Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

hậu - luận văn Ths bảo vệ tháng 10 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.97 KB, 84 trang )

1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn giải
Basel Hiệp ước về giám sát hoạt động ngân hàng.
CIC Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng nhà nước
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
Vietinbank Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
Vietinbank
Chương Dương
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Chương
Dương
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại Vietinbank Chương DươngError: Reference
source not found
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn tại Vietinbank Chương Dương Error: Reference
source not found
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh các năm tại Vietinbank Chương Dương Error:
Reference source not found
Bảng 2.4: Hoạt động tín dụng tại Vietinbank Chương Dương giai đoạn 2007-2010
Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Hệ số thu nợ, vòng quay vốn tín dụng qua các năm tại Vietinbank
Chương Dương Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Phân loại dư nợ theo kỳ hạn tại Vietinbank Chương Dương Error:


Reference source not found
Bảng 2.7: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề tại
Vietinbank Chương Dương Error: Reference source not found
Bảng 2.8: Phân loại dư nợ theo nhóm nợ tại Vietinbank Chương Dương Error:
Reference source not found
Bảng 2.9: Phân loại dư cam kết bảo lãnh theo nhóm nợ tại Vietinbank Chương
Dương Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
4
PHẦN MỞ ĐẦU
5
1. Sự cần thiết của đề tài
Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu và là hoạt động
mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên tín dụng
là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao và gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhất trong
hoạt động ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ
nợ xấu cùng nhiều vấn đề phát sinh do mất khả năng kiểm soát tại một số ngân
hàng. Do đó, quản trị rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và
phát triển đi lên đối với các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương là
một trong những đơn vị dẫn đầu trong toàn hệ thống Ngân hàng Công thương về
hoạt động tín dụng. Tuy vậy, tình hình nợ quá hạn, nợ xấu vẫn còn tồn tại. Xuất
phát từ thực tế trên trên, đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương” được chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vể quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng thương mại.
Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương từ năm 2007 đến năm
2010.

Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại.
6
Phạm vi nghiên cứu: thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương trên cơ sở dữ liệu từ năm
2007 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích kinh tế.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
những nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
7
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Chương Dương
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng của NHTM
8
1.1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền tệ, do vậy
ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm ổn định

kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều phương
diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật Các Tổ chức tín
dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định nghĩa:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản
Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện chuyển vốn từ
người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư. Vì vậy, các hoạt động cơ
bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn
9
Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng thực hiện
huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi bắt đầu hoạt
động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho
khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã huy động được lượng tiền nhàn rỗi của các
doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp ứng được

nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng thương mại có thể thực
hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường
vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách của NHTM.
Ngoài các hình thức huy động trên, NHTM còn thực hiện việc huy động vốn chủ sở
hữu thông qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt
động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng
Nhà nước quy định… Hình thức huy động này tuy không thường xuyên song giúp cho
ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn khi cần thiết.
* Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động tín dụng, đầu
tư và trung gian khác.
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần
lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân
hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay, sau một khoảng thời gian
nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản.
Các loại chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân
quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán như chứng khoán Chính
phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính…
10
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp vốn với
các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách hàng để thu phí hoa
hồng…
1.1.1.3 Tập trung hoạt động tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể, trong đó
có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo những điều
kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như
tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan hệ tín dụng

bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được thực hiện
càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
1.1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của NHTM - hoạt động tín
dụng. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của
NHTM, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, song cũng tiềm ẩn rủi ro lớn.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả
gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Rủi ro
tín dụng là kết quả của việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và ngân hàng nhận
được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi
11
đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng. Song không thanh toán đúng hạn hoặc không trả
được đầy đủ cả gốc và lãi.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến mà ngân hàng
phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đầy đủ vốn và lãi hoặc trả không đúng hạn
hoặc không trả.
Như vậy, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ,
hoặc không trả đúng hạn gốc và lãi cho ngân hàng. Nói một cách khác, rủi ro tín dụng là
rủi ro mà bên vay trong một giao dịch không thực hiện được theo thời hạn và điều kiện
của hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính. Rủi ro tín dụng là

