Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Lý thuyết y khoa: Tên thuốc DOBUTREX ELI LILLY ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.28 KB, 14 trang )

DOBUTREX
ELI LILLY
Thuốc tiêm 250 mg : hộp 1 lọ - Bảng A.
THÀNH PHẦN
<="" a="">
cho 1 lọ

Dobutamine hydrochloride 250 mg

DƯỢC LỰC
<="" a="">
Dobutrex có thành phần là dobutamine hydrochloride có tên hóa học là (+/-)-4-
[2-[ [3-(p-hydroxyphenyl-1-methylpropy] amino]ethyl]-pyrocatechol
hydrochloride. Đây là một catecholamine tổng hợp có tác dụng chủ vận trên
các receptor a-1, b-1, và b-2.
Dobutrex là thuốc có tác dụng trực tiếp trên sự co sợi cơ tim, do chủ yếu kích
thích các receptor adrenergic ở tim; tác dụng ở mức độ vừa phải trên : sự điều
nhịp, sự tăng huyết áp, tính gây loạn nhịp và tác dụng giãn mạch. Ngược lại
với dopamine, thuốc không làm tăng tiết norepinephrine (noradrenaline), và tác
động của thuốc không phụ thuộc vào kho dự trữ norepinephrine ở tim. Nghiên
cứu trên súc vật, so với isoproterenol, tác dụng trên sự co sợi cơ tim của
Dobutrex ít gây tăng nhịp tim và ít làm giảm sự đề kháng của mạch ngoại biên
hơn.
Ở người, Dobutrex làm tăng thể tích mỗi nhát bóp và cung lượng tim, làm
giảm áp lực đổ đầy tâm thất, giảm sức đề kháng của mao mạch phổi và của
mạch toàn thân. Đường cong biểu diễn chức năng của tâm thất thay đổi nhô
cao hơn và lệch về phía trái, phản ánh sự gia tăng sức co bóp cơ tim.
Nhịp tim không tăng nhiều ở liều thông thường của Dobutrex ; tuy nhiên với
liều cao (thường với liều lớn hơn 10 mg/(kg.phút)) có thể gây tăng nhịp tim
đáng kể.
Huyết áp động mạch thường không thay đổi khi dùng Dobutrex, vì tác dụng


tăng cung lượng tim được cân bằng đồng thời bởi sự giảm sức đề kháng ngoại
biên. Đã có những báo cáo về sự tăng và hạ huyết áp động mạch. Người bệnh
có tiền sử cao huyết áp, ngay cả những lúc có huyết áp bình thường hình như
đáp ứng về huyết áp cũng nhạy hơn.
Ở súc vật, Dobutrex cải thiện được tình trạng co mạch máu phổi do thiếu oxy.
Kết quả là có thể làm tăng tưới máu ở các vùng kém thông khí. Ở một vài bệnh
nhân, tác động này của Dobutrex có thể làm giảm độ bão hòa oxygen trong
máu động mạch, nhưng ở mức độ kém hơn nếu so với dopamine hoặc
isoproterenol ; ở những bệnh nhân này, do Dobutrex làm tăng cung lượng tim,
nên kéo theo làm tăng vận chuyển oxygen. Dobutrex có thể ngăn ngừa hoặc
hạn chế phần nào tình trạng giảm cung lượng tim ở bệnh nhân thở máy với áp
lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP).
Dobutrex không có tác dụng trên receptor của dopamine, do đó không có tác
dụng chọn lọc làm giãn các mao mạch thận và nội tạng. Dobutrex có thể cải
thiện lưu lượng máu đến thận, tốc độ lọc cầu thận, lưu lượng nước tiểu và sự
bài tiết natri bằng cách gia tăng cung lượng tim và làm giãn mạch không chọn
lọc.
Dobutrex cũng làm tăng co bóp sợi cơ tim ở trẻ em, tuy nhiên đáp ứng huyết
động học hơi khác so với ở người lớn. Mặc dầu cung lượng tim tăng ở trẻ em,
nhưng đề kháng mạch toàn thân và áp lực đổ đầy thất có khuynh hướng ít giảm
hơn, trong khi nhịp tim và huyết áp động mạch lại tăng nhiều hơn so với ở
người lớn. Áp lực động mạch phổi bít có thể tăng khi truyền Dobutrex ở trẻ em
dưới 12 tháng tuổi.
Dobutrex làm tăng dẫn truyền nhĩ-thất trong những nghiên cứu về điện sinh lý
ở người, và ở người bệnh bị rung nhĩ.
Giống như tất cả các thuốc có tác dụng trên sự co sợi cơ tim, Dobutrex làm
tăng nhu cầu tiêu thụ oxy ở cơ tim. Dobutrex cũng làm tăng lưu lượng máu
mạch vành và tăng cung cấp oxy cho cơ tim. Nhu cầu oxy thay đổi tùy thuộc
vào nhiều yếu tố, bao gồm :
- thay đổi thể tích tâm thất, kết quả là xác định được mức độ áp lực thành tâm

