BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT
BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH THỜI KÌ 1997 - 2007:
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Địa lí kinh tế - xã hội
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
THƯ
VIỆN
Lời cảm ơn
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thò
Xuân Thọ - Trưởng khoa Đòa lí trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tận tình
hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng KHCN và SĐH, Khoa
Đòa lí trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Thống kê Tp. Hồ Chí Minh, Viện
Nghiên cứu phát triển kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Chi cục Dân số kế hoạch hóa gia đình
Tp. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho tác giả nhiều nguồn tư liệu, tài liệu quý giá và hữu ích
để tác giả nghiên cứu phục vụ cho đề tài.
Cuối cùng, tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2010.
Tác giả luận văn
Phạm Thò Bạch Tuyết
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH : Công nghiệp hóa
CSHT : Cơ sở hạ tầng
DS – KHHGĐ : Dân số - kế hoạch hóa gia đình
DHNTB : Duyên hải Nam Trung Bộ
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐTH : Đô thị hóa
GDP : Tổng sản phẩm quốc dân
KCN : Khu công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TNGT : Tai nạn giao thông
VKTTĐPN : Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Địa lí dân cư là một ngành khoa học thuộc hệ thống của khoa học địa lí. Đối tượng của địa
lí dân cư là nghiên cứu tính quy luật và những đặc điểm phát triển về dân cư theo lãnh thổ (gia
tăng dân số, quy mô, mật độ, động lực, phân bố dân cư…) nhằm góp phần giải quyết những
nhiệm vụ kinh tế, trong phân công lao động, sử dụng hợp lí nguồn nhân lực, đáp ứng những nhu
cầu sản xuất và tiêu thụ trên các địa bàn với những khác biệt về dân số từng vùng.
Hiện nay, quy m
ô dân số thế giới đang ở mức cao và có sự khác nhau về gia tăng dân số
giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển, đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết, ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của hai nhóm nước này. Phát triển dân số là một trong
những yếu tố quan trọng tác động đến quá trình phát triển kinh tế. Trong điều kiện hiện nay,
giải quyết vấn đề gia tăng dân số là một yếu tố quan trọng trong những giải pháp để phát triển
kinh tế, vừa có tính cấp bách vừa là vấn đề phải giải quyết lâu dài cùng với tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội của các nước.
Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố lớn nhất cả nước về quy m
ô dân số và tiềm lực kinh
tế, là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kĩ thuật, trung tâm công nghiệp, đầu mối
giao thông vận tải và giao dịch quốc tế lớn nhất Việt Nam. Thành phố đang trong quá trình đô
thị hóa mạnh mẽ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước. Trong thời gian qua, dân số TP.
HCM gia tăng nhanh chóng, trong đó chủ yếu do gia tăng dân số cơ học. Người nhập cư tự do
từ các vùng, các khu vực khác nhau của cả nước đổ về thành phố để học tập, lao động, sinh
sống... Sự gia tăng nhanh chóng dân cư vào đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế -
xã hội TP. HCM, đặt ra nhiều vấn đề giải quyết.
Tác
giả chọn đề tài: “Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007:
nguyên nhân và giải pháp”. Nghiên cứu biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 - 2007 nhằm
rút ra những kết luận có ý nghĩa lí luận và thực tiễn về sự biến động dâ
n số của thành phố, qua
đó tìm hiểu những nét khái quát về các đô thị lớn của Việt Nam. Luận văn cũng nhằm tìm hiểu
nguyên nhân của biến động dân số và tác động của nó đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM.
Từ đó rút ra cơ sở khoa học nhằm đề ra phương hướng, giải pháp về gia tăng dân số, phân bố
dân cư phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa của thành phố, g
iảm bớt áp lực về dân
số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt góp phần điều chỉnh mức di dân tự do vào TP.
HCM hợp lí. Gia tăng dân số phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa là một yếu tố
quan trọng nhằm góp phần để kinh tế - xã hội TP. HCM phát triển và hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài
2.1 Mục tiêu đề tài
Tìm hiểu thực trạng biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 – 2007 và những nguyên
nhân sự biến động đó. Đánh giá những ảnh hưởng biến động dân số đến phát triển kinh tế - xã
hội TP. HCM. Trên cơ sở biến động dân cư đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục
những hạn chế trong quá trình gia tăng dân số thành phố, phục vụ sự phát triển CNH, ĐTH của
thành phố hiện tại cũng như tương lai.
2.2 Nhiệm vụ đề tà
i
Thu thập số liệu thống kê, thông tin và nguồn tư liệu về biến động dân số và sự phát triển
kinh tế - xã hội của TP. HCM.
Phân tích, tổng hợp thông tin, số liệu về tốc độ gia tăng dân số của TP. HCM trong giai đoạn
1997 - 2007. Đánh giá nguyên nhân và tác động của biến động dân số ở TP. HCM.
Tì
m hiểu các định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó dự báo sự gia tăng dân số,
phân tích các khó khăn, hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp phát triển và phân bố dân cư
thành phố hợp lí hơn trong thời gian tới.
2.3 Phạm vi nghiên cứu đề tài
2.3.1 Về không gian
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 - 2007 bao gồm
gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học. Đặc biệt chú ý đến sự biến động dân số các quận nội thành
cũ, quận đô thị hóa mới và các huyện ngoại thành trong thời gian gần đây. Phân tích nguyên nhân
và đánh giá những ảnh hưởng của gia tăng dân số đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM.
2.3.2 Về thời gian
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích biến động dân số TP. HCM trong thời kì đổi mới
nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn 1997 - 2007. Đây là thời kì mở cửa nền kinh tế, TP. HCM
có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, các ngành kinh tế phát triển sôi động, đa dạng nhiều ngành
nghề đã tạo lực hút mạnh mẽ đối với người lao động từ mọi miền đất nước đến TP. HCM, đẩy
nhanh quá
trình đô thị hóa, làm cho dân số thành phố gia tăng nhanh chóng. Đề tài cũng cập
nhật các số liệu mới bổ sung vào phần đánh giá của mình.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Biến động số dân có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự tăng lên hay
giảm đi của dân số (tăng giảm tự nhiên hay cơ học) đều ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, mật độ
dân số và lao động của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam. Vấn đề biến động dân số từ lâu đã t
hu hút được sự nghiên cứu của các nhà khoa học, đặc
biệt từ sau khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, gia tăng dân số diễn ra với tốc độ nhanh
chóng càng làm các nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm hơn.
Năm 1994 đề tài luận án TS của tác giả Nguyễn Kim Hồng về “Sự phát triển dân số và
mối quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã hội ở TP. HCM”. Đề tài phân tích sâu sắc sự phát
triển dân số của thành phố và xác định được những mối quan hệ thuận nghịch giữa sự phát triển
dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội ở TP. HCM. Đề tài cũng đã đưa ra nhiều phương hướng
giải quyết nhằm
phát triển dân số thành phố một cách hợp lí, phù hợp với sự phát triển kinh tế -
xã hội TP. HCM.
Luận án TS của tác giả Phạm Thị Xuân Thọ (2002) với đề tài: “Di dân ở TP. HCM và tác
động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đề tài đi sâu phân tí
ch đánh giá quá trình di
dân ở TP. HCM, bao gồm quá trình nhập cư ngoại tỉnh vào thành phố và quá trình di dân giữa
các quận huyện ở TP. HCM. Tác giả đã đánh giá nguyên nhân và phân tích ảnh hưởng của di
dân tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM từ đó đưa ra giải pháp nhằm
phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của quá trình di dân.
