Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " Kinh tế Trung Quốc 2020 : Những thách thức của lần quá đô thứ hai " ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.22 KB, 8 trang )

Kinh tế Trung Quốc năm 2020
Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




21








GS. Pieter Bottelier
Đ
ại học Johns Hopkins,
Trờng Nghiên cứu Quốc tế cao cấp


Bài viết là bản đã sửa đổi của bài tham luận trình bày tại hội thảo của Cục Nghiên
cứu châu á Quốc gia có tiêu đề Trung Quốc năm 2020: Những kịch bản tơng lai,
Trung tâm Airlie, VA ngày 15-7/2/2007. Đợc sự đồng ý của tác giả, chúng tôi dịch và đăng
bài viết này để bạn đọc tham khảo.
Tóm tắt:
Kể từ cuộc cơ cấu lại nền kinh tế trong thập niên 1990, Trung Quốc đã trải qua
sự tăng tr
ởng
sản lợng và năng suất cha từng có, thách đố mọi dự đoán về các cuộc


khủng hoảng tài chính sắp xảy ra và thậm chí còn đạt thành tích tốt hơn những dự đoán
lạc quan nhất.
Những vấn đề về giai đoạn tiếp theo của sự tăng trởng kinh tế của Trung Quốc,
hoặc lần quá độ thứ hai, nay đang đợc đặt ra. Kế hoạch này liên quan tới việc giảm
đi tầm quan
trọng
tơng đối của ngành gia công có giá trị gia tăng thấp, tăng sự phụ
thuộc vào sự đổi mới trong nớc, làm cho nền kinh tế Trung Quốc trở nên hiệu quả về
mặt năng lợng hơn, giảm đi sự bất bình đẳng xã hội và bảo vệ môi trờng tốt hơn - sẽ
gặp đầy rẫy thách thức. Những thách thức này bao gồm cả việc giảm đi sự phụ thuộc vào
xuất khẩu thực và đầu t cho tăng trởng, gia tăng tiêu dùng trong nớc trong tỷ lệ
GDP và tăng cờng chế độ an sinh xã hội.
Sự quá độ thứ hai này hoàn thành nh thế nào sẽ quyết định tiến trình kinh tế
của Trung
Quốc
trong năm 2020, và các cuộc cải cách đó có thể dẫn tới ba kết cục hoàn
toàn khác nhau.


CáC KịCH BảN Có KHả NĂNG XảY RA


Một sự quá độ thứ hai thành công
Bắc Kinh thực hiện một nền kinh tế
chính trị mới khuyến khích đổi mới, tăng
tiêu dùng nội địa, giảm thành công khu
vực gia công giá trị gia tăng thấp, tạo ra
đủ việc làm mới tại đô thị, đa thêm
đợc nhiều nguồn lực hơn vào các ngành
dịch vụ và tiến hành các cuộc cải cách

đúng thời điểm để tạo ra những kết quả
tích cực và sự tăng trởng bền vững.
Pieter Bottelier

Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




22



Một sự quá độ thất bại Một cơn
bão hoàn hảo (perfect storm) của những
phát triển bất lợi nh tăng trởng
năng suất suy giảm và thất nghiệp ở đô
thị gia tăng gây nên bất ổn ở đô thị - dẫn
tới những vấn đề kinh tế và chính trị
nghiêm trọng và tạo ra sự suy giảm kinh
tế thảm hại với những chia rẽ chính trị
kèm theo.


Quản lý khủng hoảng (crisis
management) Một sự quá độ thứ hai
thành công sẽ đình trệ hoặc bị trì hoãn
vào năm 2020, và những vấn đề kinh tế
và chính trị củng cố lẫn nhau làm sâu

sắc thêm. Nhà nớc độc đảng xử lý khéo
léo nhng với những khó khăn đang
gia tăng các cuộc khủng hoảng theo
cách mà một cơn bão hoàn hảo hoặc
đợc tránh hoặc bị trì hoãn sau năm
2020.
Mục đích của bài viết là thảo luận
nhằm nắm rõ tình hình tại Trung Quốc
cả về triển vọng kinh tế của nớc này và
về quan hệ Mỹ-Trung. Quỹ đạo kinh tế
tơng lai của Trung Quốc sẽ bị ảnh
hởng bởi rất nhiều các nhân tố trong
nớc và quốc tế, kể cả thái độ và chính
sách của Mỹ với Trung Quốc. Bài viết
này xác định ba kịch bản cho kinh tế
Trung Quốc năm 2020. Trong thực tiễn,
dải kết cục khả thi bao gồm cả những
sắc thái của những kịch bản này. Tiếp
theo một giải thích ngắn gọn về những
nhân tố chính làm nền tảng cho sự tăng
trởng kinh tế ngoạn mục của Trung
Quốc trong thế kỷ qua và cách tiếp cận
độc đáo của nớc này với sự thực hiện
quá độ kinh tế, bài viết này tập trung
vào những thách thức kinh tế và xã hội
cơ bản mà Trung Quốc phải đối mặt hiện
nay và khả năng của đất nớc này xử lý
những thách thức đó.
Nhận thức về sự tăng trởng kinh
tế trớc đây

