nói riêng đang đứng
trước sự bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là
nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn.
Khái niệm “phát triển du lịch bền vững” xuất hiện khoảng từ 10 năm trở lại
đây trên cở sở cải thiện và nâng cấp khái niệm
“du lịch mềm” (soft tourism), được
nhiều quốc gia và hiệp hội du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất và đầy đủ về “du lịch bền vững”.
Năm 1992, Tổ chức du lịch thế giới (WTO – the World Tourism
Organisation) định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động d

u
lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa trong
khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát
triển du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài
nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người
trong khi vẫn duy trì được sự vẹn toàn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển


của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”.
Năm 1996, Diễn đàn lãnh đạo các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp lữ
hành – du lịch (WTTC – The World Travel and Tourism council) đưa ra khái niệm:
“Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch
mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch mai sau”.
Du lịch bền vững đòi hỏi các cấp và các đơn vị kinh doanh du lịch quản l
ý tất
cả các dạng tài nguyên du lịch theo một cách nào đó để một mặt đáp ứng các nhu
cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ, trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các quá
trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và các hệ thống sinh thái đảm bảo sự
sống. (Theo Hens.L, 1998).
Ở Việt Nam, phát triển bền vững được thể hiện trong chỉ thị 36CT của bộ
Chí
nh Trị, ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25 tháng 6 năm 1998: Mục tiêu
và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ
môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một bộ phận cấu thành không
thể tách rời của phát triển bền vững.
Theo quan điểm của Tổng cục Du lịch Việt Nam, phát triển du lịch phải
được định hướng và quản lý theo phương châm: Kết hợp hài hòa nhu cầu của hiện
tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch, khai thác, sử dụng
hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch tự nhi
ên; chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát

huy giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, tránh hiện đại hóa hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích, xây dựng
và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh, đảm bảo an ni
nh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm tham quan du lịch.
Theo điều 5, luật Du lịch Việt Nam:
“Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo hài hòa
giữa kinh tế - xã hội – môi trường, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng
du lịch – văn hóa, lịch sử, du lịch sinh thái, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của
tài
nguyên du lịch.
Đảm bảo chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.


Đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh,
an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân kinh
doanh du lịch.
Đảm bảo sự tham gia của các thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong
phát triển du lịch.
Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình
ảnh đất nước, con người Việt Nam.
Phát triển đồng thời du lịc
h trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu
hút ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
Từ đó, chúng ta có thể thấy mục tiêu của phát triển du lịch bền vững là:
- Phát triển bền vững về kinh tế: du lịch là một ngành kinh tế nên phát triển du lịch
bền vững cần phải bền vững về kinh tế, thu nhập phải lớn hơn chi phí, phải đạt được
sự tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tối ưu hóa đóng góp của ngành du
lịch thu nhập quốc dân,
góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.

- Phát triển bền vững về môi trường: phải sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường
theo hướng tiết kiệm, bền vững, đảm bảo sự tái tạo và phục hồi của tài nguyên,
nâng cao chất lượng của tài nguyên và môi trường, thu hút cộng đồng và du khách
vào các hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên.

- Phát triển bền vững về xã hội: thu hút cộng đồng tham gia vào các hoạt động du
lịch, tạo nhiều việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa
phương, cải thiện tính công bằng xã hội, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản
phẩm du lịch, đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách.
1.2. Các yêu cầu để phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Hệ sinh thái
Hệ sinh t
hái đề cập đến việc duy trì các hệ thống trợ giúp cuộc sống (đất,
nước, không khí, cây xanh), bảo vệ sự đa dạng và ổn định của các loài và hệ sinh
thái.
Tiêu chuẩn này đòi hỏi các hoạt động du lịch và cơ sở hạ tầng phải phù hợp
với các điều kiện của môi trường.