rủi ro phức tạp nhất, quản lý khó khăn nhất. Nó đòi hỏi ngân hàng phải có những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiểu những
thiệt hại có thể xảy ra.
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động ngân hàng ở
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các
ngân hàng. Vì thế, ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm
không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà trong toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn tìm
cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm lợi tức cao nhất có thể ở các món vay và chứng
khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay.
1.1.2.2 Đặc điểm rủi ro tín dụng
 Rủi ro tín dụng có tính tất yếu, khách quan:
Trước khi cho vay, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho
độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro
tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không phải bao giờ ngân hàng cũng dự tính chính
xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do
nhiều nguyên nhân. Nhiều trường hợp cán bộ tín dụng của ngân hàng không có khả năng
thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Mặt khác, do không thể có được thông tin cân
xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng đi vay (người
trực tiếp sử dụng tiền vay trong một khoảng thời gian dài), bất cứ một khoản cho vay nào
cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng (không thu hồi vốn, thu hồi không
12
đúng hạn, không đầy đủ…). Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín
dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín
dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
 Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp:
Tính chất đa dạng, phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện rõ nhất ở các hình thức
của rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.
Rủi ro giao dịch là rủi ro phát sinh trong quá trình ngân hàng xét duyệt và cho vay,
nó bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro
liên quan đến hoạt động thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro bảo đảm là rủi ro xuất

phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm của khoản tín dụng như các điều khoản trong hợp đồng
tín dụng, các loại tài sản đảm bảo và mức độ an toàn của tài sản đảm bảo. Rủi ro nghiệp
vụ là những rủi ro liên quan tới các quá trình thao tác nghiệp vụ tín dụng từ việc xây
dựng và thực hiện các chính sách tín dụng, xem xét và quản lý danh mục cho vay đến
việc xếp hạng tín dụng và xử lý các khoản vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại chỉ xuất
phát từ những đặc điểm riêng biệt của chủ thể đi vay hay của ngành kinh tế. Rủi ro tập
trung là rủi ro xảy ra khi mức dư nợ của ngân hàng tập trung vào một số khách hàng, một
số ngành kinh tế, một khu vực địa lý hoặc một số hình thức cho vay.
Như vậy, có thể thấy rủi ro tín dụng có thể phát sinh từ rất nhiều khâu trong quá
trình cấp tín dụng với tính chất đa dạng và phức tạp.
 Rủi ro tín dụng có khả năng tạo phản ứng dây chuyền:
Không chỉ là vấn đề quan trọng của hệ thống ngân hàng trong nước, rủi ro tín
dụng còn là mối quan tâm lớn của các hệ thống ngân hàng thế giới bởi một đặc tính có
tính quan trọng đối của rủi ro tín dụng là nó có tính lan truyền nhanh. Hoạt động ngân
hàng không chỉ giới hạn trong một nước mà nó còn có mối liên kết ra ngoài lãnh thổ.
Như vậy, một khi có rủi ro tín dụng lớn xảy ra thì không những các ngân hàng trong nước
bị ảnh hưởng mà các ngân hàng nước ngoài cũng bị ảnh hưởng theo, tuy mức độ ảnh
hưởng thấp hơn hoặc có thể cao hơn.
13
Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 97 bắt đầu ở Thái Lan không
những làm tê liệt hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực và còn ảnh hưởng tới
các cường quốc có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật bản… Năm 2007, cuộc khủng hoảng
trên thị trường cho vay nhà đất dưới tiêu chuẩn ở Mỹ đã tác động tiêu cực đến thị trường
tài chính thế giới. Hàng loạt các định chế tài chính ở Mỹ đã công bố những tổn thất nặng
nề mà họ phải gánh chịu xuất phát từ hậu quả của cuộc khủng hoảng này gây nên. Hơn
thế nữa, cuộc khủng hoảng này đã lan rộng sang một số nước khu vực Châu Âu, Nhật…
1.1.2.3 Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng, việc sử dụng cách phân loại như thế nào là
tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, mục đích quản lý. Đối với ngân hàng việc phân loại