thất cần để tạo nên áp lực trong tâm thất ở thời kỳ tâm thu.
- thay đổi hậu tải, thường tương ứng với các thay đổi trong huyết áp tâm thu.
- những thay đổi về nhịp tim.
Trên người bệnh suy tim và giãn tim sử dụng thuốc có tác dụng làm tăng co sợi
cơ tim, sẽ làm giảm đường kính tâm thất, nhu cầu oxy có thể hơi gia tăng hoặc
không gia tăng chút nào, kết quả là hậu tải và nhịp tim không gia tăng đáng kể.
Nói chung, Dobutrex không gây mất cân bằng giữa cung và cầu oxy cả ở súc
vật thử nghiệm và ở người bệnh tim. Sự cung cấp oxy thường vượt hơn sự gia
tăng tiêu thụ oxy khi truyền Dobutrex, do đó độ bão hòa oxy trong máu xoang
mạch vành tăng lên. Tỷ số chiết xuất acid lactic ở động mạch-tĩnh mạch, một
bằng chứng gián tiếp của sự chuyển hóa hiếu khí, thường ổn định trong suốt
quá trình truyền Dobutrex. Trong một vài trường hợp, độ chiết xuất lactate
trong cơ tim có thể giảm. Ở một vài bệnh nhân có thấy tăng sản lactate, điều
này đặc biệt xảy ra khi nhịp tim và/hoặc huyết áp động mạch tăng quá mức
trong lúc truyền Dobutrex hoặc khi sự suy chức năng tâm thất không gặp trước
khi dùng thuốc.
Ở người bệnh có cơn đau thắt ngực và không suy tim, truyền Dobutrex có tác
dụng giống như vận động gắng sức, nhu cầu oxy của cơ tim tăng vượt quá khả
năng cung cấp oxy của mạch vành, do đó sẽ có những biểu hiệu lâm sàng của
chứng thiếu máu cơ tim có hồi phục. Những triệu chứng này gồm cơn đau thắt
ngực, ST chênh xuống, khiếm khuyết tưới máu khi chụp với nhấp nhánh đồ
thallium, và thành tim có những co bóp mới bất thường.
Ở người bệnh nhồi máu cơ tim cấp được điều trị với Dobutrex trong 24 giờ,
kích thước vùng nhồi máu không lan rộng, tỷ lệ và mức độ nguy hiểm của loạn
nhịp thất không tăng, nếu so sánh với các bệnh nhân tương tự không được điều
trị với Dobutrex. Ở súc vật, dùng Dobutrex ngay sau khi cột thắt động mạch
vành, diện tích vùng nhồi máu sẽ thu nhỏ lại, nếu so sánh với nhóm súc vật
chứng chỉ sử dụng dung dịch muối hoặc dopamine. Ở một nhóm súc vật khác
có nhồi máu cơ tim thực nghiệm được truyền Dobutrex với những liều lượng
làm tăng nhịp tim và tăng co bóp cơ tim, trên điện tâm đồ có những dấu hiệu

