Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang thời kỳ 1995 - 2007 và định hướng đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
________________



Huỳnh Phẩm Dũng Phát




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TỈNH TIỀN GIANG THỜI KỲ 1995 – 2007
VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020





LUẬN VĂN THẠC SĨ ÐỊA LÝ HỌC





Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
________________



Huỳnh Phẩm Dũng Phát




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TỈNH TIỀN GIANG THỜI KỲ 1995 – 2007
VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020


Chuyên ngành : Địa lí học
Mã số : 60 31 95


LUẬN VĂN THẠC SĨ ÐỊA LÝ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG



Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem là động lực phát triển của thế giới. Từ
sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế với mục
tiêu xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH). Đổi mới kinh tế phải bắt đầu từ việc đổi mới cơ cấu ki

nh tế (CCKT), chuyển
dần từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ.
Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế của các nước nói chung cũng như ở Việt
Nam nói riêng trong thời gian qua đã chỉ ra rằng những thành công hay thất bại
trong việc phát triển kinh tế đều bắt nguồn từ việc xác định CCKT có hợp lí hay
không. Để thúc đẩy kinh tế phát triển, đạt hiệu quả cao và bền vững, việc xác định
và hoàn t
hiện một CCKT hợp lí, phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền
kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan, mà còn là một trong những nội
dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tiền Giang là tỉnh nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với
nền kinh tế còn nặng về nông nghiệp. Trong những năm qua, cùng với cả nước,
Tiền Giang đang trong tiến trình xây dựng và phát triển the
o hướng CNH, HĐH.
CCKT của tỉnh từng bước được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, tuy nhiên
do nhiều nguyên nhân khác nhau sự chuyển dịch còn chậm và chưa vững chắc.
Từ năm 2006, Tiền Giang gia nhập vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
(KTTĐPN) tạo điều kiện thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh. Với yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH và nhất là đứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập
quốc tế sâu rộng như hiện na
y, đòi hỏi CCKT phải được chuyển dịch nhanh và hiệu
quả hơn trong thời gian tới.
Xuất phát từ cơ sở lí luận, từ thực tiễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT)
tỉnh Tiền Giang và tính cấp thiết của vấn đề, tác giả chọn đề tài “Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang thời kỳ 1995 – 2007 và định hướng đến năm 2020” để
nghiên cứu và m
ong muốn đóng góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển kinh tế
của tỉnh nhà trong thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về

CDCCKT tỉnh Tiền Giang trong thời gian qua, từ đó đưa ra những định hướng và
đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch nhanh
hơn theo hướng CNH, HĐH trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nà
y, luận
văn đề ra những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan những vấn đề lí luận có liên quan đến CCKT và CDCCKT, làm
rõ các khái niệm, các nhân tố tác động, các chỉ tiêu đánh giá cơ bản.
- Đánh giá tác động của các nhân tố chủ yếu đến CDCCKT tỉnh Tiền Giang;
phân tích thực trạng CDCCKT của tỉnh trong thời gian qua, đánh giá những thành
tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
- Đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thú
c
đẩy CDCCKT tỉnh Tiền Giang theo hướng CNH, HĐH.
3. Giới hạn nghiên cứu
Về nội dung: do đề tài có nội dung rộng và phức tạp nên phạm vi nghiên cứu
của luận văn được giới hạn: (i) phân tích ảnh hưởng của các nguồn lực tới sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh; (ii) phân tích t
hực trạng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo ngành, theo thành phần gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, năng suất
lao động và cơ cấu giá trị sản xuất nội ngành, không phân tích sâu các lĩnh vực
trong từng ngành; (iii) phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ gồm: cơ
cấu giá trị sản xuất của các địa phương phân theo khu vực kinh tế và tỉ trọng so với
toàn tỉnh; (iv) đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải phá
p chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang theo hướng CNH, HĐH.
Về không gian: là địa bàn lãnh thổ của tỉnh Tiền Giang bao gồm 9 đơn vị
hành chính: Thành phố Mỹ Tho, Thị xã Gò Công, các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân
Phước, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công Tây và Gò Công Đông với tổng diện tích
tự nhiên là 248.180 ha.
Về thời gian: phần đánh giá thực trạng được đề cập từ năm 1995 đến năm

2007. Phần định hướng, đề xuất một số giải phá
p chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến
năm 2020.
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là xu thế tất yếu của đất nước trong quá trình phát
triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. CDCCKT giữ vai trò quan
trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH. Trong thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều
công trình nghiên cứu về CCKT và sự CDCCKT. Trong đó, có một số công trình
tiêu biểu về mặt lí luận và thực tiễn như: “Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành ở t
hành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
của TS. Trương Thị Minh Sâm (chủ biên) năm 2000; “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ 21” của TS. Nguyễn Trần Quốc (chủ biên)
năm 2004; “Định hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế vùng kinh tế
trọng điểm ph
ía Nam” của TS. Trần Du Lịch, PGS. TS. Đặng Văn Phan (chủ
nhiệm đề tài) năm 2004; “Các cấp ủy Đảng ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính
trị” của Trần Trác, Trần Văn năm 2005; “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam” của PGS. TS. Bùi Tất Thắng (chủ bi
ên) năm 2006; “Những vấn đề chủ yếu
về kinh tế phát triển” của PGS. TS. Ngô Doãn Vịnh năm 2006;…
Đối với tỉnh Tiền Giang chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các đề tài chỉ dừng ở mức nghiên cứu
chung về kinh tế xã hội như: “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Tiền Giang đến năm
2020” của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang; hay nghiên
cứu, quy hoạch về từng ngành kinh tế riêng lẻ như “Quy hoạch phát triển ngành
công nghiệp tỉnh Tiền Giang đến 2010” của Sở Công nghiệp tỉnh Tiền Giang,
“Báo cáo rà soát, bổ sung quy hoạch ngành nông lâm nghiệp – nông thôn giai đoạn

2005-2010 và 2020” của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền
Giang,…
Trên đây là những nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho tác giả khi thực hiện
đề tài “Chu
yển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang thời kỳ 1995 – 2007 và định
hướng đến năm 2020”.


5. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm hệ thống
CCKT chính là một hệ thống hoàn chỉnh gồm nhiều tầng bậc, bản thân nó là
sự hợp thành của nhiều hệ thống khác nhau và đồng thời lại là bộ phận của hệ thống
lớn hơn - hệ thống kinh tế – xã hội (KT – XH). CCKT tỉnh Tiền Giang có mối quan
hệ chặt chẽ với môi trường xung qua
nh, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi
trường KT - XH. Sự CDCCKT có thể ảnh hưởng đến sự phát triển KT - XH và
ngược lại. Phải coi CDCCKT như là một hệ thống nằm trong hệ thống KT - XH
hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Vì vậy, khi nghiên cứu
sự CDCCKT tỉnh Tiền Giang phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến sự CDCCKT
của tỉnh và xem xét mối tương quan, sự tác động đối với sự CDCCKT vùng
ĐBSCL
và cả nước.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Cơ cấu lãnh thổ kinh tế Tiền Giang được coi như một thể tổng hợp tương đối
hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên, KT - XH có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động chi phối lẫn nhau tạo những thế mạnh riêng cho tỉnh hay từng vùng trong
trong tỉnh. Do vậy cần phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự CDCCKT tỉnh Tiền
Giang để từ đó đưa ra những giải pháp, định hướng phát triển có tính tổng hợp
nhằm khai thác tốt những tiềm năng, lợi thế của tỉnh nhằm đẩy nhanh sự CDCCKT

.
5.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Quá trình phát triển kinh tế và CDCCKT có sự biến chuyển theo thời gian và
không gian. Vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh vào trong nghiên cứu đề tài để
thấy được nguồn gốc nảy si
nh, quá trình diễn biến của các yếu tố kinh tế trong từng
giai đoạn, trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể. Từ đó đánh giá
chính xác hiện trạng CDCCKT trong hiện tại và định hướng phát triển của các
ngành kinh tế, CDCCKT Tiền Giang trong tương lai.
5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Nghiên cứu những vấn đề kinh tế phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát
triển bền vững. Phát triển bền vững đã trở th
ành mục tiêu phát triển KT – XH của
hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới. Phát triển KT - XH, CDCCKT phải đi đôi
với sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi
trường; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở những nguồn tài liệu, số
liệu có liên quan đến nội dung nghiê
n cứu thu thập được từ sách báo, tạp chí khoa
học, internet, niên giám thống kê, các báo cáo thường niên, quy hoạch tổng thể của
Ủy ban nhân dân tỉnh và các sở, ban ngành tác giả mới rút ra được các đặc điểm về
tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng như nhìn nhận, đánh giá chính xác sự
CDCCKT tỉnh Tiền Giang.
5.2.2. Phương pháp thống kê toán học
Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyê
n như công cụ để phân tích,
lựa chọn những giá trị đúng nhất, gần với thực tiễn trên cơ sở các nguồn số liệu thu

thập được để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội đến
CDCCKT tỉnh Tiền Giang. Đồng thời, phương pháp toán học cũng được sử dụng
trong việc phân tích, dự báo và lựa chọn các giải pháp thích hợp cho định hướng
CDCCKT tỉnh Tiền Gi
ang trong tương lai.
5.2.3. Phương pháp phân tích, so sánh
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích, so
sánh mang lại nhiều lợi ích. Thông qua việc tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu
các số liệu thống kê để thấy được quá trình CDCCKT qua các giai đoạn. Từ đó, rút
ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất đáp ứng được những nhiệm vụ
và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.
5.2.
4. Phương pháp khảo sát thực địa
Thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí
KT - XH nhằm thu thập thêm thông tin, thực trạng phát triển, thẩm định mức độ tin
cậy của các số liệu, báo cáo. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận
văn đã tiến hành khảo sát thực địa tại một số địa phương trong tỉnh để kiểm tra độ
chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được.
5.2.5. Phương pháp chuyên gia
CDCCKT là vấn đề tương đối rộng và phức tạp cho nên việc gặp gỡ, trao đổi
ý kiến với các nhà khoa học, cán bộ, chuyên viên của các sở, ban ngành trong tỉnh
là một yêu cầu không thể thiếu. Thông qua phương pháp này, tác giả luận văn c
ó
thể tiếp cận, tìm hiểu hiện trạng và định hướng vấn đề nghiên cứu một cách nhanh
chóng.
5.2.6. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học địa lí. Sử dụng phương pháp này
giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các bản đồ
trong đề tài được tác giả luận văn thành lập dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và
xử lý.

Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống các
bảng số liệu và biểu đồ.
5.2.
7. Phương pháp dự báo
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình vận động và phát triển lâu dài, muốn
thành công thì phải dự báo trước sự phát triển để có hướng điều chỉnh CCKT phù
hợp, đúng đắn. Đề tài sử dụng phương pháp dự báo xu hướng và dự bá
o biến động
dựa trên cơ sở tính toán từ các nguồn số liệu đã thu thập được, sự phát triển có tính
qui luật, những biến động của các sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
6.Cấu trúc của luận văn
Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang thời kỳ 1995 – 2007 và
định hướng đến năm 2020” ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung ba
o gồm
ba chương:
Chương I: Cơ sở lí luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chương II: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền Giang thời kỳ 1995 – 2007.
Chương III: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Tiền
Giang đến năm 2020.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu, cơ cấu kinh tế
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện một chức năng của
chỉnh thể [36, tr.223].
Từ “cơ cấu” tương đương với từ “structure” hay “construction”. Nhưng chính
xác hơn “structure” tương ứng với thuật ngữ “cấu trúc” của Việt Nam và thực sự có
ý nghĩa rộng hơn thuật ngữ cơ cấu. Cấu trúc là một khái niệm nó