có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và cả mô
hình tổ chức nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các yếu tố làm phát sinh rủi ro và phân biệt
trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa các khâu. Thực tế cho thấy, sự phân tách trách
nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể thì càng làm cho việc quản lý rủi ro hiệu quả.
1.1.2.3.1 Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành
các loại sau:
 Rủi ro giao dịch (Transactiong rish):
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là
do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng.
Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp
vụ.
 Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi
ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
 Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng
cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay
trên giá trị của tài sản đảm bảo.
 Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho
vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay
có vấn đề.
14
 Rủi ro danh mục (Porfolio rish):
Rủi do danh mục là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là
do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành
hai loại rủi ro là rủi ro nội tại (Intrinsic rish) và rủi ro tập trung (Concentration rish).
 Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên
trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt
động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
 Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số
khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực
kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có

rủi ro cao.
1.1.2.3.2. Theo hình thức tín dụng ta có thể đưa ra một số loại rủi ro chủ yếu như sau:
 Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn:
Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu cho
các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn (thường dưới 1 năm). Các
khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra qua tính toán hiệu quả đầu tư giản đơn và
nhanh chóng, lãi suất cho vay thấp, phương pháp này dễ xảy ra tình trạng khách hàng sử
dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng sai mục đích, gây thiệt hại cho
ngân hàng.
 Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn:
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có khối lượng
lớn, vòng quay vốn chậm (từ 1 năm trở lên) chủ yếu cấp vốn để mua tài sản cố định, cải
tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình và dự án lớn mà hiệu quả của công việc
đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến động về chính trị, xã hội, thiên tai
Những yếu tố có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những hoạt
động tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời gian thu
vốn của dự án, từ đó gây ảnh hưởng đến ngân hàng.
 Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
15
Chiết khấu là việc TCTD mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của
người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các
trường hợp sau:
- Thương phiếu giả mạo;
- Người nhận trả không có khả năng trả nợ.
 Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:
Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt
quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu
của người cho thuê.
1.1.2.3.3.Theo hình thức quản lý thì rủi ro tín dụng bao gồm hai loại:
 Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được:

Đối với rủi ro này ngân hàng phần nào dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro, ước
tính được mức độ ảnh hưởng của rủi ro, đồng thời dự kiến được thời gian phát sinh, từ đó
có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ở mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra cho
ngân hàng. Những rủi ro này thường do tính chủ quan của con người gây ra, có thể do
khách hàng gây ra như kinh doanh kém hiệu quả hoặc quản lý yếu kém, có thể do nguyên
nhân từ phía ngân hàng như không tuân thủ nguyên tắc cũng như quy trình thẩm định,
năng lực, đạo đức của cán bộ tín dụng…nhưng thông thường là do khách hàng gây ra rủi
ro này.
 Rủi ro tín dụng không kiểm soát được:
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng không thể dự đoán trước được, không biết chúng
sẽ xảy ra vào thời điểm nào, cũng như không thể tính toán một cách chính xác được
những ảnh hưởng thiệt hại mà chúng gây ra. Những rủi ro này chủ yếu do những bất lợi
về yếu tố tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn, do những thay đổi cơ chế cũng
như chính sách của nhà nước.
Ngoài ra, còn nhiều hình thức phân loại khác nhau như phân loại theo đối tượng
sử dụng vốn vay thì có thể có 3 nhóm chính là rủi ro khách hàng tổng thể, rủi ro khách
hàng công ty hay tổ chức kinh tế, rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý; phân loại theo giai
đoạn phát sinh thì bao gồm rủi ro trong thẩm định, rủi ro khi cho vay, rủi ro trong quản lý
16
thu hồi nợ; phân loại theo sản phẩm tín dụng thì bao gồm rủi ro sản phẩm tín dụng nội
bảng, rủi ro các sản phẩm phái sinh
1.1.2.3.4. Quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các rủi ro khác trong kinh doanh của NHTM
Hoạt động ngân hàng là hoạt động trên lĩnh vực rủi ro, vì vậy hoạt động ngân hàng
vốn dĩ đã hàm chứa nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất và nguy
hiểm nhất. Nhưng trong hoạt động ngân hàng thì bản thân rủi ro tín dụng lại không hoàn
toàn độc lập mà nó tác động qua lại với các rủi ro khác như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất,
rủi ro thanh khoản Chính vì vậy, việc chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng mà không nói đến
các loại rủi ro khác là không đầy đủ và sẽ làm cho các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng
trong thực tế kém phát huy hiệu quả.
Các loại rủi ro có mối liên hệ với nhau rất phức tạp. Khi rủi ro tín dụng xảy ra,