Vì điều kiện của môi trường thay đổi theo không gian, do vậy mà các loại
hình du lịch phải phù hợp với điều kiện môi trường của mỗi vùng.
1.2.2. Hiệu quả
Đánh giá các phương thức và biện pháp phát triển về mặt đo lường chi phí,
thời gian, tiền và lợi ích của xã hội và cá nhân.
Trong phát triển du lịch phải đạt được hiệu quả về lượng vốn và lao động bỏ
ra trong hoạt động kinh doanh.
1.2.
3. Cân bằng
Đảm bảo sự phát triển bình đẳng và thừa nhận các nhu cầu giữa cá nhân và
hộ gia đình, các nhóm xã hội, giữa thế hệ hiện tại và tương lai, giữa con người và

thiên nhiên.
1.2.4. Bản sắc văn hóa
Đề cập đến việc bảo vệ và duy trì chất lượng cuộc sống, các truyền thống văn
hóa đặc sắc như tôn giáo, nghệ thuật. Du lịch phải tăng cường bảo vệ văn hóa thông
qua c
hính sách du lịch văn hóa.
1.2.5. Cộng đồng
Du lịch phải tạo cơ hội cho công đồng địa phương tham gia vào các hoạt
động du lịch sinh thái, bảo vệ môi trường thông qua đầu tư vào các hoạt động kinh
doanh du lịch, thúc đẩy sự phát triển của các ngành có liên quan như công nghiệp,
thủ công mỹ nghệ, nông nghiệp,…
1.2.6. Công bằng
Đề cập đến việc hòa nhập, cân bằng và hài hòa giữa các yếu tố (chẳng hạn
như giữa kinh tế và môi trường, giữa nông nghiệp và du lịch, giữa các loại hình du
lịch, …).
1.2.
7. Phát triển
Thực hiện các tiềm năng, thông qua đó mà khả năng được thúc đẩy để cải
thiện chất lượng cuộc sống. Tăng trưởng là kết quả của sự phát triển nhưng không
đồng nghĩa với khai thác triệt để và phá hủy môi trường.



1.3. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển du lịch bền vững
1.3.1. Khai thác, sử dụng các tài nguyên một cách hợp lý
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai
một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém so với cái mà các thế hệ trước đã
được hưởng, ngăn ngừa trước những thay đổi mà có thể tránh được đối với những
tài nguyên môi trường không thể tái tạo, thay thế, tính vào chi phí các hoạt động


kinh tế, dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này không
phải là “hàng hóa cho không”.
Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với tài nguyên nhân văn.
Chúng ta cần trân trọng các nền văn hóa địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh
nhai và đất đai mà người ta dựa vào để sống.
Việc sử dụng tiết kiệm, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đa
ng ngày càng
được nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lý hợp lý mang tính toàn
cầu và nó cũng khiến cho việc kinh doanh phát triển lâu dài.
1.3.2. Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải
Sự tiêu thụ tài nguyên quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn tới sự hủy hoại
môi trường trên toàn cầu chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển của du lịch. Kiểu
tiêu thụ quá mức nà
y là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển
và đã lan rộng rất nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các dự
án du lịch được triển khai mà không có các đánh giá tác động môi trường hoặc
không thực thi các kiến nghị về tác động môi trường của các dự án đó đã dẫn tới sự
tiêu dùng lãng phí, vô trách nhiệm đối với các tài nguyên môi trường. Chính điều
này đã gây ra sự ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và xáo trộn về mặt văn
hóa và xã hội.
Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyê
n và không kiểm soát lượng chất thải
từ du lịch góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển
không bền vững của ngành du lịch nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung.
Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải ra ngoài môi trường sẽ tránh
được những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại môi trường và góp phần nâng


cao chất lượng du lịch.
1.3.3. Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tính đa dạng

Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hóa, xã hội là thế mạnh của mỗi quốc gia
nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách về các sản phẩm du lịch. Đa dạng
cũng là sự sống còn khi tránh được việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn
lực sinh tồn.
Phát triển bền vững cho chủ trương ủng hộ việc để lại cho thế hệ mai sau
sự
đa dạng cả về tài nguyên thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ
trước được thừa hưởng. Chiến lược bảo tồn thế giới nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn
đa dạng nguồn gen, từ đó, mục đích đã được mở rộng, trong đó có sự đa dạng cơ
cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền văn hóa.
Việc duy trì và phát tr
iển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa và xã hội là
yêu cầu rất quan trọng đối với việc phát triển du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn
của ngành công nghiệp du lịch.
1.3.4. Phát triển phải phù hợp với tổng thể kinh tế - xã hội
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, chính vì
vậy, mọi phương á
n khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội của địa phương, của vùng kinh tế. Du lịch được thiết
lập đúng đắn sẽ tăng cường các giá trị về tài sản môi trường, bảo vệ các loài quý
hiếm và mang lại sự cải thiện đối với cộng đồng địa phương. Những nơi mà du lịch
không kết hợp với các ngành khai thác thông qua quy hoạch có chiến lược thì du
lịch sẽ bung ra nha
nh chóng và khó kiểm soát được nền kinh tế địa phương.
Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp
quốc gia và địa phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng
tồn tại lâu dài của ngành du lịch.
1.3.5. Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương
Để phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành ki
nh