gia tăng thiếu máu cơ tim. Những nghiên cứu gần đây trên súc vật cho thấy
chức năng của tim kém đi, và khả năng lan rộng của những tổn thương cơ tim
trên thực nghiệm do những thuốc làm co sợi cơ tim, kể cả Dobutrex, là do tác
dụng làm tăng nhịp tim hơn là tác dụng gây tăng sức co bóp cơ tim. Khi thuốc
được truyền với những liều lượng gây tăng sức co bóp cơ tim đáng kể, mà ít
gây tăng nhịp tim, thì sẽ không có bằng chứng tổn thương thêm cho cơ tim.
Truyền Dobutrex với tốc độ dưới 1 giờ ở người bệnh suy tim sung huyết sẽ làm
tăng cung lượng tim và giảm áp lực động mạch phổi bít, tuy vậy, sự cải thiện
về huyết động học không kèm theo gia tăng sự dung nạp vận động. Ngược lại,
khi thời gian truyền kéo dài hơn (72 giờ), hoặc truyền lặp đi lặp lại với những
khoảng cách đều nhau trong vòng vài tuần hay vài tháng sẽ cải thiện được tình
trạng lâm sàng.
Chưa rõ cơ chế sự cải thiện chức năng tâm thất khi truyền Dobutrex kéo dài
hay gián đoạn. Tuy nhiên, trên những nghiên cứu truyền Dobutrex kéo dài thực
hiện ở người, đã ghi nhận có các thay đổi về siêu cấu trúc ty thể và về hóa sinh,
có thể đây là cơ bản của sự cải thiện lâu dài.
Dobutrex đã được dùng phối hợp với dopamine. Nói chung, cung lượng tim
cũng không tăng nhiều hơn nếu dùng liều tương đương Dobutrex đơn thuần.
Tuy nhiên, sự phối hợp này đã mang lại kết quả sau :
- làm tăng huyết áp động mạch toàn thân (có thể có lợi cho người bệnh huyết
áp thấp).
- gia tăng lưu lượng máu đến thận, lưu lượng nước tiểu và sự bài tiết natri.
- ngăn ngừa áp lực đổ đầy thất tăng, thường xảy ra khi dùng dopamine đơn
thuần, vì vậy làm giảm nguy cơ phù phổi và sung huyết phổi, nhất là ở người
bệnh suy chức năng thất trái.
Dobutrex cũng đã được phối hợp với những thuốc giãn mạch khác như
nitroglycerin hoặc nitroprusside, đặc biệt cho những người bệnh thiếu máu cơ
tim. Sự phối hợp này có thể giúp tăng cung lượng tim, và làm giảm sức đề
kháng của hệ mạch, và giảm áp lực đổ đầy thất mà tác dụng đã thấy khi dùng
riêng rẽ một trong hai loại thuốc trên. Nhịp tim - huyết áp không thay đổi hoặc

có hơi tăng khi dùng phối hợp Dobutrex và một loại thuốc giãn mạch.
Dobutrex là chất chủ vận b-adrenergic. Do đó, tác dụng của thuốc có thể bị đối
kháng bởi những chất đối kháng trên receptor b-adrenergic. Trong quá trình
điều trị bằng những chất đối kháng beta, dùng kèm Dobutrex ở liều thấp có
biểu hiện tác động của a-adrenergic ở mức độ khác nhau, như co mạch. Do
tương tác thuốc, Dobutrex và các thuốc đối kháng sẽ cạnh tranh với nhau trên
cùng receptor beta. Sự cạnh tranh này có tính hồi phục, do đó, nếu dùng
Dobutrex với liều cao hơn sẽ có tác động cạnh tranh mạnh hơn chống lại ảnh
hưởng của các thuốc đối kháng ở receptor b-adrenergic.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
<="" a="">
Dobutrex bắt đầu tác dụng sau 1-2 phút, và dù truyền với bất kỳ vận tốc nào,
nồng độ vững bền trong huyết tương và tác dụng tối đa cũng đạt được sau 10
phút. Nồng độ ổn định trong huyết tương tỷ lệ thuận với tốc độ truyền dịch. Ở
người bệnh bị suy tim sung huyết, nếu truyền với tốc độ 5 mg/(kg.phút), nồng
độ trung bình trong huyết tương sẽ đạt được khoảng 100 nanogam/mL.
Độ thanh thải trong huyết tương ở người lớn là 2,4 L/phút/m2, thể tích phân
phối khoảng 20% thể trọng, và thời gian bán thải trong huyết tương dưới 3
phút. Chuyển hóa chủ yếu qua methyl hóa, sau đó là phản ứng liên hợp. Các
chất chuyển hóa được thải trừ qua thận và mật. Trong nước tiểu, chất chuyển
hóa chủ yếu gồm các chất liên hợp của dobutamine và 3-O-methyl dobutamine.
Dẫn xuất 3-O-methyl không còn hoạt tính sinh học.
Khi truyền liên tục kéo dài, Dobutrex sẽ chỉ dung nạp được một phần, và trở
thành có ý nghĩa thống kê sau khi truyền 72 giờ. Ở người bệnh suy tim ứ huyết,
ảnh hưởng của Dobutrex trên cung lượng tim ở thời điểm giờ thứ 72 đạt được
hơn 70% so với thời điểm ở cuối giờ thứ 2 nếu truyền thuốc với tốc độ đều
đặn. Hiện tượng này có thể do giảm số lượng receptor b-adrenergic.
Trên súc vật, mặc dầu nồng độ catecholamine có suy giảm tại các sy-náp thần
kinh do tác dụng của reserpine hoặc thuốc chống trầm cảm 3 vòng, nhưng tác
động của Dobutrex vẫn không thay đổi; Dobutrex có tác động trực tiếp, và hiệu