khách hàng không trả được nợ rất có thể kéo theo rủi ro thanh khoản do ngân hàng thiếu
hụt tiền mặt để trang trải nghĩa vụ tài chính đến hạn. Đối với các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển, việc các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các
thông tin của ngân hàng đòi hỏi phải công khai minh bạch để công chúng giám sát, thì rủi
ro tín dụng có liên hệ chặt chẽ đối với rủi ro uy tín: khoản nợ xấu nếu không được quản
trị một cách chủ động sẽ dẫn đến không ổn định về lợi nhuận, từ đó làm giảm lòng tin của
công chúng. Nghiêm trọng hơn, tỉ lệ nợ quá hạn tăng cao sẽ gây tâm lý hoang mang cho
công chúng gửi tiền, dẫn đến khủng hoảng của cả hệ thống ngân hàng, thậm chí cả nền
kinh tế ở phạm vi quốc gia và khu vực. Hoặc những rủi ro hoạt động gây ra bởi sự gian
dối của nhân viên ngân hàng có thể tạo ra các khoản vay không đảm bảo về hồ sơ, về
chất lượng thẩm định đều có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng. Hoặc khi môi trường
chung của nền kinh tế đi xuống, tình trạng ế ẩm hàng hoá, sức mua giảm, khách hàng vay
suy giảm khả năng trả nợ làm gia tăng tín dụng xấu; từ đó có thể thấy khi xảy ra rủi ro
kinh doanh thì có thể dễ dàng dẫn đến rủi ro tín dụng.
Như vậy, các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng vừa có tính độc lập, vừa liên
kết chặt chẽ với nhau, thậm chí có những nội dung trùng lên nhau. Điều này có nghĩa là
khi một loại rủi ro xảy ra sẽ kéo theo các loại rủi ro khác xảy ra. Có thể hình dung mối
quan hệ giữa các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng thông qua sơ đồ sau:
17
Rủi ro tín dụng
Rủi ro thị
trường
Rủi ro hoạt động
Rủi ro môi trường
Rủi ro kinh doanh
Sơ đồ 1.2: Rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác
Bên cạnh việc chỉ rõ các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, thì các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mối quan hệ đó là quan hệ phi
tuyến. Khi một loại rủi ro xảy ra, thì đồng loạt các rủi ro khác cũng xảy ra và làm trầm
trọng hơn nữa loại rủi ro ban đầu.

Tất cả các vấn đề nghiên cứu ở trên cho thấy: quá trình quản trị rủi ro tín dụng cần
phải đặt rủi ro tín dụng trong mối quan hệ tổng thể với các loại rủi ro khác, chính sách và
18
quy trình quản trị rủi ro tín dụng phải bao quát từ khâu đầu đến khâu cuối của một khoản
vay, hoặc xử lý rủi ro theo qui định, trong mỗi khâu tác nghiệp phải có sự phát hiện rủi ro
tiềm tàng gây ra rủi ro tín dụng, để đánh giá, lượng hoá nhằm chủ động xử lý. Thực tế
hoạt động của các NHTM hiện đại đều có một hệ thống tập trung quản lý rủi ro hoạt động
ngân hàng, thay vì chỉ chú trọng quản trị riêng lẻ một loại rủi ro nào đó.
1.1.2.4 Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
 Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng:
 Trì hoãn hoặc gây khó khăn đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc
đột suất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
 Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan
hệ tín dụng.
 Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích
minh bạch, thuyết phục.
 Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
 Đề nghị gia hạn điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu căn cứ thuyết
phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ.
 Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, xuất hiện nhiều thay
đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu
chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng.
 Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn.
 Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
 Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không
muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi con nợ chậm hơn dự tính.
 Tài sản bảo đảm không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho
vay. Có dấu hiện tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất,
không còn tồn tại.

 Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối
thủ cạnh tranh của ngân hàng.
19
 Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện.
 Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động sản
xuất kinh doanh của khách hàng:
 Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách
hàng đề nghị cấp tín dụng.
 Nhiều thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của
khách hàng.
 Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong
chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn
phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.
 Thay đổi thường xuyên ban điều hành.
 Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình
quản lý.
 Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới.
 Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng:
 Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách
hàng về việc duy trì, khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản
tín dụng được cấp. Đặc biệt một số ngân hàng có khuynh hướng cạnh tranh thái quá,
giảm thấp lãi suất cho vay phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng
bằng những khoản tín dụng mới – tiềm ẩn nhiều rủi ro cao.
 Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng, năng lực kiểm soát cũng như
nguồn vốn của ngân hàng.
 Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng,
không xê dịch hoàn trả đối với từng khoản vay, có ý thoả hiệp các nguyên tắc tín dụng
với khách hàng dù biết có tiềm ẩn rủi ro (liên quan đến rủi ro đạo đức của nhân viên tín
dụng).
 Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng.

 Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn thị
trường tối ưu của ngân hàng.
20
 Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ. Các quy định
hiện hành phê duyệt tín dụng.
1.1.2.5 Hậu quả khi xảy ra rủi ro tín dụng
1.1.2.5.1 Đối với ngân hàng
 Rủi ro tín dụng ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng không thu được gốc và lãi theo đúng
thời hạn trong hợp đồng tín dụng, thậm chí còn làm mất vốn của ngân hàng. Từ đó, rủi ro
tín dụng sẽ làm giảm tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng, dẫn tới làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Mặt khác, hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, nếu các
khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn trong khi đó các
khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn. Trong lúc không huy động được vốn do mất
uy tín, người rút tiền ngày càng tăng lên kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu
thanh toán.
 Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng:
Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của
NHTM, phần lớn thu nhập của ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi
xảy ra rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi phát sinh
các khoản nợ quá hạn, ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu
nợ, chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng thời,
khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho ngân hàng hoặc rất ít, không
đáng kể, trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được, điều này
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro tín dụng thì không chỉ làm
giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ các
hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn
tới các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng
tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm

21
hãm các hoạt động khác, làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính
của ngân hàng.
 Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng
Khi xảy ra rủi ro tín dụng, ngoài những tổn thất về tài chính, những thiệt hại về uy
tín của ngân hàng, mất lòng tin xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều.
Một ngân hàng có mức độ rủi ro tín dụng cao, có chất lượng tín dụng không tốt và
gây ra nhiều vụ thất thoát lớn thường đứng trước nguy cơ mất uy tín trên thị trường.
Thông tin về việc một ngân hàng có mức độ rủi ro cao thường được báo chí thông báo và
lan truyền trong dân chúng, điều này sẽ khiến cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp
rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc giảm uy tín còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của ngân hàng đó, càng làm cho hoạt động của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn.
Mặt khác, khi ngân hàng xảy ra nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ gây mất
lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại ngân
hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền thì
hậu quả là thị phần của ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và do đó
ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những người gửi
tiền tại ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó ngân hàng không có
những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng
xấu lan ra trong toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1.1.2.5.2. Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong nền
kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín dụng xảy ra làm
ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay, do đó rủi
ro tín dụng làm giảm vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp
vốn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư
cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với
các tổ chức kinh tế, do đó khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể gây tổn thất lan truyền đến mọi
tổ chức kinh tế và cá nhân khác. Người gửi tiền bị mất tiền, người vay tiền gặp khó khăn