Tác giả Trần Cao Sơn có khá nhiều tác phẩm
nghiên cứu về dân số và mối quan hệ với
phát triển kinh tế - xã hội. Hai cuốn: “Dân số và tiến trình đô thị hóa - động thái phát triển và
triển vọng”(1995) và “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển”(1997) đều
phân tích mối quan hệ giữa gia tăng dân số với sự phát triển kinh tế - xã hội. Gia tăng dân số có
những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến nền kinh tế đất nước.
Các đề tài của Viện nghiên cứu phát triển TP. HCM như “Một số vấn đề biến đổi và phát
triển dân số và nguồn lao động trên địa bàn TP. HCM” năm 1996 do PTS Bạch Văn Bảy chủ
nhiệm đề tài. Năm 2006 hội thảo “Dân số với phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM”, và đề tài
“Phân tích các mối quan hệ giữa biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn TP.
HCM” do Cao Minh Nghĩa chủ nhiệm đề tài năm
2007. Các đề tài đã tập trung nghiên cứu giải
quyết một số vấn đề về lí luận và thực tiễn sự phát triển dân số trong quá trình đô thị hóa của
thành phố. Đưa ra nhiều kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển dân số phù hợp với quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa thành phố. Các đề tài nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo
quý giá, thực sự bổ ích cho tác giả khi tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình. Nhiều
đánh giá, nhận định của các nhà nghiên cứu là gợi ý quan trọng cho tác giả đi sâu nghiên cứu
chi tiết hơn.
4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1 Hệ quan điểm
4.1.1 Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Dân số, kinh tế, xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy khi nghiên cứu sự phát
triển dân số của một vùng, một nước nào đó phải dựa trên nhiều yếu tố, xem xét trong mối quan
hệ tổng hợp tự nhiên, kinh tế, xã hội để làm cho gia tăng dân số phù hợp với phát triển nhằm
đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội, môi trường.
4.1.2 Quan điểm hệ thống
Các đối tượng, hiện tượng địa lí đều có sự tác động qua lại với nhau trong một hệ thống
nhất định, khi một thành phần của hệ thống bị tác động làm nó thay đổi phát triển thì nó gây ra
những ảnh hưởng đến các thành phần khác của hệ thống, làm cho các thành phần đó cũng thay
đổi theo và cuối cùng làm cho cả hệ thống thay đổi.
TP. HCM là một trong hai đô thị lớn nhất và có tầm ảnh hưởng quan t
rọng nhất trong hệ
thống đô thị Việt Nam. Trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị
trường, TP. HCM đã có những thay đổi lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội làm cho quá trình đô thị
hóa diễn ra mạnh mẽ và kéo theo là sự gia tăng dân số đô thị, phân hóa giàu nghèo, vệ sinh môi
trường… Do đó, khi nghiên cứu sự biến động dân số thành phố cần phải được nghiên cứu trong
mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau trong hệ thống kinh tế - xã hội không chỉ riê
ng
TP. HCM mà rộng hơn là vùng Đông Nam Bộ và cả nước nói chung.
4.1.3 Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Các hiện tượng địa lí đều có quá trình phát sinh, phát triển và thay đổi không ngừng theo
không gian và thời gian. Do đó, để đánh giá hiện tượng địa lí trong hiện tại và dự báo sự phát
triển của chúng trong tương lai, phải đứng trên quan điểm lịch sử, nghiên cứu quá khứ, hiện tại
và dự báo tương lai mới chính xác.
TP. HCM có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm với nhiều giai đoạn tăng giảm
dân số khác nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử đều mang các bản sắc riêng do tác động của nhiều
nguyên nhân và ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội thành phố ở mức độ khác
nhau. Vận dụng quan điểm lịch sử, viễn cảnh trong nghiên cứu gia tăng dân số ở TP
. HCM thời
kì 1997 - 2007, luận văn phân tích đánh giá gia tăng dân số trong giai đoạn 1997 - 2007, nhưng
cũng đặc biệt chú ý đến các thời điểm lịch sử quan trọng và những biến động về kinh tế - xã hội
trong những điều kiện cụ thể khác nhau.
4.1.4 Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Gia tăng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, gia tăng dân số quá mức không
phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ gây ra nhiều hậu quả lên môi trường sinh thái như
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sống… Trong khi nghiên cứu gia tăng dân
số cần chú ý đến sự gia tăng nhanh số lượng dân cư đô thị, đặc biệt là sự phân bố dân cư đô thị
hợp lí phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng phải gắn liền với bảo vệ và phát
triển môi trường sinh thái bền vững, không làm tổn hại đến môi trường. Các biện pháp kiến
nghị phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững để giảm tác động đến môi trường
tự nhiên TP. HCM.
4.2 Hệ phương pháp nghiên cứu
4.2.1 Phương pháp thống kê
Đối tượng nghiên cứu khá rộng liên quan tới nhiều vấn đề, vì vậy luận văn đã sử dụng và
phân tích cơ sở số liệu thống kê phong phú từ cơ sở dữ liệu và kết quả của các cuộc Tổng điều
tra dân số, thống kê kinh tế - xã hội của Tổng cục thống kê, Cục thống kê thành phố, Chi cục
dân số - KHHGĐ và các tài liệu của Viện phát triển kinh tế TP. HCM cũng như từ các cơ quan
khác của thành phố. Từ những nguồn tài liệu này, tác giả đã có
cơ sở để đánh giá biến động dân
số TP.HCM thời kì 1997 - 2007.
4.2.2 Phương pháp phân tích, so sánh
Trên cơ sở các số liệu thu thập được, tác giả sắp xếp, phân loại và phân tích các thông tin
về biến động dân số ở TP. HCM thời kì 1997 - 2007, so sánh sự khác biệt về gia tăng dân số
trong các giai đoạn lịch sử nhất định, sự gia tăng khác nhau giữa các quận, huyện; phân tích
nguyên nhân của sự biến động đó.
4.2.4 Phương pháp bản đồ biểu đồ
Khi nghiên cứu các vấn đề địa lí nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng thì phương pháp
bản đồ, biểu đồ là phương pháp rất quan trọng cũng là một đặc thù của khoa học địa lí. Các bản
đồ cho phép chúng ta tìm hiểu vấn đề chính xác hơn, phong phú hơn thuận tiện trong việc so
sánh, đánh giá.
4.2.5 Phương pháp dự báo
Đây là giai đoạn khái quát hóa, hệ thống hóa thông tin ở mức cao nhằm xác định một vấn
đề trong tương lai. Phương pháp dự báo mang tính chất phức tạp và tính xác suất, tính chính
xác của dự báo còn phụ thuộc vào mối quan hệ với sự biến động kinh tế - xã hội của thành phố.
4.2.6 Phương pháp hệ thống thông tin địa lí (GIS
)
Hệ thống thông tin địa lí (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân tích xử lí các thông
tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép chồng xếp các thông tin địa lí để thấy được nét đặc
trưng riêng của các đối tượng địa lí. Luận văn sử dụng phần mềm MapInfo7.5 để thiết lập hệ
thống bản đồ minh họa cho đề tài.
5. Các đóng góp chính của đề tài
Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề cơ bản lí luận về dân cư, các đặc điểm của biến động
dân số và vận dụng vào TP. HCM để tìm hiểu sự biến động dân số ở thành phố thời kì 1997
- 2007.
