Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tổng quan khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 15 trang )



Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -2- CBHD: TS. Trần Lê Quan
2. TỔNG QUAN
2.1 Mô tả thực vật
2.1.1 Vài nét về họ Cucurbitaceae
[1]

Họ Bầu bí (Cucurbitaceae) là họ thực vật chứa một số loài được biết
đến nhiều như bầu (Lagenaria siceraria), bí ngô (chi Cucurbita), mướp (chi Luffa),
dưa hấu (Citrullus vulgaris), dưa vàng (Cucumis melo) và dưa chuột (Cucumis
sativus).
Họ Bầu bí là một trong những họ quan trọng nhất trong việc cung cấp
thực phẩm trên thế giới, có 125 chi với khoảng 960 loài phân bổ rộng khắp, chủ yếu
tại khu vực nhiệt đới và ôn đới (ở Việt Nam có khoảng 50 loài). Phần lớn các loài
trong họ này là các loại dây leo sống một năm với hoa khá lớn và sặc sỡ.
2.1.2 Chi Gynostemma
[2]

Chi Gynostemma cũng được gọi chung là giảo cổ lam. Hiện nay trên
thế giới có khoảng 21 loài thuộc chi này với năm loài đã được tìm thấy ở Việt Nam
trong đó có G. laxum (giảo cổ lam ba lá, cổ yếm lá bóng), G. pubescens (giảo cổ
lam bảy lá, thất diệp đởm), G. pentaphyllum (giảo cổ lam năm lá, ngũ diệp sâm)
2.1.3 Giới thiệu về cây giảo cổ lam


2.1.3.1 Tên gọi
[2], [3], [4]


Giảo cổ lam có tên khoa học là G. pentaphyllum (Thunb.)
Makino thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), còn gọi là cam trà vạn, cây trường sinh,
cây cỏ thần kỳ, cây bổ đắng, sâm phương nam, dây lõa hùng, trường sinh thảo, ngũ
diệp sâm, phúc âm thảo, 绞股蓝 (jiaogulan, Trung Quốc), 甘茶蔓 (amachazuru,
Nhật Bản), dungkulcha (Hàn Quốc), cha-satun (Thái Lan).
2.1.3.2 Mô tả cây
[2]

Giảo cổ lam là một loài cây thảo có thân mảnh, leo nhờ tua
cuốn đơn ở nách lá. Cây đực và cây cái riêng biệt. Lá kép hình chân vịt.


Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -3- CBHD: TS. Trần Lê Quan

Hình 1: Lá cây giảo cổ lam Hình 2: Quả cây giảo cổ lam

Cụm hoa hình chùy mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, các cánh
hoa rời nhau xòe hình sao, bao phấn dính thành đĩa, bầu có ba vòi nhụy. Cây ra hoa
vào tháng 7-8, có quả chín từ tháng 9 đến tháng 10.

Hình 3: Hoa cây giảo cổ lam

Quả khô hình cầu, đường kính 5 - 9 mm, khi chín màu đen.
2.1.3.3 Môi trường sống và thu hái
[4]

Giảo cổ lam mọc tự nhiên ở độ cao 300–3200 m tại các cánh
rừng hoặc thung lũng trên núi, những nơi ẩm thấp như bên bờ suối, trong các bụi

cây, phân bố rộng rãi ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ,
Nepal, Bangladesh, Sri Lanka, Lào, Myanmar, Việt Nam.
Giảo cổ lam được lần đầu tiên phát hiện vào năm 1976 tại Nhật
Bản. Tuy nhiên, giảo cổ lam đã được các bộ lạc sống trên núi cao sử dụng từ hơn


Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -4- CBHD: TS. Trần Lê Quan
500 năm trước đó với mục đích kéo dài tuổi thọ. Tuổi thọ bình quân của họ đạt
được rất cao đến gần trăm tuổi.
Ở Việt Nam, GS.TS. NGND Phạm Thanh Kỳ (nguyên Hiệu
trưởng trường đại học Dược Hà Nội, Chủ nhiệm Bộ môn Dược liệu) lần đầu tiên
phát hiện thấy cây này trên núi Phanxipang (Lào Cai) vào năm 1997, sau đó được
GS.TS. NGND. Vũ Văn Chuyên xác định tên khoa học chính xác. Hiện nay, giảo cổ
lam cũng đã được tìm thấy trên những vùng núi cao ở các tỉnh phía Bắc như Cao
Bằng, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Giang, Hòa Bình.
2.1.3.4 Tính vị và công năng
[4], [5], [6]

Theo y học cổ truyền Trung Quốc, giảo cổ lam có vị đắng, tính
bình, cường dương, bổ âm với rất nhiều tác dụng như:
ü Tăng sức đề kháng cho cơ thể, chống viêm và nhiễm
trùng
ü Tác dụng làm hạ mỡ máu, nhất là giảm cholesterol toàn
phần, ngăn ngừa xơ vữa mạch máu, chống huyết khối và bình ổn huyết áp, phòng
ngừa các biến chứng tim mạch, não.
ü Chống lão hoá, giảm căng thẳng mệt mỏi, giúp tăng lực,
tăng khả năng làm việc. Tăng cường hệ miễn dịch, ngăn ngừa sự hình thành và phát
triển của khối u.

ü Giúp dễ ngủ và ngủ sâu giấc, tăng cường máu lên não,
ngăn ngừa chứng lú lẫn ở người già.
ü Rất tốt cho tế bào gan, tăng cường chức năng giải độc
của gan
ü Điều chỉnh rối loạn chuyển hoá mỡ nên làm giảm béo
tốt, nhất là béo bụng, đùi.
Hiện nay ở Việt Nam, giảo cổ lam đã được sử dụng như một
loại thực phẩm chức năng bào chế dưới các dạng trà túi lọc, viên nang, chai nước
giải khát rất thuận tiện cho người tiêu dùng.


Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -5- CBHD: TS. Trần Lê Quan
2.2 Thành phần hóa học
Chi Gynostemma nổi tiếng với thành phần saponin trong đó nhiều loại
saponin rất giống với thành phần saponin có trong nhân sâm, có tác dụng rất tốt cho
sức khỏe về phòng ngừa và chữa bệnh. Khi so sánh hàm lượng saponin giữa một số
loài cùng chi, loài G. pentaphyllum được biết đến với hàm lượng saponin cao nhất
trong chi này, kế đến là G. pubescens và thấp nhất là G. longipes
[7]

Thành phần hóa học chủ yếu của giảo cổ lam là saponin và flavonoid. Các
saponin trong cây giảo cổ lam (còn gọi là gypenosid hay gynosaponin) có cấu trúc
triterpen khung dammaran, trong đó có nhiều hợp chất đã được xác định có trong
thành phần saponin trong nhân sâm và tam thất. Ngoài ra, giảo cổ lam còn chứa các
carotenoid, polysaccharid, sterol, các acid amin tan trong nước, nhiều vitamin và
các nguyên tố vi lượng như Zn, Fe, Se.
[6]


2.2.1 Các carotenoid
[8], [9]

Vai trò của các carotenoid đã được chứng minh có tác dụng ngăn
ngừa các căn bệnh mãn tính. Ví dụ như lutein làm giảm nguy cơ thoái hóa điểm
vàng và nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, lycopen và β-caroten ức chế sự tổng
hợp các cholesterol, do đó có khả năng làm tăng sự thoái biến các lipoprotein có
phân tử lượng thấp.
Năm 2004, H. L. Liu và các cộng sự đã xác định một số carotenoid có
trong cây giảo cổ lam bằng phương pháp HPLC, trong đó nhiều nhất là trans-lutein,
kế đến là cis-lutein, các carotenoid như neochrom, neoxanthin, trans-α-caroten,
auroxanthin, violaxanthin, luteoxanthin, β-cryptoxanthin, các đồng phân cis- và
trans-β-caroten.
OH
HO
H
1
trans-Lutein



Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -6- CBHD: TS. Trần Lê Quan
2.2.2 Các polysaccharid
[10]

Năm 2008, tác giả Xingbin Yang và các cộng sự đã xác định được
rằng glucose là monosaccharid chiếm nhiều nhất trong tổng lượng đường hiện diện
trong cây giảo cổ lam với 23.2 %, kế đến là galactose chiếm 18.9 %, arabinose 10.5

%, rhamnose 7.7%, acid galacturonic 4.7 %, xylose 3.9 %, mannose 3.1 %, và acid
glucuronic 1.2 %, ngoài ra còn có một lượng nhỏ ribose và fucose.
2.2.3 Các sterol
[6], [11], [12]

Năm 1989, tác giả Marino và các cộng sự đã xác định trong cây giảo
cổ lam có sự hiện diện của các sterol thường gặp như ergostanol, sitosterol và
stigmasterol với hàm lượng rất thấp (khoảng 0.0001%). Các dẫn xuất thế 24,24-
dimetylcholestanol cũng được Akihisa tìm thấy vào năm 1988-1989 trong các loại
cây thuộc họ Cucurbitaceae. Chondrillasterol (2) và spinasterol (3), hai xuyên lập
thể phân tại C-24, là hai sterol chính có trong cây này. Ngoài ra, các acetylen sterol
đầu tiên (4, 5, 6, 7) cũng được cô lập từ cây giảo cổ lam vào năm 1989.




Khảo sát thành phần hóa học cây giảo cổ lam Gynostemma pentaphyllum

HVCH: Đào Thị Ngọc Minh -7- CBHD: TS. Trần Lê Quan
2.2.4 Các flavonoid
[6], [13]

Sự hiện diện của nhiều flavonoid trong cây giúp cho giảo cổ lam có
hoạt tính sinh học cao, có khả năng chống lão hóa, rất tốt cho sức khỏe. Năm 1989,
Fang và Zeng đã cô lập được rutin và ombuosid (8a). Quercetin và ombuin (8b)
cũng được xác nhận. Bên cạnh đó, vitexin (9) lần đầu tiên được cô lập từ cây giảo
cổ lam bởi Yin và các cộng sự.

2.2.5 Các saponin
[7], [14]


Tổng hàm lượng saponin trong cây giảo cổ lam khô vào khoảng 2.4%.
Hàm lượng này cao nhất trước khi cây ra hoa. Ngoài ra, khi thu hái cây vào những
thời điểm khác nhau hay tại những vùng đất khác nhau thì tổng hàm lượng saponin
cũng sẽ khác nhau.


Từ năm 1976 đến nay các nhà khoa học trên thế giới, chủ yếu từ Nhật
Bản và Trung Quốc, đã cô lập được trên 100 triterpen saponin từ cây giảo cổ lam.
Các saponin này được gọi là gypenosid (gypenosid I – LXXIX) hay gynosaponin.
Cấu trúc của các gypenosid chủ yếu có khung sườn dammaran cũng là khung sườn
chính của các saponin hiện diện trong nhân sâm. Có tám ginsenosid của nhân sâm
cũng được cô lập từ giảo cổ lam. Đó là các triterpen saponin có khung
protopanaxadiol ginsenosid Rb
1
, Rb
3
, Rd, F
2
, Rg
3
, malonyl-Rb
1
, malonyl-Rd và một
ginsenosid có khung protopanaxatriol là ginsenosid Rf. Gypenosid XVII, IX (cũng
là notoginsenosid Fd) và XV cũng được tìm thấy trong cây tam thất P. notoginseng,
trong khi gypenoside XVII và IX được tìm thấy trong cây sâm Mỹ P.
quinquefolium. Các ginsenosid này chiếm khoảng 25% tổng saponin có trong cây
giảo cổ lam.

×