i về kết cấu bên
trong của một đối tượng nào đó, kể cả số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu
thành như định nghĩa của thuật ngữ cơ cấu mà còn bao hàm cả mối quan hệ giữa
các bộ phận cấu thành đó. Thuật ngữ “cơ cấu” trong nghiên cứu về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế cần đư
ợc hiểu như nội dung của thuật ngữ “cấu trúc” [3, tr.149]
Cơ cấu là một phạm trù triết học thể hiện cấu trúc bên trong cũng như tỉ lệ và
mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành một hệ thống. Cơ cấu là thuộc tính của một
hệ thống nhất định. Nền kinh tế của một quốc gia được xem xét như một hệ thống
với nhiều bộ phận hợp thành. Các bộ phận này có qua
n hệ mật thiết với nhau theo
một trật tự nào đó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Nói một cách đơn giản, có thể
coi đó là bộ khung của khái niệm cơ cấu kinh tế [37, tr.201]
Cơ cấu kinh tế (CCKT) là tổng thể các ngành, lĩnh vực, các bộ phận kinh tế
có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thà
nh [19, tr.16].
CCKT là vấn đề có nội dung rộng, biểu hiện mối quan hệ giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Mối quan hệ đó không chỉ là những
quan hệ riêng lẻ của từng bộ phận cấu thành nền kinh tế (bao gồm các yếu tố kinh
tế, các lĩnh vực tổ chức sản xuất phân phối trao đổi tiêu dùng), các khu vực
kinh tế
(nông thôn, thành thị), thành phần kinh tế (nhà nước, cá thể, tư nhân, vốn đầu tư
nước ngoài…). Hiểu một cách đầy đủ, CCKT là tổng thể một hệ thống kinh tế bao
gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau trong không gian
và thời gian nhất định, phù hợp với mục tiêu đã xác định của nền kinh tế [44].
CCKT là một hệ thống ràng buộc, có các đặc trưng chủ yếu là mang tính
khách quan và tính lịch sử. Đồng thời, CCKT là một hệ thống động, gắn với sự
biến đổi và phát triển không ngừng của các yếu tố, các bộ phận cấu thành. Muốn
phát huy tác dụng, CCKT phải trải qua một quá trình, một thời gian nhất định.
Thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào đặc điểm của từng loại CCKT. Vì thế, các

loại cơ cấu thường không tồn tại một cách cố định bất b
iến mà có sự thay đổi,
chuyển dịch cần thiết, phù hợp với biến động và thay đổi của điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử.
CCKT không chỉ quy định về số lượng và tỉ lệ giữa các yếu tố cấu thành, biểu
hiện về lượng (là sự tăng trưởng của hệ thống), mà còn thể hiện những mối quan hệ
cơ cấu giữa các yếu tố, biểu hiện về chất (là sự phát triển của hệ thống). Mối qua
n
hệ giữa lượng và chất trong cơ cấu của nền kinh tế thực chất là những biểu hiện về
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đó. Nền ki
nh tế chỉ có thể ổn định và tăng
trưởng bền vững khi có cơ cấu cân đối, hợp lí. Như vậy, nghiên cứu CCKT nhằm
nhận biết cấu trúc của nền kinh tế và phát hiện xu hướng vận động của nền kinh tế
theo từng thời kỳ để có những tác động cần thiết, thúc đẩy các xu hướng tích cực
hay hạn chế những tiêu cực, tiến tới đạt các mục tiêu định trước. N
ghiên cứu CCKT
có ý nghĩa rất lớn đối với thực tiễn phát triển kinh tế trong từng thời kỳ phát triển
KT - XH của đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: nền kinh tế quốc dân có
một cơ cấu kinh tế hợp lí là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành, các vùng, các thành
phần, các loại hình sản xuất có qui mô và trình độ kĩ thuật khác nhau phải được bố
trí cân đối, liên kết với
nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, bảo đảm cho nền kinh
tế phát triển ổn định.
Theo tác giả luận văn, CCKT là tổng thể những mối liên hệ giữa các bộ phận
hợp thành nền kinh tế gồm các ngành sản xuất, các thành phần kinh tế, các vùng
kinh tế. CCKT là một hệ thống động, biến đổi không ngừng nhằm đạt hiệu quả cao
về mặt kinh tế xã hội và môi trường tr
ong những điều kiện cụ thể của đất nước, phù
hợp với mục tiêu đã xác định của nền kinh tế.


1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ và cơ cấu
thành phần kinh tế
1.1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành là quan hệ gắn bó với nhau theo những tỉ lệ nhất định giữa các
ngành sản xuất, trong nội bộ nền kinh tế quốc dân cũng như giữa các ngành nghề
và các doanh nghiệp trong các ngành [19, tr.18]. Cơ cấu ngành là bộ phận then
chốt trong CCKT, vì cơ cấu ngà
nh quyết định trạng thái chung và tỉ lệ đầu vào,
đầu ra của nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, về cơ bản hệ thống phân ngành kinh tế được sử dụng trên thế giới là
hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts - SNA) được áp dụng
đối với nền kinh tế thị trường. Trước đây còn có hệ thống sản xuất vật chất
(Material Production System - MPS) được áp dụng đối với nền kinh tế kế hoạch
hóa
tập trung.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, nền kinh tế thường được phân thành ba
nhóm ngành (hay khu vực) là: Khu vực I (KVI) gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản (đối với nhiều nước khác là các ngành khai thác trực tiếp tài nguyên thiên
nhiên); Khu vực II (KVII) gồm công nghiệp và xây dựng (đối với nhiều nước khác
là các ngành chế biến); Khu vực III (KVIII) là dịch vụ.
Ba khu vực này bao gồm 21 ngành cấp 1. Các ngành cấp 1 lại đuợc chia nhỏ
thành các ngành cấp 2. Các ngà
nh cấp 2 lại được phân nhỏ thành các ngành sản
phẩm [3, tr.150]. Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức độ gộp hay chi
tiết hóa đến chừng nào mà có được tập hợp các ngành tương ứng. Đối với nước ta,
theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, nền kinh tế nước ta được chia thành
21 ngành kinh tế cấp 1; 88 ngành kinh tế cấp 2; 242 ngành kinh tế cấp 3; 437 ngà