Phân tích sự biến động dân số ở TP. HCM thời kì 1997 - 2007, đánh giá nguyên nhân và
những tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Dự bá
o tốc độ gia tăng dân số thành phố trong tương lai, đưa ra các giải pháp phát triển dân
số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn: “Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007: nguyên
nhân và giải pháp”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận về dân số, biến động dân số.
Chương 2: Thực trạng biến động dân số TP. Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007
Chương 3: Dự báo biến động dân số và giải pháp phát triển dân số, phân bố dân cư thành phố Hồ
Chí Minh.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ
1.1 Những vấn đề chung về dân số
1.1.1 Khái niệm dân số
Dân số luôn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học, chuyên gia dân số và cả các chính
phủ, tổ chức xã hội. Không chỉ ngày nay mà ngay cả trước kia, các nước đều quan tâm đến vấn
đề dân số vì sức ép của sự bùng nổ dân số ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội và
ảnh hưởng đến sức mạnh quốc gia. Ngày nay, vấn đề dân số không chỉ hạn chế mà nhiều nước
còn khuyến khích phát triển. Bởi vì dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa l
à lực lượng tiêu thụ
sản phẩm. Quy mô dân số, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và chất lượng dân số tác động
lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Dân số theo nghĩa thông thường: là số lượng dân số trên một vùng lãnh thổ, một địa
phương nhất định trong một khoảng thời gian xác định.
Dân số theo nghĩa rộng: được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này không chỉ là số
lượng m
à cả cơ cấu và chất lượng bao gồm nhiều cá nhân hợp lại, nó không cố định mà thường
xuyên biến động. Ngay cả bản thân mỗi cá nhân cũng thường xuyên biến động: sinh ra, lớn lên,
trưởng thành, già và tử vong [9, tr 9].
Dân số thường được định nghĩa như sau: là những tập hợp người sống trên một lãnh
thổ trong một thời gian xác định, được đặc trưng bởi quy mô, kết cấu, mối quan hệ qua lại
với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc phân công lao động và cư trú theo lãnh thổ.
Dân số được thể hiện theo quy m
ô, cơ cấu và phân bố:
- Quy mô dân số: là tổng số người sống trên một lãnh thổ nhất định trong một khoảng thời
gian xác định.
- Cơ cấu dân số: là tỉ lệ dân số được phân loại theo giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác. Đây là những đặc trưng biểu t
hị chất lượng
dân số, có liên quan chặt chẽ với quy mô và tốc độ gia tăng dân số.
- Phân bố dân số: là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ phù
hợp với điều kiện sống của họ và với các yêu cầu nhất định của xã hội [28].
1.1.2 Các học thuyết dân số
Từ xưa đến nay trong dân số học đã xuất hiện nhiều học thuyết dân số nhằm mục đích
giải thích sự phát triển dân số của thế giới nói chung và từng khu vực nói riêng. Cách đây
khoảng 4000 năm người Ai Cập đã chú ý đến vấn đề sinh đẻ, nhân khẩu. Hippocrat, Aristote,
Platon đã bàn đến vấn đề dân số. Thời La Mã đã có những chính sách quốc gia về vấn đề dân
số. Các quốc gia phong kiến phương Đông cũng quan tâm đến vấn đề dân số trong chinh chiến
và xây dựng… Các học thuyết dân số này rất khác về cơ sở khoa học, độ tin cậy và mục đích sử
dụng. Nhiều lí thuyết thiên về màu sắc chính trị và tôn giáo, là công cụ cho các thế lực cai trị
đất nước. Trong các học thuyết có ba học thuyết tiêu biểu là học thuyết Malthus, học thuyết của
K. Marx và Engels và học thuyết quá độ dân số.
1.1.2.1 Học thuyết Malthus về dân số
Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) là mục sư, nhà kinh tế học người Anh, người xây
dựng nên học thuyết
dân số. Thuyết Malthus một mặt bao gồm hệ thống quan điểm về tái sản
xuất dân cư và vai trò của nó trong việc phát triển xã hội và mặt khác, phản ánh đặc điểm lịch sử
của các quy luật dân số.
Căn cứ vào cơ sở thực tiễn về biến đổi dân số ở Hoa Kì vào cuối thế kỉ XVII và đầu thế kỉ
XVIII (dân số tăng gấp 2 lần t
rong vòng 15 năm). Malthus cho rằng “dân số có khuynh hướng
gia tăng nhanh hơn các tư liệu về sinh hoạt (lương thực, thực phẩm)”. Theo luận chứng của
ông thì sở dĩ quần chúng nhân dân sống nghèo đói và chịu đau khổ là do dân số tăng lên theo
cấp số nhân, còn tư liệu sinh hoạt chỉ tăng theo cấp số cộng.
Tác phẩm “ Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó với việc nâng cao đời
sống xã hội, trả lời những nhận xét của ngài Godwin, N.Condorce và các tác giả khác”, xuất
bản năm
1789 tại London là một trong những cuốn sách cơ bản trình bày học thuyết Malthus,
đó là:
- Bản chất của quá trình dân số là sinh học chứ không phải mang tính xã hội.
- Nạn dư thừa nhân khẩu là tự nhiên, vĩnh cửu không thể bị xóa bỏ.
- Dân
số tăng nhanh là nguồn gốc của đói nghèo, không liên hệ gì hoặc liên hệ rất ít với cách
quản lí xã hội và phân phối thu nhập.
Những người theo học thuyết Malthus sau này cho rằng muốn xóa bỏ sự nghèo đói, sự
không phù hợp giữa tăng dân số và tăng của cải vật chất chỉ có một biện pháp làm giảm
dân số
xuống một cách mạnh mẽ bằng chiến tranh, dịch bệnh. Họ cho rằng người nghèo phải chịu
trách nhiệm về sự nghèo túng của mình và cần phải điều chỉnh mức sinh đẻ bằng kìm chế tình
dục hoặc xây dựng gia đình muộn hơn.
Mặc dù học thuyết của Malthus về dân số có nhiều điểm hạn chế, những sai lầm trong học
thuyết đã bị lên án rất nhiều, nhưng cũng cần phải ghi nhận c
ông lao của Malthus, người đầu
tiên chỉ ra rằng dân số tăng lên rất nhanh và thực tế các thế kỉ tiếp theo đã chứng minh điều đó.
Ông cũng khuyến cáo rằng “xã hội chỉ sống sung sướng khi giữ được một số người hạn chế”.
Từ học thuyết của ông, cả những người ủng hộ cũng như phê phán đã nhận thức được vai trò
quan trọng và sự cần thiết phải thu thập thông tin trong việc nghiên cứu khuynh hướng phát
triển của dân số, và cho bất cứ một khảo cứu nào về mối quan hệ trong quy mô và tốc độ tăng
trưởng của dân số với các điều kiện kinh tế - xã hội [15], [35].
1.1.2.2 Học thuyết của K. Ma
rx và Engels về dân số
Học thuyết của Malthus bị K. Marx phê phán toàn bộ vì nó không phù hợp với tư tưởng
của Người về một chế độ Cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù K. Marx và Engels không xây dựng một
học thuyết dân số cụ thể, các ông chỉ đưa ra những nguyên tắc cơ bản mà theo các ông sẽ quyết
định quy mô dân số và các quan hệ kinh tế - xã hội. Theo quan điểm của K. Marx “dân số là cơ
sở v
à là chủ thể của nền sản xuất xã hội” và cùng với phương thức sản xuất, hoàn cảnh địa lí
tạo nên tồn tại xã hội. K. Marx cho rằng không có một quy luật tự nhiên hoặc phổ biến nào
chung cho dân số và nói mỗi một phương thức lịch sử có các quy luật riêng về dân số, có tính
lịch sử và chỉ có giá trị trong phạm vi đó.