quả của thuốc này không phụ thuộc vào các cơ chế tiền sy-náp.
CHỈ ĐỊNH
<="" a="">
Dùng Dobutrex khi cần làm tăng sức co bóp cơ tim để điều trị tình trạng giảm
tưới máu do giảm cung lượng tim, dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu tuần
hoàn. Cũng dùng Dobutrex khi cần tăng sức co bóp cơ tim để điều trị sự gia
tăng bất thường áp lực đổ đầy thất, có nguy cơ gây sung huyết phổi hay phù
phổi. Những nguyên nhân có thể dẫn đến những tình trạng giảm tưới máu bao
gồm :
Nguyên nhân do tim :
1) Suy tim cấp :
- Nhồi máu cơ tim cấp.
- Choáng do nguyên nhân tim.
- Sau phẫu thuật tim.
- Dùng quá liều thuốc giảm co bóp cơ tim như thuốc ức chế receptor b-
adrenergic.
2) Suy tim mạn :
- Đợt suy tim mất bù cấp của suy tim ứ huyết mạn tính.
- Cần tăng co bóp cơ tim tạm thời trong suy tim mạn đợt tiến triển, Dobutrex
được xem như là loại thuốc điều trị hỗ trợ dùng đồng thời với các thuốc làm
tăng co bóp cơ tim dạng uống thường dùng, thuốc giãn mạch toàn thân và
thuốc lợi niệu.
Nguyên nhân không phải do tim :
1) Tình trạng giảm tưới máu cấp thứ phát sau chấn thương, phẫu thuật, nhiễm
khuẩn, hoặc giảm thể tích máu với chỉ số huyết áp động mạch trung bình trên
70 mmHg, và áp lực mao mạch phổi bít lớn hơn hoặc bằng 18 mmHg, mà
không có đáp ứng hữu hiệu sau khi đã bù thể tích tuần hoàn và làm tăng áp lực
đổ đầy thất.
2) Giảm cung lượng tim thứ phát khi bệnh nhân thở máy với áp lực dương cuối
kỳ thở ra (PEEP).

Để chẩn đoán bệnh mạch vành, có thể dùng Dobutrex thay thế cho thử nghiệm
gắng sức. Nếu dùng Dobutrex cho mục đích này, phải thông báo cho người
bệnh biết về mối nguy hiểm có thể xảy ra liên quan đến thử nghiệm này, và bắt
buộc phải được theo dõi sát như khi làm các thử nghiệm chuẩn mực gắng sức,
bao gồm cả việc theo dõi liên tục điện tâm đồ.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
<="" a="">
Không dùng cho người bệnh trước đó đã có biểu hiện quá mẫn cảm với
Dobutrex.
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
<="" a="">
Tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp
Dobutrex có thể gây tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp, nhất là huyết áp tâm
thu. Nghiên cứu lâm sàng cho thấy khoảng 10% bệnh nhân có nhịp tim tăng
khoảng 30 nhịp/phút hoặc hơn nữa, và khoảng 7,5% bệnh nhân có huyết áp
tâm thu tăng thêm 50 mmHg hoặc hơn nữa. Nếu giảm liều, thường các tác
dụng này cũng sẽ giảm tức khắc. Những người bệnh bị tăng huyết áp trước đó
dễ có đáp ứng mạnh với thuốc hơn.
Tăng dẫn truyền nhĩ-thất
Vì Dobutrex làm tăng dẫn truyền nhĩ-thất, nên những bệnh nhân có cuồng nhĩ
hoặc rung nhĩ có thể có đáp ứng thất nhanh.
Loạn nhịp kiểu nhanh thất
Dobutrex có thể kích thích các ổ phát nhịp lạc chỗ ở tâm thất; nhưng hiếm khi
gây nhịp nhanh thất hoặc rung thất.
Giảm khả năng đổ đầy thất và khả năng bơm máu
Những thuốc làm tăng co bóp sợi cơ tim, kể cả Dobutrex, không cải thiện khả
năng bơm máu của tâm thất trong trường hợp có tắc nghẽn cơ học dòng chảy
của máu vào hoặc chảy ra khỏi tim, hoặc cả hai. Nếu tính đàn hồi của cơ tim
giảm nhiều, tác dụng tăng co bóp của cơ tim cũng không có hiệu quả. Những
tình trạng trên là do nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim, hẹp van động