nh
kinh tế cấp 4 và 642 ngành kinh tế cấp 5.
Theo quan điểm hiện nay của nước ta, các ngành cấu thành KVI gồm có nông,
lâm nghiệp và thủy sản. Đến lượt mình, nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi
và dịch vụ nông nghiệp; còn lâm nghiệp có trồng, chăm sóc rừng và khai thác lâm
sản; thủy sản có đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. KVII là công nghiệp và xây
dựng; công nghiệp lại bao gồm nhiều phân ngành thuộc ba nhóm: công nghiệp khai
thác mỏ; công nghiệp chế biến; sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. KVIII
là tập hợp của nhiều ngành và hoạt động liên quan đến dịch vụ với đặc điểm chung
là các sản phẩm tạo ra không tồn tại dưới hình thái vật thể bao gồm: kh
ách sạn và
nhà hàng; vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; tài chính, tín dụng; hoạt động khoa
học và công nghệ; các hoạt động liên quan tới kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn;
giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động cứu trợ xã hội; hoạt động văn hóa, thể
thao;…
Đối với nền kinh tế quốc dân chuyển dịch cơ cấu ngành có nghĩa là sự vận
động và biến đổi của các ngành kinh tế thuộc khu vực I, II, III theo chiều hướng
tăng tỉ lệ các ngành khu vực II và III, giảm tỉ lệ các ngành khu vực I trong cơ cấu
tổng sản phẩm q
uốc nội (GDP).
1.1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế gắn với các loại hình sở hữu nhất định về tư liệu
sản xuất. Tùy theo phương thức sản xuất mà có các thành phần kinh tế chiếm địa vị
chi phối ha
y chủ đạo và các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại [19, tr.24].
Nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gồm kinh
tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước (tập thể, tư nhân, các thể) và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế được xác định với vai trò khác nhau,
trong đó lấy kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nền tảng.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng

kinh tế. Thành phần kinh tế nà
y bao trùm các ngành kinh tế then chốt gắn liền với
việc quản lí tài nguyên của đất nước, với an ninh quốc phòng và các lĩnh vực quan
trọng khác.
Kinh tế tập thể có ý nghĩa quan trọng với nhiều hình thức tổ chức trên cơ sở
tham gia tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng có lợi.
Kinh tế cá thể với tiềm năng to lớn có vai trò quan trọng, lâu dài đối với việc
phát triển KT – X
H của nước ta.
Kinh tế tư bản tư nhân đang có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế với
tiềm lực về vốn, kĩ thuật, công nghệ, quản lí và thị trường.
Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn với hình thức liên doanh giữa nhà
nước với tư bản trong và ngoài nước.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh trong những năm gần đây
hướng vào việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, công nghệ cao.
1.1.
2.3. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ (vùng kinh tế) phản ánh sự phân công lao động xã
hội về mặt không gian địa lí. Thực chất của việc phân chia này là để làm cơ sở cho
hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch phát triển, thực thi chính sách sát thực và
phù hợp với đặc điểm của từng vùng nhằm đạt hiệu quả cao trên từng vùng và toàn
lãnh thổ.
Cơ cấu lãnh t
hổ là tương quan tỉ lệ giữa các vùng trong phạm vi quốc gia được
sắp xếp một cách tự phát hay tự giác có chủ định. Trong một quốc gia có nhiều
vùng lãnh thổ, các vùng này phải được bố trí, quan hệ với nhau theo một tỉ lệ nào đó
để tạo điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng nói riêng và của cả nước nói
chung.
CCKT theo lãnh thổ là chỉnh thể liên
kết các ngành sản xuất trong một vùng

theo một cấu trúc hợp lí, mà nhờ đó có thể tạo ra khả năng tăng trưởng kinh tế trong
quá trình vận hành nó.
CCKT theo ngành, theo thành phần và theo lãnh thổ là sự biểu hiện về bản
chất ở những khía cạnh khác nhau của một nền kinh tế, giữa chúng có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau, trong đó cơ cấu theo ngành giữ vai trò chủ đạo trong
toàn bộ quá trình phát triển, cơ cấu theo thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng
để thực hiện cơ cấu ngành và cơ cấu theo lãnh thổ là cơ sở cho các ngành, các
thành phần kinh tế phân bố hợp l
í các nguồn lực, tạo sự phát triển đồng bộ, cân đối
và đạt hiệu quả cao giữa các ngành và giữa các thành phần kinh tế của một nền
kinh tế.


1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành cơ cấu kinh tế
Có nhiều nhân tố tác động đến việc hình thành cơ cấu kinh tế. Tựu chung lại,
có thể chia thành hai nhóm nhân tố chính sau:
Nhóm nhân tố trong nước
Thị trường và nhu cầu tiêu dùng trong nước là nhân tố có ý nghĩa quan trọng
đối với việc hình thành CCKT. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến phân công lao
động xã hội cũng như qui mô, tỉ trọng của các ngành trong cơ cấu nền kinh tế.
Trình độ phát triển của sức sản xuất góp phần phá vỡ thế cân đối cũ để tạo nê
n
CCKT mới với sự thay đổi về tương quan giữa các bộ phận hợp thành, nhằm thích
hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới.
Đường lối, chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể có vai trò
quan trọng hàng đầu đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế.
Nguồn lực
trong nước là tiền đề vật chất để hình thành CCKT. Tuy nhiên,
nguồn lực này chỉ được phát huy mạnh mẽ thông qua sự tác động của một số nhân
tố khác.

Nhóm nhân tố bên ngoài
Xu thế chính trị của khu vực và thế giới ảnh hưởng nhiều tới việc hình thành
CCKT ở mỗi quốc gia. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Vì vậy,
những biến động về chính trị ít nhiều sẽ dẫn đến những thay đổi về kinh tế.
Xu thế to
àn cầu hóa, khu vực hóa tạo nên thế phát triển đan xen, hợp tác và cả
cạnh tranh trong sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Điều đó dĩ nhiên có tác
động đến CCKT của từng quốc gia.
Các tiến bộ về khoa học công nghệ, nhất là sự bùng nổ thông tin cũng có ảnh
hưởng nhất định, góp phần thúc đẩy CC
KT hình thành và phát triển.
1.1.4. Một số chỉ tiêu cơ bản để xem xét và đánh giá cơ cấu kinh tế
Việc xem xét cơ cấu nền kinh tế quốc dân có rất nhiều chỉ tiêu kinh tế khác
nhau. Hiện nay, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây để xem xét cơ cấu kinh
tế: chỉ tiêu GDP, chỉ tiêu lao động, chỉ tiêu giá trị sản xuất và chỉ tiêu về trang bị kĩ
thuật. Đối với các quốc gia mới ch
uyển sang cơ chế thị trường như nước ta, lực
lượng sản xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao, với chính sách kinh tế
mở, từng bước đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới,
cần xem xét thêm cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu tỉ trọng giá trị tổng sản lượng nội bộ
trong từng ngành.
Trong số các chỉ tiêu trên, đáng chú ý hơn cả là tỉ lệ người lao động giữa các
ngành, các khu vực kinh tế - nhất là tỉ lệ người lao động trong nông nghiệp so với
các ngành nghề khác và cơ cấu các khu vực, các ngà
nh kinh tế quan trọng, các
thành phần và vùng kinh tế trong GDP. Các số liệu thống kê kinh tế của thế giới đều
chỉ rõ rằng các chỉ tiêu trên rất khác nhau giữa các nhóm nước. Ở các nước công
nghiệp hóa có nền kinh tế phát triển cao, số người lao động trong KVI rất thấp, tỉ lệ
KVI trong cơ cấu GDP không đáng kể, KVII và KVIII thường chiếm vị trí quan
trọng. Ngược lại, ở những nước đang phát triển có nền kinh tế lạc hậu t