Engels, trong khi hoàn toàn ủng hộ quan điểm của K. Marx, cũng bổ sung thêm một số ý
kiến. Ông cho rằng, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dư thừa nh
ân khẩu gắn với dư thừa tư bản và
mâu thuẫn đó của chủ nghĩa tư bản có thể khắc phục bằng sự tổ chức lại xã hội.
Trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản và trong tác phẩm “Nguồn gốc loài người", K. Marx và
Engels cũng đã nói đến việc g
iải phóng phụ nữ. Mặc dù không nói đến điều đó sẽ làm giảm
mức sinh nhưng dù sao cũng là ý tưởng liên quan đến vấn đề dân số.
Có thể tóm tắt những ý chung nhất về học thuyết dân số của K. Marx và Engels như sau:
- Mỗi hình thái xã hội có quy luật riêng về dân số. Nguyên nhân của sự nghèo khổ nằm ngay
chính trong lòng của chủ nghĩa tư bản, mà sự thể hiện là ở sự bần cùng hóa giai cấp vô sản.
- Mỗi dân tộc có trách nhiệm x
ác định số dân tối ưu của mình, căn cứ vào những điều kiện địa
lí, tự nhiên và kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước mình.
- Sự nghèo khổ không phải là định mệnh đi suốt lịch sử của mọi dân tộc. Xóa bỏ nghèo khổ là
phải xóa bỏ bất công, muốn vậy phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường để
thực hiện được mối quan hệ tối ưu giữa dân số và phát triển, giữa dân số và tài nguyên, tái tạo
vật chất [1
5], [35].
1.1.2.3 Học thuyết quá độ dân số (Demographic transition)
Hiện nay, quá độ dân số là một quan niệm được sử dụng rộng rãi trong dân số học để lí
giải sự thay đổi các kiểu tái sản xuất dân cư trên thế giới. Sự gia tăng dân số thế giới là kết quả
tác động qua lại giữa số người sinh ra và số người chết đi. Những thay đổi về mức sinh và mức
tử diễn ra khác nhau theo thời gian. Căn cứ vào sự tha
y đổi này, thuyết quá độ dân số phân biệt 3
giai đoạn:
- Mức sinh và mức tử đều cao, dân số tăng chậm.
- Mức sinh và mức tử đều giảm, nhưng mức tử giảm nhanh hơn, dân số tăng nhanh.
- Mức sinh và mức tử đều thấp, dân số tăng chậm.
Mô hình quá độ dân số
Học thuyết quá độ dân số đã chú ý tới sự thay đổi về tỉ suất sinh và tỉ suất tử ở các giai
đoạn khác nhau của các nước chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền
kinh tế công nghiệp và đô thị, tức là trải qua thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử cao sang một thời kì tỉ
suất sinh, tử thấp.
Công nghiệp hóa làm giảm đáng kể mức tử vong, phá vỡ tính hợp lí
của xã hội về tình
trạng đông con, tạo nên những tiền đề làm giảm mức sinh. Sinh con trở thành một lĩnh vực lựa
chọn có ý thức, còn định hướng ít con phổ biến đối với mỗi cá nhân. Như vậy đã xác định được
nhân tố chìa khóa làm giảm tỉ suất sinh (CNH và các vấn đề liên quan như đô thị hóa, nâng cao
mức thu nhập và trình độ học vấn, giải phóng phụ nữ…) và cơ chế của n
ó (phổ biến trong mọi
tầng lớp xã hội, từ thành thị đến nông thôn, từ các nước phát triển đến các nước đang phát
triển...) [15], [35].
1.2 Biến động dân số
1.2.1 Biến động dân số tự nhiên
Quá trình dân số (sinh, tử, di dân) ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Biến động dân số (tăng giảm tự nhiên hay cơ học) đều ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, phân bố
dân số và lao động của các nước, từ đó tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc
Tỉ lệ sinh
Tỉ lệ tử
Tỉ lệ cao
Tỉ lệ thấp
gia. Trong đó, nghiên cứu biến động dân số tự nhiên là một trong những nội dung cơ bản của dân
số học. Biến động dân số tự nhiên bao gồm quá trình sinh, tử của con người.
1.2.1.1 Mức sinh
a. Khái niệm
Mức sinh là biểu hiện khả năng sinh sản tự nhiên của con người trên thực tế. Mức sinh
được chia làm hai loại: mức sinh tự nhiên và mức sinh thực tế.
Mức sinh tự nhiên: là sự sinh sản không có kiểm soát của con người. Trong xã hội kém
phát triển, con người thường sinh đẻ tự nhiên do không có ý thức hoặc không biết sử dụng các
biện pháp tránh thai chính vì vậy mức sinh rất cao. Người ta đưa ra những con số khác nhau về
mức sinh đẻ tự nhiên. Theo K.Pali (Liên Xô) khả năng sinh đẻ tự nhiên trung bình là 10,54 con.
Theo M.Verhacghe ở Pháp mức sinh đẻ tự nhiên ước tính của một gia đình trung bình là 6 đến
7 con. Theo Alfrea Sauvy thì số con là 10 đối với những cặp vợ chồng kết hôn từ tuổi dậy thì và
ăn ở với nhau cho tới khi mãn kinh. Theo Đinh Quang Thắng khả năng sinh đẻ của đời người
phụ nữ thường là 8 đến 10 con [35].
Mức sinh thực tế: là mức sinh có sự can thiệp của con người trong quá trình si
nh sản.
Năm 1999 tổng tỉ suất sinh của Việt Nam là 2,33 con/phụ nữ, năm 2007 giảm xuống còn 2,07
con/phụ nữ.
Ngày nay hầu hết các nước đều tiến hành kiểm soát mức sinh, nhằm đạt mức sinh phù hợp
thông qua thực hiện các biện pháp tránh thai, nhất là biện pháp tránh thai hiện đại.
b. Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh
Tỉ suất sinh thô
(Crude Birth Rate): được sử dụng rộng rãi trong dân số học, tính bằng tỉ
số giữa số trẻ em sinh ra trong năm so với dân số trung bình ở cùng thời gian ấy (đơn vị
0
/
00
).
Công thức: CBR =
P
B
CBR: tỉ suất sinh thô.
B: số trẻ em sinh ra sống trong một năm.
P: dân số trung bình của địa phương trong năm.
Tỉ suất sinh thô không cho phép so sánh các dân cư cấu trúc khác nhau. Vì thế trong
nghiên cứu dân số, người ta còn sử dụng tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi và tổng tỉ suất sinh.
Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi
(Age-Specific Fertility Rate): là số trẻ em sinh ra sống
trong năm tính trên 1000 phụ nữ của một độ tuổi hoặc một nhóm tuổi nhất định (đơn vị
0
/
00
).
Công thức:
ASFR
x
=
P
B
wx
fx
ASFR
x
: tỉ suất sinh đặc trưng ở độ tuổi x.
B
fx
: số trẻ em sinh ra trong năm của những phụ nữ ở độ tuổi x.