mạch chủ, hẹp dưới động mạch chủ phì đại vô căn. Ưu điểm của tác dụng làm
tăng co cơ tim có thể thấy ở một số trường hợp bệnh nhân có tim giãn, hoặc sử
dụng quá nhiều thuốc đối kháng ở receptor b-adrenergic.
Quá mẫn cảm
Những phản ứng sau đây được coi là quá mẫn cảm khi dùng Dobutrex, nhưng
hiếm khi xảy ra : mẩn đỏ ở da, sốt, tăng bạch cầu ái toan và co thắt phế quản.
Dobutrex dạng dung dịch chứa sodium bisulfite, chất sulfite này có thể gây
phản ứng dị ứng gồm các triệu chứng phản vệ, và những đợt hen từ nhẹ cho
đến nặng ở một số người bệnh nhạy cảm với thuốc. Tần số nhạy cảm với
sulfite trong cộng đồng đến nay chưa rõ, có lẽ là thấp. Nhạy cảm với sulfite
thường gặp ở những người bị hen hơn là những người không bị hen.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
<="" a="">
Lưu ý chung
- Trong khi dùng Dobutrex cũng như khi đang dùng các thuốc catecholamine
dạng tiêm khác, cần theo dõi cẩn thận nhịp tim, huyết áp và tốc độ truyền. Nên
theo dõi trên điện tâm đồ từ khi bắt đầu truyền cho đến khi có đáp ứng ổn định.
- Nên điều chỉnh tình trạng giảm khối lượng tuần hoàn trước khi dùng
Dobutrex.
- Tác dụng của Dobutrex có thể bị giảm nếu dùng kèm thuốc đối kháng ở
receptor b-adrenergic. Trong những trường hợp như vậy, tác dụng alpha của
Dobutrex không bị ức chế, sẽ gây nên co mạch ngoại biên và tăng huyết áp.
Trái lại, nếu ức chế receptor a-adrenergic, thì các tác dụng b-1 và b-2 sẽ chiếm
ưu thế, và kết quả là nhịp tim nhanh lên và giãn mạch .
- Dobutamine, cũng như các chất chủ vận khác tác dụng trên receptor b-2, có
thể làm giảm nhẹ nồng độ kali máu, nhưng hiếm khi hạ kali máu. Dù sao, cũng
nên theo dõi nồng độ kali máu.
Sử dụng Dobutrex khi suy tim biến chứng của nhồi máu cơ tim cấp : Việc điều
trị suy tim và làm giảm thể tích tim sẽ giúp giảm tiêu thụ oxy của cơ tim,
nhưng nếu dùng bất kỳ một thuốc tăng co bóp cơ tim nào cũng có thể làm tăng

nhu cầu oxy và làm tăng kích thước ổ nhồi máu do tăng thiếu máu. Kinh
nghiệm lâm sàng về sử dụng Dobutrex trong nhồi máu cơ tim cấp cho thấy khi
dùng Dobutrex với liều không gây tăng quá mức nhịp tim và huyết áp, thì sẽ
không gây một tác dụng phụ nào trên cơ tim. Nên điều chỉnh liều lượng để
ngăn ngừa tăng nhịp tim và tăng quá mức huyết áp tâm thu.
Sử dụng trong chỉ định hạ huyết áp : Khi hạ huyết áp do nguyên nhân giảm
cung lượng tim và đồng thời có kèm tăng áp lực đổ đầy thất, thì truyền
Dobutrex có thể giúp duy trì được huyết áp.
Khi điều trị tình trạng giảm tưới máu cấp tính bằng bù dịch đầy đủ biểu hiện
qua áp lực mao mạch phổi bít tăng, hoặc áp lực tĩnh mạch trung tâm tăng,
nhưng cung lượng tim và huyết áp vẫn không tăng, thì Dobutrex có thể giúp
cải thiện sức co bóp cơ tim và khôi phục lại huyết áp.
Nói chung, khi huyết áp động mạch trung bình thấp hơn 70 mmHg mà áp lực
đổ đầy thất không tăng, thì có thể do giảm khối lượng tuần hoàn, và cần phải
truyền bù dịch với khối lượng thích hợp trước khi dùng Dobutrex.
Nếu huyết áp vẫn thấp và có khuynh hướng giảm trong khi dùng Dobutrex,
mặc dầu cung lượng tim và áp lực đổ đầy thất đã đủ, thì nên xét đến khả năng
có thể chỉ định dùng kèm các thuốc co mạch ngoại biên như dopamine hoặc
norepinephrine (noradrenaline).
Sử dụng trong nhi khoa : Dobutrex được chỉ định ở trẻ em có tình trạng giảm
tưới máu, do suy tim mất bù, phẫu thuật tim, choáng tim và choáng nhiễm
khuẩn. Ở người lớn so với trẻ em, tác động về huyết động học của Dobutrex
khác nhau về số lượng lẫn chất lượng (xin đọc phần Dược động học). Ở trẻ em,
tác dụng làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp dễ gặp hơn và nhạy hơn ở người lớn.
Áp lực động mạch phổi bít có thể không giảm ở trẻ em, hoặc cũng có thể tăng,
nhất là ở nhũ nhi. Dùng Dobutrex ở trẻ em phải theo dõi thật sát, và luôn ghi
nhớ những đặc điểm dược động học này.
LÚC CÓ THAI
<="" a="">
Những nghiên cứu về sinh sản trên chuột và thỏ không thấy có bằng chứng tổn