hì tỉ lệ lao
động KVI khá cao và KVII đang dần chiếm vị trí quan trọng trong CCKT.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi CCKT từ trạng thái này sang trạng
thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển. Về thực chất, đó là sự điều chỉnh
cơ cấu trên ba mặt biểu hiện (ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế) nhằm hướng sự
phát triển của cả nền kinh tế vào các chiến lược KT - XH đã được đề ra cho từng
thời kỳ cụ thể [37, tr.209].
CDCCKT ở nước ta thực chất là quá trình cải biến K
T - XH từ lạc hậu, mang
tính chất tự cấp, tự túc bước vào chuyên môn hóa hợp lý, trang bị kĩ thuật, công
nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh
cho nền kinh tế [4, tr.535]. Quá trình chuyển dịch này không chỉ diễn ra giữa các
ngành của nền kinh tế mà bắt đầu từ nội bộ của từng ngành t
heo những xu hướng
nhất định.
CDCCKT có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển KT - XH của mỗi quốc
gia. Nó giúp cho nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, vững chắc và mặt khác, có
khả năng hội nhập với khu vực và thế giới.
Theo tác giả, CDCCKT là sự điều chỉnh cơ cấu trên các mặt biểu hiện gồm cơ
cấu ngành, lãnh thổ và thành phần kinh tế nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội
và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế để đạt được những mục tiêu kinh tế xã
hội đã đề ra cho từng thời kỳ cụ thể.

1.2.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Mỗi cơ cấu kinh tế đều mang tính lịch sử và xã hội nhất định, nền kinh tế chỉ
phát triển khi những bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội xác lập được những

mối quan hệ cân đối. Sự tăng giảm tỉ trọng của các ngành kinh tế, thay đổi mối quan
hệ giữa các bộ phận hợp thà
nh nền kinh tế là tất yếu khách quan của quá trình phát
triển kinh tế. Vì thế, điều chỉnh CCKT tức là đưa nền kinh tế đến trạng thái phát
triển tối ưu nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất thông qua tác động điều khiển
có ý thức của con người đối với các quy luật khách quan.
CCKT hợp lí phải phản ánh sự tác động của các quy luật phát triển khách
quan, vai trò của yếu tố chủ qua
n là: thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những
quy luật đó để tìm ra những phương án thay đổi có hiệu lực cao nhất trong những
điều kiện cụ thể của nền kinh tế.
Như vậy, CCKT là một hệ thống động, luôn ở trong trạng thái vận động và
biến đổi không ngừng theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Sự vận động là thuộc t
ính tất yếu bên trong của mỗi hệ thống. Ở mỗi giai đoạn phù
hợp với trình độ phát triển nhất định của sản xuất, sẽ xuất hiện khả năng hình thành
một CCKT tương đối hợp lí ứng với giai đoạn đó. Nếu sự phát triển trong thực tế
tiến sát đến CCKT tương đối hợp lí ấy thì nền kinh tế sẽ phát triển t
huận lợi hơn và
trong trường hợp ngược lại nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, quá
trình CDCCKT để tạo nên sự hợp lí là một tất yếu khách quan.
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quá trình CDCCKT là một quá trình tích lũy về năng lượng, dẫn đến sự biến
đổi về chất của CCKT. CCKT chuyển dịch theo yêu cầu và phương hướng tiến bộ
hơn m
ang tính qui luật trong điều kiện cụ thể của bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực
hóa.
Về nguyên tắc, quá trình CDCCKT theo các hướng ngày một tiến bộ hơn,
hiện đại hơn, hiệu quả hơn và chúng biểu hiện cụ thể ở những điểm sau đây:
- Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP nền kinh tế tăng lên,

còn tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Tức là tỉ trọng các ngành có năng suất
lao động cao, chứa đựng hàm lượng công nghệ cao và chất xám cao ngày càng lớn
và các ngành có năng suất lao động thấp giảm đi trong toàn bộ lao động xã hội. Xu
hướng tăng, giảm này diễn ra càng nhanh càng tốt. Quá trình CDCCKT bắt đầu từ
sự chuyển dịch những ngành then chốt hay chủ lực có tính mũi nhọn.
- Trong nội bộ các ngành, tỉ trọng sản xuất hàng hóa tăng lên, làm cho độ mở
của nền kinh tế lớn lên. Độ mở của nền ki
nh tế càng lớn càng chứng tỏ nền kinh tế
hội nhập càng mạnh với bên ngoài. Bên cạnh mặt tích cực của xu hướng này cũng
phải chú ý đến vấn đề phụ thuộc lẫn nhau vào bên ngoài khi mở cửa lớn, khi hội
nhập sâu.
- Xu hướng chuyển dịch các thành phần ki
nh tế cũng diễn ra đồng thời theo
qui luật chung: tỉ trọng của bộ phận kinh tế ngoài nhà nước ngày càng tăng, tỉ trọng
của kinh tế nhà nước có thể giảm xuống một cách tương đối song vẫn phải giữ vững
vai trò đảm bảo an toàn cho toàn bộ nền kinh tế vì đó là điều cần thiết.
- CCKT chuyển dịch từ đơn giản đến phức tạp (tức là số ngà
nh, số sản phẩm
ngày càng nhiều; phạm vi liên kết ngày càng rộng: từ ít đến nhiều, từ trong nước ra
ngoài nước) và cũng tức là từ trạng thái có trình độ thấp sang trạng thái có trình độ
cao hơn (ý nói về trình độ công nghệ và qui mô, chất lượng sản xuất hàng hóa ngày
một cao) nhằm đem lại lợi ích lớn hơn như mong muốn của con người qua các thời
kỳ phát triển.
1.2.
4. Các nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CDCCKT phải xuất phát từ sự thay đổi của những ngành chủ lực, đáp ứng yêu
cầu ngày càng tăng về qui mô, chất lượng, khả năng cạnh tranh và phát triển bền
vững trên cơ sở phát huy có hiệu quả các lợi thế so sánh có tính tới điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa và tiến bộ khoa học công nghệ.
CDCCKT phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và qua