P
wx
: số phụ nữ ở độ tuổi x.
Tổng tỉ suất sinh (Total Fertility Rate): là số con trung bình của một phụ nữ trong suốt
cuộc đời nếu như họ trải qua những năm tháng sinh sản phù hợp với tỉ suất sinh đặc trưng theo
tuổi vào một năm nhất định.
Công thức:
TFR =
1000
49
15
ASFRx
Bảng 1.1: Mức sinh của các vùng trên thế giới năm 2008
Dân số
(triệu người)
CBR
(
0
/
00
)
TFR
(con)
Toàn thế giới
+ Trong đó:
- Các nước phát triển
- Các nước đang phát triển
+ Theo các châu lục
- Châu Phi
- Bắc Mĩ
- Mĩ Latinh và vùng biển Caribe
- Châu Á
- Châu Âu
- Châu Đại Dương
6.705
1.227
5.479
967
338
577
4.052
736
35
21
12
23
37
14
21
19
11
18
2,6
1,6
2,8
4,9
2,1
2,5
2,4
1,5
2,4
Nguồn: World Population Data Sheet 2008
Số liệu bảng 1.1 cho thấy, nhìn chung, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh có quan hệ chặt
chẽ với trình độ phát triển của các nước. Đối với các nước phát triển, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ
suất sinh thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển. Ở các châu lục khác nhau, do trình độ
phát triển khác nhau nên các chỉ số này cũng khác nhau.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh
Mức sinh chịu sự tác động đa dạng, phức tạp của nhiều yếu tố cả về mặt kinh tế, xã hội và
môi trường. Sinh đẻ không chỉ là hiện tượng sinh học, nó còn chịu sự tác động trực tiếp và gián
tiếp của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể phân các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh thành các
nhóm sau:
Tự nhiên, sinh học
Sinh đẻ trước hết là hiện tượng sinh học, vì vậy nó chịu sự tác động của yếu tố này. Mọi
sinh vật, theo quy luật tự nhiên, đều trải qua các giai đoạn sinh ra, trưởng thành, phát triển và
tàn lụi. Con người cũng vậy, khả năng sinh sản chỉ thực hiện được ở một nhóm tuổi nhất định
(tuổi có khả năng sinh sản). Vì vậy, cơ cấu tuổi tác của dân cư (đặc biệt của phụ nữ) có ảnh
hưởng rất lớn đến mức sinh. Nếu số người trong độ tuổi có khả năng sinh sản càng lớn thì mức
sinh càng cao và ngược lại. Ngay trong tuổi sinh đẻ, đối với các độ tuổi khác nhau, mức sinh
cũng khác nhau. Mức sinh cao nhất ở độ tuổi từ 20 - 24, 25 - 29. Sau độ tuổi này, mức sinh
giảm dần và thấp nhất ở độ tuổi từ 40 - 44, 45 - 49. Đối với các nước đang phát triển cơ cấu dân
số trẻ cũng là một trong những nguyên nhân làm
cho mức sinh cao. Việt Nam có cơ cấu dân số
trẻ nên mức sinh vẫn còn ở mức cao (năm 2007 tổng tỉ suất sinh là 2,07 con/phụ nữ).
Cơ cấu giới tính cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Trong tái sản xuất dân số, dân số nữ đóng
vai trò rất quan trọng. Vì vậy số lượng và cơ cấu nữ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh. Tuy
nhiên sinh đẻ chỉ đạt được mức tối đa khi quan hệ tỉ lệ nam
và nữ trong độ tuổi sinh đẻ phù
hợp.
Tộc người cũng là yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh. Tộc người được xét đến ở nhiều khía
cạnh khác nhau. Về mặt tự nhiên sinh vật, tộc người trước hết là một giống người. Mỗi giống
người có khả năng sinh đẻ khác nhau, do cấu tạo gen, m
áu và các đặc tính sinh lí khác. Ngoài
ra, mỗi tộc người đều phân bố ở những vùng lãnh thổ nhất định, có điều kiện tự nhiên, khí hậu
khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, tập quán và tâm lí xã hội khác nhau
nên mức sinh cũng khác nhau.
Văn hóa - xã hội
Mỗi nước, mỗi dân tộc, mỗi thời kì, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có các phong tục tập
quán và tâm lí xã hội khác nhau. Những phong tục, tập quán và tâm lí xã hội này xuất hiện và
tồn tại trên những cơ sở thực tế khách quan. Khi những cơ sở này thay đổi thì phong tục tập
quán và tâm lí xã hội cũng thay đổi. Tuy nhiên, nhiều khi điều kiện vật chất, tồn tại xã hội đã
thay đổi nhưng ý thức và tư tưởng trong đó có tập quán, tâ
m lí xã hội chưa thay đổi ngay.
Phong tục tập quán và tâm lí xã hội có tác động rất lớn đến mức sinh và được chia thành hai
loại:
- Phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũ, lạc hậu biểu hiện ở chỗ: kết hôn sớm, muốn có
nhiều con, thích con trai, muốn “có nếp có tẻ”… chính vì vậy làm tăng mức sinh. Tư tưởng này
xuất hiện và tồn tại ở các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp,
văn hóa lạc hậu, ở đó thường
tồn tại quan niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” đã khuyến khích đẻ nhiều và tự hào khi có nhiều
con.
- Khi cơ sở kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi, đời sống của người dân được cải thiện,
phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũ mất đi, xuất hiện phong tục tập quán và tâm lí xã hội
mới. Tồn tại trong xã hội phát triển với những đặc điểm kết hôn muộn, gia đì
nh ít con, nam nữ bình
đẳng dẫn đến mức sinh giảm.
Trình độ học vấn cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Thông thường, trình độ học vấn tỉ lệ
nghịch với mức sinh. Những người có học vấn cao, nhất là phụ nữ thường sinh ít con hơn so
với những người có trình độ học vấn thấp. Bởi vì khi đã đạt đến một trình độ học vấn nhất định,
người phụ nữ thường kết hôn m
uộn, đẻ muộn, đẻ ít. Họ hiểu biết hơn, có điều kiện tiếp cận các
biện pháp tránh thai phù hợp, dành thời gian cho học tập, giao lưu văn hóa, tìm việc làm có thu
nhập khá.
Kinh tế
Yếu tố này rất đa dạng và tác động theo nhiều hướng khác nhau. Có nhiều quan điểm khác
nhau về ảnh hưởng của nó đối với sự biến động mức sinh. Theo quan điểm của đa số các nhà
nhân khẩu học và bằng hiện tượng thực tế, người ta xác minh rằng đời sống thấp thì mức sinh
cao và ngược lại. Mức sinh đẻ trong thời đại phong kiến cao hơn chế độ tư bản chủ nghĩa. Đối
với các nước kém phát triển tỉ lệ sinh cao hơn so với các nước kinh tế phát triển. Hoặc trong
cùng một nước, một thời kì nhóm
xã hội có trình độ phát triển, có mức sống khác nhau thì mức
sinh cũng khác nhau.
Bảng 1.2: Biến động mức sinh giữa các nước, các thời kì (CBR
0
/
00
)
Thời kỳ
1960-
1965
1975-
1980
1985-
1990
1999 2002 2008
Toàn thế giới
Trong đó:
- Các nước phát triển
- Các nước đang phát triển
33,7
20,4
39,9
33,1
17,4
36,4
27
15
31
23
11
26
21,4
11,1
23,9
21
12
23
Nguồn: Giáo trình dân số và phát triển - NXB ĐH Kinh tế quốc dân, trang 77; World population data sheet
2008.