hại khả năng sinh sản, nguy hiểm cho bào thai hoặc gây quái thai do Dobutrex.
Do không có đủ dữ liệu nghiên cứu trên người mang thai, và do những thử
nghiệm về tác động của thuốc trên khả năng sinh sản của động vật không cho
phép suy diễn ra kết quả đáp ứng trên người, nên không dùng Dobutrex trong
thai kỳ, trừ khi lợi ích của việc dùng thuốc đã quá rõ rệt.
TƯƠNG TÁC THUỐC
<="" a="">
Không có thông báo rõ ràng về tương tác thuốc trong những nghiên cứu lâm
sàng về kết hợp Dobutrex với những thuốc khác, bao gồm những dẫn xuất
digitalis, furosemide, spironolactone, lidocaine, nitroglycerin, nitroprusside,
isosorbide dinitrate, morphine, atropine, heparin, protamine, potassium
chloride, acid folic và acetaminophen. Các tương tác dược động học với
dopamine và các thuốc giãn mạch đã được mô tả trong phần Dược động học.
TÁC DỤNG NGOẠI Ý
<="" a="">
Tăng nhịp tim, huyết áp và ngoại tâm thu thất : Huyết áp tâm thu tăng thêm 10-
20 mmHg, và nhịp tim tăng thêm 5-15 nhịp/phút được ghi nhận ở nhiều bệnh
nhân (xin đọc phần Chú ý đề phòng-phần tăng nhịp tim hoặc tăng huyết áp).
Khoảng 5% bệnh nhân có ngoại tâm thu thất khi dùng Dobutrex. Những tác
dụng ngoại ý này thường phụ thuộc vào liều dùng.
Hạ huyết áp : Đôi khi có giảm đột ngột huyết áp khi dùng dobutamine. Giảm
liều hay ngừng thuốc có thể nhanh chóng đưa huyết áp về trị số ban đầu. Tuy
nhiên, một số trường hợp cần phải xử trí, và sự hồi phục có thể không đáp ứng
ngay.
Phản ứng tại nơi truyền : Đôi khi viêm tĩnh mạch. Có khi viêm tại chỗ do vô ý
lệch đường truyền.
Những tác dụng ngoại ý ít gặp khác : 1-3% bệnh nhân có những tác dụng ngoại
ý như: buồn nôn, nhức đầu, đau ngực không đặc hiệu, hồi hộp và thở nông.
Cũng như những catecholamine khác, Dobutrex có thể làm giảm nhẹ nồng độ
kali máu, hiếm khi gây hạ kali máu.

Tính an toàn khi dùng lâu dài : Không thấy có sự khác biệt khi dùng Dobutrex
trong 72 giờ và trong thời gian ngắn. Có bằng chứng cho thấy chỉ có sự dung
nạp thuốc một phần khi dùng Dobutrex sau 72 giờ, do đó cần dùng liều cao
hơn để có hiệu quả như lúc khởi đầu.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
<="" a="">
Liều lượng
Ở phần lớn bệnh nhân, để tăng cung lượng tim, tốc độ truyền cần khoảng từ 2,5
tới 10 mg/(kg.phút). Thông thường, liều cần để cải thiện tình trạng huyết động
hữu hiệu là 20 mg/(kg.phút). Rất hiếm khi cần đến liều 40 mg/(kg.phút).
Tốc độ và thời gian truyền nên điều chỉnh tùy theo đáp ứng của người bệnh,
dựa vào những yếu tố lâm sàng sau : các thông số về huyết động học như tần
số tim, kiểu nhịp tim, huyết áp động mạch, và nếu có thể được, đo cung lượng
tim và áp lực đổ đầy tâm thất (áp lực tĩnh mạch trung tâm, mao mạch phổi bít
và nhĩ trái), các dấu hiệu của sung huyết phổi, tình trạng tưới máu các cơ quan
(theo dõi nước tiểu, nhiệt độ da và tri giác).
Đã dùng nồng độ lên đến 5 g/L ở người (250 mg/50 mL). Thể tích dịch truyền
vào tùy thuộc vào nhu cầu của người bệnh.
Nên giảm liều Dobutrex dần dần hơn là ngừng đột ngột.
Cách dùng
Thời gian bán thải của Dobutrex ngắn, vậy nên dùng bằng đường truyền tĩnh
mạch liên tục. Nồng độ thuốc trong huyết tương đạt ổn định trong vòng 10
phút sau khi truyền với tốc độ đều đặn, hoặc sau khi thay đổi tốc độ. Do đó,
không cần dùng liều nạp, cũng như tiêm tĩnh mạch trực tiếp liều nạp.
Đơn vị để tính liều
Hầu hết các báo cáo về Dobutrex đều diễn tả liều lượng dựa trên thể trọng, thí
dụ như (mg/kg.phút). Điều này rất có ích cho trẻ em và trẻ sơ sinh hơn là cho
người lớn. Ở người lớn, thể trọng không ảnh hưởng đáng kể trên hiệu quả của
Dobutrex; vì liều dùng cần điều chỉnh tùy từng người bệnh, nên liều cho người
lớn được tính dễ dàng với đơn vị là mg/phút. Liều Dobutrex có thể bắt đầu từ