22
trong việc huy động vốn dẫn tới tăng chi phí huy động vốn hoặc thiếu vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khó có thể thanh toán nợ
vay sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế cũng như với các ngân hàng khác mà doanh nghiệp
đó vay vốn.
Mặt khác, hoạt động ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của một
ngân hàng có ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Khi một ngân hàng đối mặt với tình
trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng, dẫn đến
mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc đó rất có thể ngân hàng sẽ
mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống
ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước.
Nhìn chung, hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những
hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Rủi ro được xem như một yếu tố không thể
tách rời với quá trình hoạt động của NHTM. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp
đôi, bởi ngân hàng không những phải hứng chịu rủi ro do những nguyên nhân chủ quan
của mình mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong
hoạt động ngân hàng có thể gây ra tai họa to lớn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro của các
loại hình doanh nghiệp khác. Tính chất lan truyền của nó có thể làm ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ thống kinh tế.
Hoạt động NHTM gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tựu chung lại, đây là loại hình
kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của
khách hàng (dưới hình thức nhận tiền gửi huy động bằng trái phiếu, kỳ phiếu…) với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán.
NHTM tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ
bằng vốn tự có mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Nếu NHTM không thu
hồi được số nợ mà họ đã cho vay thì NHTM không những bị mất vốn tự có của bản thân
mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì vậy,
tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đối với NHTM là phải thường xuyên thu hồi
được số vốn đã cho vay để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và
bảo toàn vốn tự có của bản thân.

23
Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày càng lớn,
chính vì vậy công tác giảm thiểu rủi ro tín dụng để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
NHTM là rất cần thiết và là một nhu cầu tất yếu khách quan.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động của ngân hàng chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi từ những chủ thể thừa
vốn để cho những người thiếu vốn vay với mục đích thu hồi được tiền gốc và lãi cho vay
vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, cùng với thời gian, hoạt động
cho vay của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro khiến ngân hàng không thể thu hồi gốc và
lãi đúng hạn.
Bên cạnh đó, rủi ro và lợi nhuận là 2 mặt của một vấn đề, muốn có lợi nhuận phải
chấp nhận rủi ro, nếu không chấp nhận rủi ro sẽ không bao giờ thu được lợi nhuận. Do
đó, không phải có hay không có rủi ro, mà việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các
NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên lý thuyết và thực tiễn. Mục đích của
quản trị rủi ro tín dụng là nhằm tối đa hoá lợi nhuận và duy trì rủi ro tín dụng trong phạm
vi ngân hàng có thể chấp nhận được.
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình tiếp cận rủi ro tín dụng một cách khoa học,
toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những
tổn thất, mất mát và những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro tín dụng.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của quản trị rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng:
Chiến lược quản trị rủi ro của ngân hàng là hệ thống các quan điểm, các mục đích
và mục tiêu cơ bản cùng các giải pháp, chính sách nhằm sử dụng một cách tốt nhất các
nguồn lực, lợi thế của NHTM nhằm đạt được các mục đích, mục tiêu đặt ra trong việc
kiểm soát rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường biến động phức tạp, một chiến lược quản trị
rõ ràng, chính xác trong dự báo đảm bảo cho bản thân các ngân hàng có thể linh hoạt
trong phòng ngừa và xử lý rủi ro có thể xảy ra. Nó góp phần định hướng cho các hoạt
động tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Chiến