n hệ
sản xuất, phải đảm bảo hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài; hài hòa giữa hiệu
quả cục bộ và hiệu quả toàn bộ cũng như phải đem lại lợi ích cho nhiều người, cho
xã hội.
CDCCKT có thể diễn ra một cách tuần tự và cũng có thể diễn ra một cách đột
biến hay nhảy vọt tùy theo điều kiện cụ thể.
1.2.5. Các nhân tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố. Dưới đây có thể
nêu những nhân tố cơ bản tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Nhu cầu của c
on người thay đổi và tăng lên không ngừng
Nhu cầu của con người phụ thuộc trước hết vào số người, đặc điểm tiêu dùng
của họ. Các điều kiện cư trú của con người quyết định tính chất và qui mô nhu cầu
tiêu dùng, điều kiện sinh sống. Trong quá trình phát triển không những số người
tăng lên mà nhu cầu của từng con người cũng tăng lê
n và ngày càng đa dạng hơn.
Sự thay đổi về số người, nhu cầu của họ ảnh hưởng lớn đến qui mô sản xuất, cơ cấu
sản xuất, chất lượng sản phẩm và nói một cách tổng quát là chúng ảnh hưởng đến
CCKT và CDCCKT. Nhu cầu của con người tăng lên cũng như thay đổi cả về qui
mô, chủng loại, chất lượng. Chính những điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến CCK
T
của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như đối với nền kinh tế toàn thế giới. Ngay trong
một quốc gia nhu cầu của người dân ở mỗi tỉnh mỗi khác. Đối với Việt Nam điều
này thể hiện rất rõ. Thậm chí ngay trong một vùng nhu cầu của người dân ở khu vực
đô thị khác với nhu cầu của người dân ở khu vực nông thôn; hay nhu cầu của người
dân sống gần thành phố khác so với những người sống xa thành phố. Tất cả những
điều đó tác động mạnh đến sự hì
nh thành và phát triển CCKT của mỗi tỉnh cũng
như của cả nước.
Tiến bộ khoa học công nghệ thay đổi như vũ bão

Thực tế chỉ ra rằng tiến bộ khoa học công nghệ cũng như tác động cải tiến
công nghệ tác động trực tiếp và có tính quyết định đến hì
nh thành và phát triển
CCKT. Tiến bộ khoa học công nghệ làm thay đổi tận gốc các thành phần tạo nên
CCKT. Trước hết điều đó thể hện ở mỗi khi khoa học công nghệ tiến bộ, nó làm
cho qui mô, chất lượng phát triển các ngành thay đổi và dẫn tới CCKT thay đổi. Khi
có tiến bộ khoa học công nghệ, các lãnh thổ có thể được kéo lại gần nhau, đư
ợc lôi
cuốn tham gia vào các quá trình sản xuất của nền kinh tế. Theo dự báo của các
chiến lược gia trong những năm tới dù bất cứ nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp
hay cao cũng đều phải chú ý những hướng vào một trong những ngành như công
nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, gien và vật liệu mới, công nghệ thông tin,... Vai
trò của từng loại công nghệ mũi nhọn đối với từng nền kinh tế và từng thời kỳ phát
triển rất khác nhau. Đối với những nước đang phát triển hay phát triển đang còn ở
trình độ thấp thì công nghệ sinh học, công nghệ điện tử - tin học g
iữ vai trò quan
trọng hơn cả.
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, liên kết, liên minh trở thành hiện
tượng phổ biến và có tính chủ đạo. Tự do hóa thương mại trở thành điều kiện
quan trọng cho phát triển
Ngày xưa khi nói đến toàn cầu hóa người ta không thể không nói đến chuỗi
giá trị toàn cầu với ý nghĩa các quốc gia tham gia chủ động và tích cực vào các quá
trình sản xuất tạo ra của cải xã hội cho nhâ
n loại trong điều kiện toàn cầu hóa, khu
vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình này các nước liên kết với nhau
theo nguyên tắc phân công lao động xã hội toàn cầu trên cơ sở thế mạnh của mỗi
nước có tính tới yêu cầu cạnh tranh quốc gia. Đối với Việt Nam khi xác định cơ cấu
kinh tế các tỉnh cũng phải tính tới điều kiện toàn cầu hóa, khu vực hóa, liên kết, liên
minh quốc tế và liên vùng nga
y trong nước. Các tỉnh kề cận thành phố phải tính tới

liên kết với thành phố và các tỉnh khác để lựa chọn cơ cấu kinh tế cho bản thân.
Doanh nghiệp và sự phát triển không ngừng của doanh nghiệp
Đối với mọi quá trình phát triển của bất kỳ nền kinh tế nào doanh nghiệp cũng
là tế bào cực kỳ quan trọng. Doanh nghiệp tạo việc làm, tạo ra sản phẩm đáp ứng
cho nhu cầu xã hội, tạo ra GD
P, tạo nguồn thu thuế cho nhà nước, đóng góp phúc
lợi cho xã hội, góp phần làm tiến bộ xã hội cũng như quyết định sức cạnh tranh của
quốc gia trên thế giới. Vì thế, doanh nghiệp xuất hiện mới càng nhiều và hoạt động
có hiệu quả càng tốt cho hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế. Trong quá trình
phát triển của nền kinh tế rất cần có những tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp mạnh và
làm ăn có hiệu quả mới có đư
ợc cơ cấu kinh tế tốt.
Đường lối phát triển cùng với cơ chế, chính sách có ý nghĩa động lực đối
với sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự ổn định, tính minh bạch của thể chế kinh tế, sự đồng bộ của các cơ chế,
chính sách (nhất là đối với chính sách tài nguyên và chính sách đầu tư) có ý nghĩa to
lớn. Khuôn khổ pháp lý, cơ chế chính sách, nhất là về quản lý kinh tế ảnh hưởng
trực tiếp đến việc xác định, hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế.
1.3. Một vài mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
Trên thế giới tồn tại nhiều m
ô hình CDCCKT, trong đó có thể nêu ba mô hình
chính như sau:
Mô hình chuyển dịch hướng nội
Đây là mô hình nghiêng về sự đóng cửa của nền kinh tế, khuyến khích sản
xuất cho thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu. Với mục tiêu phát huy tính chủ
động, đảm bảo sự phát triển của các ngành truyền thống trong nước, một số quốc
gia đã lựa chọn CDCCKT theo mô hình này. Tuy vậy, mô hình này tạo ra ít sức ép
cạnh tranh do hà
ng hóa trong nước được bảo hộ bằng hàng rào thuế quan, cơ cấu
sản xuất thiếu tính năng động.