tế nói riêng, việc khai thác các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
trên một địa bàn lãnh thổ, nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có


sự chia sẻ, phối hợp với các ngành khác và không quan tâm đến lợi ích kinh tế
chung cũng như quyền lợi của người dân địa phương thì tất yếu sẽ gây khó khăn
cho cuộc sống của người dân địa phương. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến sự
thuận lợi trong việc phát triển kinh tế của ngành đó mà còn đẩy người dân địa
phương vào thế phải tăng cường khai thác các tài nguyên sẵn có của m
ình để đáp
ứng các nhu cầu của cuộc sống, dẫn tới sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự phát
triển kém ổn định, bền vững của địa phương. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa
dạng hóa kinh tế bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch đúng
đắn về hạ tầng cơ sở như đường sá, điện nước, thông tin liên lạc, … có thể phục vụ
cho sự phát
triển tổng thể, thông qua đó, thúc đẩy sự phát triển nhanh của du lịch.
Du lịch cũng cần lưu tâm đến các chức năng kinh tế có tính chất quan trọng
và hợp nhất các giá trị môi trường trong các quyết định đầu tư.
Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến
các giá trị và chi
phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được nền kinh tế địa phương
và tránh được sự tổn hại về môi trường.
1.3.6. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt
động du lịch
Sự tham gia của cộng đồng địa phương là rất cần thiết cho ngành du lịch.
Người dân địa phương với nền văn hóa bản địa, môi trường, lối sống và truyền
thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút khá
ch du lịch đến với một điểm
du lịch, đồng thời cũng hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu sống của người dân địa phương,
bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hóa của họ; và sự tham gia của cộng đồng địa

phương cũng làm phong phú thêm các loại hình và sản phẩm du lịch.
Hơn nữa, khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch
thì sẽ tạo r
a được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng sở
tại là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường khu
vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng phát triển lâu dài của du lịch. Sự tham gia của
cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch được thực hiện t
hông qua việc khuyến
khích họ sử dụng các phương tiện, các cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách du


lịch như chuyên chở, thuyết minh hướng dẫn du khách, cho thuê nhà ở, nấu ăn cho
khách, sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm.
Khuyến khích cộng đồng địa phương cùng làm du lịch không chỉ qua những
việc làm có thu nhập thấp, theo mùa và những việc phục vụ như bồi bàn, dọn phòng
mà nên có những công việc ở mức cao hơn và những công việc quản lý có thu nhập
cao thường do người nước ngoài làm thì người dân địa phương cũng có thể đảm
đư
ơng bởi họ cũng có kinh nghiệm và sự hiểu biết đặc biệt về địa phương mình để
góp phần không nhỏ cho sự phát triển du lịch của địa phương mình.
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại
lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch.
1.3.7. Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương

và các đối tượng liên quan
Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hòa giữa phát
triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của người dân địa phương và tác
động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa. Ý kiến
của người dân địa phương là cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện
pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hóa sự đóng góp tích cực của quần

chúng địa phương.
Du
lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khách với người dân địa
phương và những thay đổi tiềm ẩn do sự thay đổi nhanh chóng của ngành du lịch.
Tham khảo ý kiến trên diện rộng với các chính quyền địa phương cũng như người
dân để khuyến khích sự tham gia đóng góp ý kiến, lồng ghé
p các lợi ích của cá nhân
và quần chúng.
1.3.8. Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường
Một lực lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng thành thạo, không những
mang lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính chất
phức tạp của du lịch sẽ giúp c
ho việc nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng
cường sản phẩm du lịch đối với du khách, chủ nhà và ngành du lịch.


Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hóa nhằm tăng cường sự hiểu
biết và cảm nhận khác nhau về văn hóa và làm cho nhân viên du lịch và học viên
nắm được nhu cầu của khách và cả chủ nhà. Điều đó cũng góp phần loại bỏ các
thành kiến không tốt và tư tưởng bài ngoại.
Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên l
à
người địa phương, điều này được áp dụng đặc biệt đối với các cán bộ tổ chức và
hướng dẫn viên có kiến thức sâu rộng có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn
trong vùng và việc tham gia của họ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân
viên người địa phương không nên chỉ hạn chế trong những công việc đơn giản, có
vị trí thấp và mức lương thấp.
Việc đào tạo nhân viê
n, trong đó có lồng ghép vấn đề du lịch bền vững vào

thực tiễn công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ
làm tăng chất lượng du lịch.
1.3.9. Tăng cường quảng bá tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm
Tiếp thị và quảng cáo là những vũ khí lợi hại cho việc bán thành công bất cứ
sản phẩm
nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các
thông tin về sản phẩm, bao gồm cả các tác động của chúng đối với nhân viên và môi
trường. Điều đó nhằm nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên, nhân tạo và mức
sống có tính đến giá thành của các giá trị môi trường có xét đến nhu cầu của thế hệ
hiện tại và tương lai.
Chiến lược tiếp thị đối với du lịch bền vững bao gồm v
iệc xác định, đánh giá
và luôn rà soát lại mặt cung của những nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhân văn và
cá nguồn lực khác cũng như khía cạnh cung – cầu.
Do sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan mà tiếp
thị du lịch đặc biệt có tính cạnh tranh. Nó mang tính độc nhất và người tiêu dùng
“nhắm mắt” mua sản phẩm vì người ta không thể khảo sát điểm tham quan trước
khi m
ua, do đó, người tiêu dùng đến với sản phẩm và tiêu thụ nó ngay tại nguồn.
Tiếp thị và quảng cáo du lịch một cách đầy đủ và có trách nhiệm giúp nâng cao hiểu
biết, sự cảm kích, lòng tôn trọng văn hóa và môi trường địa phương và làm tăng sự


thỏa mãn toàn diện của du khách.
1.3.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu
Để ngành du lịch tồn tại và phát triển một cách bền vững, điều cốt yếu là cần
có sự dự đoán vấn đề và nắm trước các chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển
nhanh của du lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và
xã hội. Những môi trường nà
y thường có ít số liệu do khó khăn trong việc thu thập.

Điều đó cho thấy nhu cầu cấp thiết cần thực hiện các nghiên cứu cơ bản hơn nữa để
đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự phát triển bền vững
trong mối quan hệ với cơ chế, chính sách, với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên,
môi trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi phải có sự hợp tác
giữa ngành du
lịch với các trường đại học, viện nghiên cứu, chính phủ và các tổ chức phi chính
phủ về tiềm năng, kỹ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự
trung thực và cam kết về nghiệp vụ.
Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và
phân tích có hiệu quả các số liệu là cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn
đề còn tồn đọng và m
ang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa
phương, cho du lịch và cho du khách.

Kết luận chương 1

Cuộc sống con người ngày càng nâng cao thì các nhu cầu để thỏa mãn cuộc
sống cũng ngày càng được cải thiện, trong đó, hoạt động du lịch cũng đòi hỏi phải
được phát triển bền vững để không chỉ đáp ứng cho nhu cầu hiện tại mà cho cả
trong tương lai. Hiện nay đã có một số nguyên tắc và yêu cầu được đưa ra để làm
kim chỉ nam hoạt động nhằm đảm bảo cho sự phát triển đư
ợc bền vững. Việt Nam
nói chung và thành phố Nha Trang nói riêng, đã và đang tiếp thu kinh nghiệm trong
phát triển du lịch, gắn du lịch với các hoạt động kinh tế - xã hội khác cũng như gắn
với cộng đồng dân cư để tạo nên một tổng thể hoàn thiện phát triển bền vững.



Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BIỂN THÀNH PHỐ NHA TRANG


2.1. Tài nguyên du lịch biển Nha Trang
2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Nha Trang là một thành phố biển nằm ở cực đông Việt Nam, là
tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Hòa, thuộc vùng Nam Trung bộ, có diện tích là 250.692 km
2
,
trải dọc theo chiều dài của đất nước từ vĩ độ bắc 12
o
8’33’’ đến 12
o
25’18’’ và từ
kinh độ đông 109
o
6’16’’ đến 109
o
14’30’’.



Hình 2.1: Bản đồ thành phố Nha Trang – Nguồn: www.lib.utexas.edu

×