Qua bảng 1.2 ta thấy rằng trong hơn nửa thế kỉ qua, mức sinh giảm một cách liên tục cùng
với sự phát triển kinh tế - xã hội (chung cho toàn thế giới cũng như đối với từng nhóm nước).
Hoặc trong cùng một thời kì mức sinh của các nước phát triển thấp hơn nhiều so với các nước
đang phát triển.
Di dân và đô thị hóa
Tác động của di dân đến mức sinh khá phức tạp, theo chiều hướng khác nhau. Di dân có
thể làm giảm mức sinh vì quá trình di chuyển cần có thời gian ổn định nơi ăn chốn ở, tìm việc
làm sẽ làm gián đoạn việc kết hôn và sinh con. Trái lại, di dân cũng có thể làm tăng mức sinh
cục bộ đối với cộng đồng dân cư nào đó với mục đích tăng cường sức lao động, sức mạnh của
gia đình, dòng họ ở nơi cư trú mới.
Đô thị hóa cũng ảnh hưởng đến mức sinh: đô t
hị hóa là quá trình chuyển từ hoạt động
nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa góp phần làm thay đổi đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các vùng lãnh thổ, cư dân nông thôn và có tác động làm giảm
mức sinh. Mức sống vật chất và tinh thần của đô thị cao hơn ở nông thôn nên mức sinh t
hường
thấp hơn ở nông thôn. Thêm vào đó, dân cư đô thị có cơ hội và điều kiện nâng cao trình độ học
vấn. Đây là cơ sở thuận lợi để họ nâng cao nhận thức, chấp nhận và thực hiện các biện pháp
tránh thai làm cho mức sinh thấp. Lối sống đô thị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức sinh, phá bỏ
những rào cản là phong tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình. Các yếu tố kết hôn
muộn, tình trạng l
i hôn, li thân, nạo phá thai ở đô thị tăng cũng làm cho mức sinh giảm. Ngoài
ra, mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch ở đô thị phát triển đã làm giảm mức tử trẻ
em, nâng cao sức khỏe của dân cư cũng là các yếu tố gián tiếp tác động tới việc giảm tỉ lệ tăng
tự nhiên.
Khoa học kĩ thuật
Trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, những thành tựu về y học càng tạo điều kiện cho loài
người chủ động điều tiết mức sinh. Y học phát triển đã sáng chế ra các phương tiện tránh thai
hiện đại, đáp ứng kịp thời dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Bằng các biện pháp kĩ thuật chuyên
môn (triệt sản, đặt vòng, tiêm và uống thuốc, bao cao su…) giúp các cặp vợ chồng sinh đẻ có
kế hoạch (sinh muộn, sinh ít, gi
ãn khoảng cách sinh, thôi sinh đẻ…) thực hiện việc sinh đẻ theo
mong muốn.
Như vậy, nhờ có khoa học kĩ thuật đã giúp con người điều tiết mức sinh, làm cho loài
người chủ động sinh đẻ theo ý muốn của mình, điều tiết quy mô, cơ cấu dân số hợp lí.
Chính sách dân số
Chính sách dân số là những chủ trương và biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm định
hướng và điều tiết quá trình phát triển dân số theo những mục tiêu nhất định. Các chính sách
dân số đã phát huy tác dụng to lớn trong việc điều tiết mức sinh theo hướng cần thiết. Tùy
thuộc vào quan niệm, điều kiện phát triển trong từng thời kì mà mỗi quốc gia có chính sách
khuyến khích hay giảm sinh.
Các nước phát triển nơi tỉ lệ gia tăng dân số thấp thường có chính sách khuyến khích sinh
đẻ nhằm tăng tỉ lệ gia tăng dân số với nhiều biện pháp tuyên truyền khuyến khích sinh và nhiều
chính sách kinh tế - xã hội ưu đãi những gia đình đông con. Ngược lại, các nước đang phát triển
có chính sách hạn chế sinh nhằm giảm tỉ lệ gia tăng dân số như Việt Nam, Ấn Độ…
1.2.1.2 Mức tử
a. Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau diễn đạt cái chết. Liên Hợp Quốc và tổ chức Y tế Thế giới
đã thống nhất đưa ra định nghĩa sau: Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của
sự sống, tại một thời điểm nào đó sau khi có sự kiện sinh sống sảy ra mà không có khả năng
nào khôi phục lại được.
Theo định nghĩa trên thì sự kiện chết chỉ sảy ra sau khi có sự kiện sinh sống (loại trừ hình
thức chết lâm
sàng hoặc chết bào thai). Mức tử là sự biểu thị mức độ chết của con người tính
trung bình trên một số dân xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó. Thông qua mức tử có thể
đánh giá, so sánh và biết được tần suất, cường độ chết của các nhóm dân cư khác nhau từ đó
đánh giá được trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước đó.
b. Cá
c chỉ tiêu đánh giá mức tử
Trong đo lường mức tử, người ta dùng các thước đo khác nhau. Mỗi thước đo phản ánh
khía cạnh này hay khía cạnh khác của mức tử và có những ưu, nhược điểm riêng.
Tỉ suất tử thô
(Crude Death Rate): phản ánh mức tử của dân số nói chung xảy ra trong
một năm nào đó là nhiều hay ít, được tính bằng tỉ số giữa số người chết trong năm so với dân số
trung bình cùng thời điểm (đơn vị
0
/
00
).
Công thức
: CDR =
P
D
CDR: tỉ suất tử thô.
D: số người chết trong năm.
P: dân số trung bình của năm.
Ưu điểm của tỉ suất tử thô là dễ tính toán nhưng nó không phản ánh chính xác những
trường hợp chết đặc thù. Do không loại trừ hết được ảnh hưởng của các yếu tố như cấu trúc
tuổi, giới tính nên sẽ không phản ánh đầy đủ và chính xác tần suất tử theo các đối tượng và theo
nguyên nhân. Để thể hiện được điều này, trong nghiên cứu thường sử dụng chỉ tiêu
tỉ suất tử
đặc trưng để đánh giá. Tỉ suất tử đặc trưng thường được sử dụng như là: tỉ suất tử đặc trưng
theo tuổi, tỉ suất tử vong trẻ em.
Tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi
(Age Specific Death Rate): phản ánh mức tử của dân cư
theo từng độ tuổi hay nhóm tuổi khác nhau xảy ra trong một năm nào đó (đơn vị
0
/
00
).
Công thức: ASDR =
Px
Dx
ASDR: tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi.
D
x
: số người ở độ tuổi x chết trong năm.
P
x
: số lượng dân số của độ tuổi x tính trung bình trong năm hoặc giữa năm.
Tỉ suất tử vong trẻ em 0 - 1 tuổi
(Infant Mortality Rate): phản ánh mức tử của số trẻ
em mới sinh trong năm đầu tiên của cuộc đời (đơn vị
0
/
00
).
Công thức:
IMR =
B
D
IMR: tỉ suất tử vong trẻ em 0 – 1 tuổi.
D
o
: số trẻ em 0 - 1 tuổi chết trong một năm nào đó.
B
o
: số trẻ em mới sinh sống trong cùng một năm nào đó.