0,1-0,2 mg/phút, và tăng dần đến 1-2 mg/phút hoặc hơn nữa, tùy thuộc vào đáp
ứng huyết động học và đáp ứng trên lâm sàng của mỗi người bệnh.
+ Dobutrex dạng dung dịch :
Ghi chú : Không được pha thêm Dobutrex với dung dịch tiêm sodium
bicarbonate 5% hoặc bất kỳ dung dịch kiềm mạnh nào khác. Vì có thể có tương
kỵ vật lý, nên không được trộn chung Dobutrex với các thuốc khác trong cùng
một dung dịch hoặc pha loãng với các dung dịch có chứa sodium bisulfite và
ethanol.
Pha thuốc và tính ổn định : Dobutrex khi sử dụng cần được pha loãng nữa
trong chai 50 mL của một trong các dung dịch truyền tĩnh mạch sau : dextrose
5% ; dextrose 5% và natri chloride 0,45% ; dextrose 5% và natri chloride 0,9%
; dextrose 10% ; Isolyte M với dextrose 5% ; lactate Ringer ; dextrose 5%
trong lactate Ringer ; Normosol M trong D5-W ; Osmitrol 20% trong nước cất
pha tiêm ; natri chloride 0,9%, hoặc natri lactate. Dung dịch tiêm tĩnh mạch
này nên được sử dụng trong vòng 24 giờ. Dung dịch chứa dobutamine
hydrochloride có thể có màu hồng, càng hồng nếu càng để lâu. Sự đổi màu này
do thuốc bị oxy hóa nhẹ, nhưng sẽ không ảnh hưởng đến tác dụng, nếu được
dùng trong thời gian bảo quản nói trên.
+ Dobutrex để tiêm :
Pha thuốc : Dobutrex có thể pha với nước cất vô khuẩn pha tiêm, nước dung
dịch kìm khuẩn pha tiêm, hoặc dung dịch dextrose 5%. Khi cần truyền trong
thời gian dài một thể tích nhỏ, cần pha thuốc với dung dịch kìm khuẩn pha
tiêm có thể làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn dung dịch trên. Không nên dùng
dung dịch muối để pha Dobutrex, vì ion chloride có thể ảnh hưởng đến sự hòa
tan ban đầu của Dobutrex. Để pha thuốc, thêm 10 mL dung dịch vào lọ số
7051, Dobutrex, 250 mg. Nếu thuốc không hòa tan hết, thêm 10 mL dung dịch
pha nữa. Đối với lọ số 7052, thêm 10 mL dung dịch.
Pha loãng thêm : Dobutrex đã pha ở nồng độ cao đến 25 mg/mL vẫn duy trì
được tính ổn định. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, Dobutrex nên
được pha loãng nữa để có nồng độ 5 mg/mL hoặc thấp hơn trước khi sử dụng.