Trong những năm 1950 – 1970, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia và một số
nước Đông Á khác đã áp dụng mô hình bằng cách thực hiện các hàng rào bảo hộ
nghiêm ngặt, giảm tối đa nhập khẩu. Chiến lược này trong thới gian đầu tỏ ra hiệu
quả, mang lại thành công cho một số ngành song sự thành công này không được lâu
bền. D
o áp dụng mạnh các chính sách bảo hộ nên sản xuất sớm rơi vào tình trạng trì
trệ, kém hiệu quả.
Mô hình chuyển dịch hướng ngoại
Đây là mô hình với xu thế đưa nền kinh tế phát triển theo hướng thiên về mở
cửa có khả năng thúc đẩy thương mại cùng với các nguồn đầu tư từ bên ngoài vào,
thu được nhiều lợi nhuận thông qua sản xuất hàng xuất khẩu.
Ưu điểm ch
ính của mô hình là thúc đẩy quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế
cũng như năng suất lao động xã hội và tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế.
Dẫu sao, việc mở cửa cũng có những hạn chế tương đối như tính tự chủ của nền
kinh tế, khả năng phát triển công nghệ trong nước do nhập khẩu tư liệu sản xuất,
công nghệ và những rủi ro có thể xảy ra trên thị trường quốc tế.
Từ những năm 1980, những nước và vùng lãnh thổ đặc biệt xuất sắc như Hàn
Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông đã theo đuổi mô hình này và đạt được kết
quả thần kì trong tăng trưởng và CDCCKT. Tuy nhiên do phụ thuộc nhiều vào biến
động của thị trường thế giới làm cho việc áp dụng mô hình này không còn thuận lợi
như những thập niên qua.
Mô hình chuyển dịch theo hướng kết hợp nội lực với n
goại lực
Đây là mô hình tương đối phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Trong mô hình
này có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước với
việc mở rộng quan hệ với bên ngoài để xây dựng một nền kinh tế năng động. Một
trong những nét đặc trưng của mô hình là tập trung vào công nghiệp hóa cùng với
sự phát triển cân đối của ngành. Tuy nhiên,
mô hình cũng không chủ trương phát

triển một ngành duy nhất nhằm có thể đối phó linh hoạt với những biến động bất
thường và dễ dàng hội nhập với thế giới.
1.4. Vài nét về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Đối với nước ta, CDCCKT có vai trò đặc biệt quan trọng và trở thành một
trong những giải pháp hàng đầu nhằm thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH.
Kể từ khi đất nước bước và
o công cuộc đổi mới, nền kinh tế có những thay đổi
cơ bản cả về sự phát triển cũng như về chuyển dịch cơ cấu. Các xu hướng
CDCCKT đã và đang diễn ra đều mang tính quy luật và tiến bộ. Trước đây, ở Việt
Nam đã diễn ra các xu hướng chuyển dịch như sau:
- Xu hướng CDCCKT từ tự cấp, tự túc trông cậy vào nông nghiệp sang sản
xuất hà
ng hóa. Đây là xu hướng tích cực trên cơ sở phát triển sức sản xuất và sự
phân hóa phân công lao động xã hội.
- Xu hướng CDCCKT nhằm làm giảm tỉ trọng của KVI, tăng tỉ trọng của
KVII và KVIII. Trong quá trình chuyển dịch, giá trị tuyệt đối của cả ba khu vực đều
tăng, song tỉ trọng giữa chúng lại thay đổi nghiêng về KVII và KVIII.
- Xu hướng chuyển dịch nền kinh tế khép kín với cơ chế bao cấp sang nền
kinh tế mở theo cơ chế thị trường. Với xu hướng nà
y, nền kinh tế của nước ta có
khả năng hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới.
- Xu hướng chuyển nền kinh tế với công nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, chất
lượng sản phẩm kém sang nền kinh tế có công nghiệp tiên tiến, năng suất và chất
lượng sản phẩm cao, đủ sức đứng vững trên thị trường trong nước và quốc tế.
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đến năm 2007, tỉ trọng trong GDP của KVI giảm xuống còn 20,3%; KVII
tăng lên 41,6%; KVIII giảm còn 38,1% [33, tr.72]. Sự tăng trưởng nha
nh của các
ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo nên sự thay đổi đáng kể CCKT.
Bước đầu đã hình thành được một số ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho

phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản phẩm thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp
ráp ô tô xe máy…

Biểu đồ 1.1: Cơ cấu GDP Việt Nam phân theo khu vực kinh tế
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể theo hướng công
nghiệp hóa, từng bước hiện đại hóa, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản
phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu
sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công
nghiệp c
hế biến trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã bước đầu
khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao
chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Cơ cấu khu vực dịch vụ có những chuyển hướng tích cực. Các ngành dịch vụ
truyền thống như thương nghiệp, vận tải, bưu chính - viễn thông, khách sạn, nhà

hàng phát triển khá. Đặc biệt, một số ngành dịch vụ có tỉ lệ chi phí trung gian thấp
như ngân hàng, bảo hiểm… đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng
thêm của ngành dịch vụ tăng cao.