24
lược này có thời hạn trong thời gian dài, nó quyết định đến sự tồn tại của cả ngân hàng, là
điều kiện tiên quyết trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.
Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng hợp lý phải xây dựng trên những căn cứ:
 Một là, nguồn vốn của ngân hàng bao gồm cả vốn huy động, và vốn chủ sở hữu. Dựa vào
quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư, loại hình cho vay phù hợp.
 Thứ hai, các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng đến nhu cầu tín
dụng của thị trường. Do đó, ngân hàng cần phải có sự phù hợp thống nhất đối với các
điều chỉnh vĩ mô của Chính phủ.
 Thứ ba, các quy định của cơ quan quản lý, với các chính sách, văn bản pháp quy đã được
ban hành, các ngân hàng phát triển theo hướng chủ động kinh doanh và hoàn toàn tự chịu
trách nhiệm trước những hoạt động của mình.
 Thứ tư, thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ của đội ngũ cán
bộ công nhân viên chức là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động của ngân hàng trên
những khu vực thị trường nhất định. Chính những nhân tố này sẽ phát huy lợi thế cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.
 Thứ năm, căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng, đây là những phân tích mang tính chất kỹ thuật,
kinh tế, chính trị, xã hội, điển hình là những phân tích dự báo về tình hình tài chính tiền
tệ như lãi suất, lạm phát
 Thứ sáu, căn cứ vào hệ thống các nguyên tắc quản trị rủi ro cụ thể: chiến lược quản trị rủi
ro phải phù hợp với chiến lược phát triển và chính sách tín dụng của ngân hàng trên cơ sở
tuân thủ các quy tắc tín dụng đề ra.
Ngân hàng cần có một bộ phận quản trị rủi ro tín dụng riêng, hoạt động độc lập
với các bộ phận kinh doanh khác trong ngân hàng, đảm bảo sự độc lập của nhà quản trị
rủi ro trong việc nhìn nhận các rủi ro riêng của từng bộ phận kinh doanh cũng như toàn
cảnh rủi ro của ngân hàng.
Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro trên cơ sở ngân hàng thực hiện phân cấp, phân
quyền hợp lý, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm trên cơ sở thực
25

hiện toàn bộ danh mục cho vay cũng như đối với từng khoản vay riêng lẻ. Xây dựng
chiến lược quản trị rủi ro phải được đặt trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác, phải
được thực hiện đồng thời các công việc như xác định, định lượng, giám sát và quản trị rủi
ro tín dụng cũng như thực hiện dự phòng rủi ro đủ để bù đắp tổn thất khi rủi ro tín dụng
xảy ra.
1.2.2.2 Xây dựng và tổ chức bộ máy điều hành:
Để đưa các chiến lược, chính sách đề ra vào thực tế, ngân hàng phải xây dựng một
cơ cấu tổ chức hiệu quả trên các nguyên tắc đảm bảo sự minh bạch, công khai, có xác
định rõ vai trò và trách nhiệm trong cơ cấu và phân tách nhiệm vụ trong triển khai hoạt
động.
-Sự minh bạch và công khai: các chính sách đưa ra phải được cụ thể hoá thành các
văn bản rõ ràng và phổ biến cho tất cả các cán bộ thực thi. Trong đó, phải nêu rõ chức
năng, nghĩa vụ, quyền hạn của các cán bộ thực hiện. Những quy định, quy trình tác
nghiệp phải tuân thủ và hướng tới chiến lược phát triển tín dụng của Ban điều hành đã đề
ra.
-Xác định vai trò và trách nhiệm: xác định rõ ràng đảm bảo những quyết định quan
trọng liên quan đến các chiến lược tín dụng, tính điểm tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
được đưa ra bởi một tập thể có kinh nghiệm và kiến thức phù hợp. Ngoài ra, việc xác
định rõ trách nhiệm sẽ đảm bảo các công việc được thực thi một cách tốt nhất và có thể
kiểm soát được.
-Việc phân tách nhiệm vụ: phân tách một cách hợp lý sẽ giảm thiểu khả năng xảy ra
các lỗi không thể phát hiện hoặc có sự không tuân thủ các quy định đã đề ra. Việc này có
thể được tiến hành bằng cách phân chia công việc cho các nhân viên khác nhau trong các
giai đoạn khác nhau của quá trình tín dụng cùng với tiến hành kiểm tra độc lập. Một quy
trình tốt cần đảm bảo việc phân tích tín dụng, giám sát tín dụng và kiểm tra tín dụng phải
được phân chia một cách độc lập theo sự phân nhiệm và tránh xung đột quyền lợi.

×