Mức tử trẻ em 0 - 1 tuổi cao hay thấp phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
một nước. Vì vậy nghiên cứu mức tử trẻ em có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nghiên cứu
mức tử và dân số nói riêng, phát triển nói chung.
c. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức tử
Tử chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, có thể chia thành các nhóm yếu tố như sau:
Mức sống dân cư
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội được phản ánh qua mức sống của dân cư. Mức sống,
thu nhập bình quân đầu người càng cao thì người dân càng có điều kiện chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe, khám chữa bệnh do đó hạn chế mức tử. Chính vì vậy, các nước có trình độ phát triển
khác nhau có mức tử vong khác biệt nhau, đặc biệt là mức tử của trẻ em. Thực tế cho thấy, các
nước kinh tế phát triển thì mức tử trẻ em
dưới 1 tuổi thấp hơn rất nhiều so với các nước kinh tế
đang phát triển và chậm phát triển. Sở dĩ các nước đang phát triển và chậm phát triển có mức tử
trẻ em cao bởi vì ở các nước này mức sống còn thấp, trẻ em không được chăm sóc tốt, tình
trạng suy dinh dưỡng cao, bệnh tật không được cứu chữa kịp thời.
Bảng 1.3: Tỉ suất tử trẻ em dưới 1 tuổi và tuổi thọ trung bình trên thế giới giai đoạn 1995 -
2008 (IMR:
0
/
00
, Eo: năm)
1995 1999 2005 2008
Nhóm nước
IMR
Eo
IMR
Eo
IMR
Eo
IMR
Eo
Toàn thế giới
62
65
57
66
54
67
49
68
Các nước phát triển
10
75
8
75
6
76
6
77
Các nước đang phát triển
67
63
62
64
59
65
54
67
Nguồn: World population data sheet 2008; Giáo trình Giáo dục dân số sức khỏe sinh sản, Nguyễn Minh
Tuệ, trang 77.
Trình độ phát triển y học, mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh
Cùng với việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, việc
đẩy nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực y tế đã góp phần đáng kể vào việc khống chế
và đẩy lùi nhiều căn bệnh hiểm nghèo, nhiều dịch bệnh nguy hiểm với tính chất và quy mô rộng
lớn, gây chết người hàng loạt. Điều đó giúp làm giảm mức tử vong ở các quốc gia trên thế giới.
Môi trường sống
Con người bao giờ cũng sống trong một môi trường tự nhiên và xã hội nên dễ bị tác động
trực tiếp của môi trường. Nếu sống trong môi trường trong sạch, lành mạnh, tuổi thọ sẽ được
nâng cao. Ngược lại, môi trường bị ô nhiễm, không lành mạnh sẽ gây ra nhiều bệnh tật nguy
hiểm, stress làm tăng mức tử vong. Ngày nay, công nghiệp phát triển, đô thị hóa ngày càng mở
rộng, những điểm đông dân cư tăng lên. Nếu không quy hoạch sự phân bố cơ sở công nghiệp và
dân cư hợp lí, không có hệ thống xử lí nước thải, m
ôi trường bị ô nhiễm nặng sẽ ảnh hưởng đến
sức khỏe, giảm tuổi thọ của dân cư.
Cơ cấu dân cư
Cơ cấu tuổi của dân cư ảnh hưởng rõ rệt đến mức tử. Con người tuân theo một quy luật
tự nhiên: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già và chết. Đối với các độ tuổi khác nhau, mức tử cũng
khác nhau. Tỉ suất tử dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi cao hơn nhiều so với các độ tuổi khác nhau.
Chết trẻ em chịu ảnh hưởng bởi hai nhóm yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Nhóm yếu tố nội sinh
(việc hình thành bào thai, chửa đẻ) liên quan mật thiết đến tuổi của người mẹ, số lần sinh,
khoảng cách giữa các lần sinh, thời gian chửa đẻ… những yếu tố này tác động nhiều đến mức
tử trẻ sơ sinh. Nhóm yếu tố ngoại sinh (môi trường tự nhiên - xã hội) cũng tác động đến mức tử
trẻ em
. Ở các xã hội lạc hậu, chậm phát triển mức tử trẻ em
cao hơn nhiều so với các xã hội có
mức sống cao.
Bảng 1.4: Cơ cấu tuổi và mức chết của thế giới năm 2008
Tỉ lệ dân số (%)
Nhóm nước
< 15 tuổi > 65 tuổi
CDR
(
0
/
00
)
IMR
(
0
/
00
)
Eo
(năm)
Toàn thế giới
+ Trong đó:
- Các nước phát triển
- Các nước đang phát triển
+ Theo các châu lục
- Châu Phi
- Bắc Mĩ
- Mĩ Latinh và vùng biển
Caribe
- Châu Á
- Châu Âu
- Châu Đại Dương
28
17
30
41
20
30
27
16
25
7
16
6
3
13
6
7
16
10
8
10
8
14
8
6
7
11
7
49
6
54
82
7
23
45
6
25
68
77
67
54
78
73
69
75
76
Nguồn: World population data sheet 2008
Bảng 1.4 cho thấy: đối với nhóm nước đang phát triển có cơ cấu dân số trẻ, tỉ suất tử thô
không cao nhưng do tỉ suất tử của trẻ em cao nên tuổi thọ trung bình còn thấp. Ngược lại, nhóm
nước phát triển có cơ cấu dân số già, tỉ suất tử thô cao nhưng tỉ suất tử của trẻ em rất thấp dẫn
đến tuổi thọ trung bình được nâng cao.
Mức chết của nam giới và nữ giới cũng có sự khác nhau. Trong thực tế mức tử vong trẻ
em trai cao hơn trẻ em
gái ở các độ tuổi. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ thường cao hơn tuổi
thọ trung bình của nam giới.
Trình độ học vấn, nghề nghiệp của dân số ảnh hưởng đến mức tử. Trình độ học vấn có
liên quan đến trình độ hiểu biết, khả năng ngăn ngừa và phòng chống bệnh tật, đến việc sử dụng
các thành tựu y học trong cuộc sống. Do đó, học vấn cao cũng tạo điều kiện giảm mức tử. Học
vấn của người mẹ và khả năng sống sót
của trẻ em có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trình độ
học vấn cao tạo điều kiện để người mẹ nâng cao nhận thức về phương pháp phòng chống bệnh
tật, nhận biết và điều trị có hiệu quả bệnh tình của trẻ em
góp phần làm cho mức tử của trẻ em
giảm xuống.
Các yếu tố khác
Các yếu tố như chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, tai nạn… làm mức tử tăng cao. Chiến
tranh là nguyên nhân gây chết người hàng loạt trong một thời gian ngắn, nhất là các cuộc chiến
tranh sử dụng vũ khí hiện đại. Chiến tranh thế giới thứ hai làm chết 53 triệu người, 90 triệu
người bị thương, trong đó riêng Liên Xô là 27 triệu người chết.
Dịch bệnh cũng là nguyên nhân dẫn đến mức tử vong cao. Trước đây khi khoa học, y học
chưa phát triển, các dịch bệnh gây chết người hàng loạt như cúm, bạch hầu, đậu mùa, tiêu
chảy…đã ảnh hưởng đến sự tăng dân số. Mặc dù hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển, đạt
được nhiều thành tựu trong lĩnh vực y tế, có thể làm giảm và hạn chế mức độ ảnh hưởng của
dịch bệnh đến tình hì
nh tử vong. Tuy vậy, bệnh tật vẫn là nguyên nhân thường xuyên và đáng
lo ngại đối với cuộc sống của xã hội loài người. Ví dụ: Virus cúm A/H1N1 lần đầu tiên được
xác định ở Bắc Mỹ hồi
tháng 4/2009 và đến tháng 6, WHO tuyên bố cúm trở thành một đại
dịch. Tính đến tháng 12/2009 số người tử vong vì đại dịch cúm A/H1N1 trên toàn thế giới
12.220 người.