1.4.2. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước có xu hướng giảm tỉ trọng từ 40,2% năm 1995 xuống 36,4%
GDP vào năm 2007 [33, tr.76]. Kinh tế nhà nước mà trước hết là doanh nghiệp nhà
nước tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3,
khóa IX, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh
vực chủ yếu của nền kinh tế. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại hoạt động có
hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực v
à chủ động trong các hoạt động kinh
tế - xã hội.
Kinh tế ngoài nhà nước, nhất là kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển nhanh với

nhiều hình thức đa dạng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX. Kinh tế
ngoài nhà nước năm 2007 chiếm 45,9% GDP.
Việc chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ sang loại hình hợp tác xã theo Luật Hợp
tác xã đã bước đầu tăng hiệu quả sản xuất, kinh doa
nh của khu vực kinh tế tập thể.
Đã xuất hiện các mô hình hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên
ngành làm ăn có hiệu quả với việc mở rộng sản xuất và ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ, góp phần đảm bảo việc làm ổn định và thu nhập cho khoảng 14 triệu xã
viên và người lao động. Năm 2007, kinh tế tập thể đóng góp 6,2% GDP.
Kinh tế tư nhâ
n, cá thể phát triển trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản,
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, góp phần quan trọng vào
các thành tựu kinh tế - xã hội. Hệ thống chợ nông thôn, chợ bán buôn, bán lẻ, các
làng nghề, các ngành công nghiệp được hỗ trợ phát triển ở nhiều vùng. Việc ban
hành Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển kinh tế tư nhân và việc thực hiện c
ó
hiệu quả Luật Doanh nghiệp đã tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư
nhân. Số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn 2001-2005 vào khoảng
146.000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 306.000 tỷ đồng, tăng 2,6 lần về số
doanh nghiệp và hơn 7,7 lần về số vốn đăng kí so với 10 năm trước đó. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế của thà
nh phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế hiện đang dẫn đầu,
tăng 12,6%/năm. Năm 2007, khu vực kinh tế tư nhân, cá thể đóng góp 39,7% GDP,
giảm so với tỉ trọng năm 1995 là 43,4%.
Kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục có bước phát triển khá, tạo
thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, thực sự trở thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Với việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao (9,9%/năm), tỉ trọng
đóng góp của khu vực này trong GDP tăng từ 6,3% năm 1995 tăng lên 17,7% vào
năm 2007, góp phần quan trọng việc thúc đẩy phát triển và CDCCKT, giải quyết
việc làm và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

Kết quả cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu thành phần ki
nh tế trong thời
gian qua có ý nghĩa rất tích cực trong việc huy động tiềm năng các thành phần kinh
tế, khơi dậy tính sáng tạo và tạo động lực mới cho phát triển và hội nhập quốc tế.
Nguồn lực phát triển của các thành phần kinh tế đã đư
ợc huy động và sử dụng có
hiệu quả hơn.
1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã khai thác tốt hơn thế mạnh về đất và
rừng, bước đầu phát huy để phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia
súc và kinh tế trang trại. Công nghiệp của vùng đã có bước phát triển phù hợp với
điều kiện của vùng như chế biến lâm sản, vật liệu xâ
y dựng; phát triển thủy điện,
nhiệt điện than, công nghiệp luyện kim, chế tạo cơ khí… CCKT trong vùng đã có
sự dịch chuyển tích cực. Tuy nhiên, tỉ trọng của vùng so với cả nước hiện khá thấp,
chỉ chiếm 6% GDP [14, tr.26].
Vùng đồng bằng sông Hồng đã hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối
đồng bộ, bước đầu phát triển một số ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao,
nông nghiệp cao sản và chất lượng cao; du lịch và dịch vụ đa dạng. CC
KT trong
vùng đã có sự dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa với tỉ trọng các ngành phi
nông nghiệp chiếm 83,8%. Tỉ trọng GDP của vùng hiện đứng thứ hai cả nước (sau
Đông Nam Bộ) chiếm 22,5%.
Vùng Duyên hải miền Trung đã chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát
huy lợi thế vùng ven biển, hải đảo. N
hiều khu kinh tế, khu, cụm công nghiệp bắt
đầu được xây dựng và từng bước phát huy hiệu quả; du lịch bước đầu được phát
triển; chuyển đổi cây trồng, mùa vụ, vật nuôi phù hợp, giảm thiểu tác động xấu của
thiên tai… GDP của vùng hiện bằng 14,5% của cả nước; CCKT trong vùng có sự
chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp khá rõ nét.

Vùng Tây Nguyên đang triển khai phát triển thủy điện; xây dựng các cụm
công nghiệp chế biến, nhất là chế biến các sản phẩm từ nguyên liệu nông lâm sản;
phát triển mạnh kinh tế trang trại; cơ cấu lại cây trồng, phát triển chăn nuôi. CCKT
đã có sự chuyển dịch tích cực, đã từng bước chú trọng phát triển ngành dịch vụ.
Đây là vùng kinh tế còn nhiều khó khăn, với tỉ trọng GD
P thấp nhất của cả nước,
chỉ chiếm 2,8%.
Vùng Đông Nam Bộ đã phát huy những lợi thế của vùng trọng điểm và kết
cấu hạ tầng để phát triển mạnh các khu công nghiệp, khu công nghệ cao và phát
triển đô thị. CCKT trong vùng đã có sự dịch chuyển tích cực, các ngành phi nông
nghiệp chiếm tỉ trọng cao lên đến 95,
2% GDP, trong đó, ngành công nghiệp tăng
nhanh theo hướng CNH, HĐH từ 47,9% năm 1995 lên 60,2% năm 2005. Đây là
vùng có đóng góp lớn nhất vào nền kinh tế nước ta hiện nay với tỉ trọng GDP cao
nhất của cả nước chiếm tới 36,9%.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã triển khai cơ cấu sản xuất trong toàn
vùng, chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ để tăng nhanh thu nhập
trên một đơn vị đất c
anh tác. Việc phát triển ngành thủy sản, nhất là nuôi trồng và
chế biến thủy sản xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
và CDCCKT, nâng cao hiệu quả đầu tư và thu nhập của nhân dân. Tỉ trọng GDP
của vùng hiện bằng 17,3%, đứng thứ ba cả nước.
1.4.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động
Năm 2007, tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế vào khoảng 44,
1 triệu
người; trong đó 23,7 triệu người làm việc trong KVI; 8,3 triệu người làm việc trong
KVII và 12,1 triệu người làm việc trong KVIII [33, tr.51].

Biểu đồ 1.2: Cơ cấu lao động đang làm việc của Việt Nam phân theo khu vực kinh tế

×