Pha loãng với dung dịch tiêm truyền dextrose 5%, natri chloride 0,9%, hoặc
sodium lactate.
Không được pha Dobutrex với dung dịch sodium bicarbonate 5% hoặc với bất
cứ dung dịch kiềm mạnh nào khác. Do có tương kỵ vật lý, không nên pha trộn
cùng với các thuốc khác trong dung dịch có chứa Dobutrex. Dobutrex không
được dùng chung với thuốc hoặc dung dịch chứa natri bisulfite và ethanol.
Tính ổn định : Thuốc được pha có thể được dự trữ trong tủ lạnh trong vòng 96
giờ, hoặc 24 giờ ở nhiệt độ trong phòng. Dung dịch truyền tĩnh mạch nên dùng
trong vòng 24 giờ.
Dung dịch có chứa Dobutrex có thể có màu hồng, ngày càng đậm dần theo thời
gian. Sự thay đổi màu này là do thuốc bị oxy hóa nhẹ, nhưng hoạt tính của
thuốc không thay đổi nếu được sử dụng trong thời gian bảo quản nêu trên.
Tốc độ truyền dựa vào nồng độ Dobutrex : Tốc độ truyền cần được điều chỉnh
theo nồng độ Dobutrex trong lọ dịch truyền. Bảng dưới đây sẽ hướng dẫn về
tốc độ truyền [mL/(kg.phút)] cần thiết cho 3 loại nồng độ thường dùng (250,
500 và 1.000 mg/l) để đưa vào cơ thể các liều tính bằng [mg/(kg.phút)].
Tốc độ đưa thuốc vào
[mg/(kg.phút)]
Tốc độ dịch truyền đưa vào
[mL/(kg.phút)]
250 mg/l* 500 mg/l** 1 g/l***
2,5 0,01 0,005 0,0025
5 0,02 0,01 0,005
7,5 0,03 0,015 0,0075
10 0,04 0,02 0,01
12,5 0,05 0,025 0,0125
15 0,06 0,03 0,015
* 250 mg/l dịch pha loãng** 500 mg/l hay 250 mg/500 mL dịch pha loãng***
1000 mg/l hay 250 mg/250 mL dịch pha loãng
QUÁ LIỀU

<="" a="">
Quá liều dobutamine rất hiếm khi xảy ra. Sau đây là hướng dẫn xử trí trong
trường hợp quá liều :
Các dấu hiệu và triệu chứng : Độc tính của dobutamine hydrochloride thường
do tác dụng kích thích quá độ receptor beta trên tim. Thời gian tác động của
dobutamine hydrochloride thường ngắn (T1/2 = 2 phút), do thuốc bị chuyển
hóa nhanh qua xúc tác của catechol-O-methyltransferase. Các triệu chứng ngộ
độc có thể gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, hồi hộp, nhức đầu, run rẩy, lo âu, thở
nông, đau thắt ngực, đau ngực không đặc hiệu. Các tác động tăng co bóp cơ
tim và tăng nhịp tim của dobutamine trên cơ tim có thể gây tăng huyết áp, loạn
nhịp nhanh, thiếu máu cơ tim, và rung thất.
Hạ huyết áp có thể là do giãn mạch.
Nếu thuốc được dùng đường uống, không phỏng đoán được sự hấp thu thuốc ở
miệng và đường tiêu hóa.
Xử trí : Khi xử trí việc dùng quá liều, cần xem xét khả năng quá liều nhiều loại
thuốc, tương tác giữa các thuốc và dược động học bất thường của thuốc đối với
người bệnh. Động tác đầu tiên trong việc xử trí quá liều là ngừng thuốc, giữ
thông đường thở, bảo đảm thông khí và đủ oxy. Bắt đầu ngay những biện pháp
hồi sức. Nhịp nhanh thất nguy hiểm có thể được điều trị thành công bởi
propranolol hoặc lidocaine. Tăng huyết áp thường đáp ứng điều trị với giảm
liều hoặc ngừng thuốc.
Bảo vệ đường hô hấp của người bệnh, hỗ trợ thông khí và truyền dịch. Khi cần,
nên kiểm tra và theo dõi dấu hiệu sinh tồn của người bệnh, các thông số như
khí máu, nồng độ các chất điện giải trong huyết thanh Sự hấp thu thuốc qua
đuờng tiêu hóa có thể giảm đi bằng cách dùng than hoạt; trong nhiều trường
hợp, than hoạt có hiệu lực hơn phương pháp gây nôn hoặc rửa ruột, nên dùng
than hoạt để thay thế hoặc hỗ trợ cho rửa dạ dày. Dùng than hoạt lặp đi lặp lại
nhiều lần, có thể làm tăng thải trừ một số thuốc đã được hấp thu. Nên bảo vệ
đường hô hấp của người bệnh khi rửa dạ dày hay dùng than hoạt.
Dùng thuốc lợi niệu mạnh, thẩm phân màng bụng, thẩm phân lọc máu hoặc

truyền máu chưa thấy có lợi trong xử trí quá liều dobutamine hydrochloride.

×