Thiên tai cũng là mối đe dọa khủng khiếp tới sự tồn tại và phát triển của con người cũng
như thế giới động vật. Hàng năm, Thế giới và Việt Nam có hàng triệu người chết vì bão lụt, hạn
hán, động đất, sóng thần… Thảm họa sóng t
hần ở Ấn Độ Dương vào năm 2004 làm hơn
200.000 người chết.
Trận động đất ở Haiti tháng 1/2010 với cường độ 7 richter đã làm chết gần
300.000 người, phá hủy 250.000 ngôi nhà.
Trong xã hội đương đại, tai nạn giao thông là mối quan ngại của nhiều quốc gia. Tai nạn
giao thông rất đa dạng, tai nạn đường sắt, đường bộ, hàng không…làm cho hàng trăm ngàn
người chết và bị thương mỗi năm, gây tổn thất lớn cho gia đình và xã hội.
1.2.1.3 Biến động dân số tự nhiên
Biến động dân số tự nhiên là sự đổi mới không ngừng dân số bởi các sự kiện sinh và tử.
Đó là sự th
ay đổi quy mô, cơ cấu dân số chỉ do tác động của sinh đẻ và tử vong trong một
khoảng thời gian nào đó.
Biến động dân số tự nhiên được phản ánh thông qua “tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên”. Tỉ
suất gia tăng dân số tự nhiên (Rate of Natural Increase) được xác định bằng hiệu số giữa tỉ
suất sinh thô và tỉ suất tử thô t
rong một khoảng thời gian xác định, trên một đơn vị lãnh thổ
xác định.
Công thức: RNI = CBR – CDR
RNI: tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên.
CBR: tỉ suất sinh thô.
CDR: tỉ suất tử thô.
Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên còn có thể xác định bằng hiệu số trẻ em sinh ra và số
người chết trong năm so với dân số trung bình của năm đó.
Công thức:
RNI =
k
P
DB
*
B: số sinh.
D: số tử.
P: dân số trung bình.
Gia tăng dân số tự nhiên quyết định quy mô dân số toàn cầu. Vì vậy muốn hạn chế gia tăng
dân số phải giảm tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên.
1.2.2 Biến động cơ học
Con người không chỉ sinh sống trên một lãnh thổ cố định. Do những hoàn cảnh khác nhau,
họ có thể thay đổi địa bàn cư trú. Từ đó xuất hiện việc chuyển cư (di cư), nghĩa là những dòng
người từ nơi này chuyển sang nơi khác. Việc tăng, giảm số dân của một lãnh thổ phụ thuộc
trước hết vào nhịp độ gia tăng tự nhiên, sau đó vào kết quả quá trình chuyển cư. Để phân biệt
với biến động tự nhiên, người ta gọi gia tăng dân số ở một lãnh thổ liên quan tới chuyển cư là
biến động cơ học (cơ giới). Như vậy, gia tăng cơ học chính là sự chênh lệnh giữa số người suất
cư (những người rời khỏi thành phố) và số người nhập cư (những người đến lãnh thổ). Khi đề
cập đến biến động cơ học tức là nói tới quá trình chuyển cư (di cư hay di dân).
1.2.2.1 Khái niệm
Cùng với gia tăng dân số tự nhiên, di dâ
n có ảnh hưởng lớn đến quy m
ô, cơ cấu và phân bố
dân cư. Di dân trở thành một trong những yếu tố quan trọng của tăng trưởng dân số đặc biệt ở
những quốc gia mà mức sinh và mức tử đang giảm xuống thấp.
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự chuyển dịch bất kì của con người trong một không gian và
thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này di
dân đồng nhất với sự di động dân cư.
Theo nghĩa hẹp: đã có nhiều tác giả đưa ra những khái niệm
di dân khác nhau như
V.I.Perevedensev (1966), coi di dân là tổng hợp sự di chuyển của con người gắn với sự thay
đổi chỗ ở. Còn theo V.V.Onhikienkô và V.Popokin (1973) di dân thường được hiểu là sự thay
đổi nơi thường trú của con người với tổng thể các nhân tố và nguyên nhân chính [3, tr.9]
Theo Liên Hợp Quốc: Di dân là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến
một đơn vị lãnh thổ khác nhằm tạo nên một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian xác
định. Định nghĩa này được Li
ên Hợp Quốc sử dụng nhằm khẳng định mối quan hệ giữa sự di
chuyển theo một khoảng cách nhất định qua một địa giới hành chính, với việc thay đổi nơi cư trú.
Như vậy, theo nghĩa hẹp chỉ có sự di chuyển, thay đổi vĩnh viễn nơi cư trú mới tạo nên di
dân và những người thay đổi nơi ở thường trú mới gọi là người di cư thực sự. Những người
sống lang thang, đi du lịch, người đi làm ăn theo mùa vụ, di chuyển tạm thời và không có mục
đích cư trú lâu dài ở nơi đến thì không được coi là di dân. Liên quan tới khái niệm di dân, cần
phân biệt hai bộ phận cấu thành của một quá trình l
à xuất cư và nhập cư.
Xuất cư là việc di cư tự nguyện hay bắt buộc rời khỏi lãnh thổ này sang lãnh thổ khác để
sinh sống thường xuyên hay tạm thời trong khoảng thời gian dài. Đây là hiện tượng đặc trưng
cho nhiều nước đang phát triển do nhiều nguyên nhân như muốn cải thiện mức sống, tình trạng
thiếu lao động ở các nước kinh tế phát triển, chính trị, thiên tai…
Nhập cư là việc đi đến một lãnh thổ khác để sống thường xuyên hay tạm thời (
thường là
thời gian dài) của công dân một nước khác hay dân cư vùng khác trong một quốc gia. Nó bị chi
phối bởi nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, tôn giáo…Cũng như xuất cư, nhập cư ảnh hưởng
nhiều đến kết cấu và động lực tăng dân số.
Gia tăng cơ học có thể là dương nếu số người xuất cư ít hơn số người nhập cư. Ngược lại,
gia tăng cơ học là âm khi số người xuất cư nhiều hơn số người nhập cư. Trên phạm vi toàn thế
giới, chuyển cư không ảnh hưởng tới số lượng dân nói chung, nhưng đối với từng nước, từng
khu vực nhiều khi lại có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm
thay đổi tổng số dân và ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá di dân
Tỉ suất nhập cư
(Immigration Rate – IR): là tỉ số giữa người nhập cư và dân số trung
bình năm (đơn vị %)
Công thức:
IR =
P
I
IR: tỉ suất nhập cư.
I: số người nhập cư trong năm.
P: dân số trung bình năm.
Những khu vực có điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất của dân cư là nơi có tỉ suất
nhập cư cao. Thành phố là một trong những khu vực có sức hút đối với người nhập cư, đây
thường là nơi có tỉ suất nhập cư cao.
Tỉ suất x
uất cư
(
Emigration Rate - ER): tỉ số giữa số người di chuyển khỏi nơi sinh
sống trên tổng số dân của vùng mà họ chuyển đi (đơn vị %).
Công thức:
ER =
P
E