Từ năm 1978 tới năm 2003, nền kinh
tế Trung Quốc đã đạt đợc những thành
tích tốt hơn mọi kỳ vọng lạc quan. Tại
sao những dự đoán về một sự giảm tốc
độ tăng trởng kinh tế nghiêm trọng
hoặc khủng hoảng tài chính không trở
thành hiện thực ít nhất không diễn ra
cho tới hiện nay? Tại sao nền kinh tế
này lại đạt đợc những thành tích tốt
hơn mọi dự kiến lạc quan nhất? Trong
nghiên cứu Trung Quốc năm 2020 của
Ngân hàng Thế giới, tổ chức này đã chỉ
ra rằng GDP năm 1995 của Trung Quốc
là gấp đôi so với dự đoán của Ngân hàng
Thế giới năm 1985.
1
Trong giai đoạn
2001-2010, Ngân hàng Thế giới dự đoán
một sự suy giảm tốc độ tăng trởng từ
mức 9,8% (trung bình cho giai đoạn
1985-1995) xuống còn 6,9%. Cho tới năm
2006, tỷ lệ tăng trởng thực tế trung
bình là 10% và không có một sự suy
giảm đột ngột nào sớm diễn ra. Rất
nhiều ngời cũng đánh giá thấp tầm
quan trọng của sự trỗi dậy của Trung
Quốc đối với phần còn lại của thế giới.
Gần đây năm 1999, chuyên gia hàng đầu
về Trung Quốc Gerald Segal, lúc đó là
Giám đốc Viện nghiên cứu Quốc tế về

Chiến lợc tại Luânđôn, đã viết Trung
Quốc là một thị trờng nhỏ chẳng mấy
quan trọng với thế giới, đặc biệt là bên
ngoài châu á.
2
Vào lúc đó, chỉ mới có 8
năm trớc đây, quan điểm này đã đợc
chấp nhận rộng rãi.
Kinh tế Trung Quốc năm 2020
Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




23

Có thể xác định đợc một số nhân tố
góp phần vào sự tăng trởng sản lợng
và năng suất phi thờng của Trung
Quốc trong vòng 15 năm qua. Một số
trong đó không dễ dàng phù hợp với các
mô hình tăng trởng kinh tế. Những
nhân tố quan trọng nhất đuợc liệt kê ở
dới đây:
- Năng lực của giới lãnh đạo và sự ủng
hộ của quần chúng với cải cách
- Sự kiên định của định hớng cải
cách
- Sự cống hiến một lòng với cải cách

và phát triển của toàn bộ thể chế chính
trị các cấp
- Ưu tiên dành cho phát triển thể chế
và cạnh tranh thị trờng so với cải cách
quyền sở hữu
- Tỷ lệ tiết kiệm nội địa cao bất
thờng
- Sự sẵn lòng của Trung Quốc để học
hỏi từ kinh nghiệm quốc tế và quyết
định mở cửa nền kinh tế cho ngoại
thơng và đầu t nớc ngoài theo quy
tắc quốc tế.
Ngay từ đầu giai đoạn tái cơ cấu nền
kinh tế của Trung Quốc (kể cả cải cách
doanh nghiệp nhà nớc) từ giữa thập
niên 1990 tới năm 2003, khu vực gia
công/chế tạo (manufacturing) của Trung
Quốc đầu tầu của sự tăng trởng của
Trung Quốc đã trải qua sự tăng trởng
năng suất (lao động) hàng năm trung
bình hơn 20%. Sự tăng trởng này là đủ
để thích ứng với sự gia tăng tiền lơng
thực tế (8-10% mỗi năm), việc giảm giá
để giành thị phần (do đó giúp giữ tỷ lệ
lạm phát thấp trên toàn cầu) và lợi
nhuận trên vốn hợp lý. Tỷ lệ tăng trởng
năng suất quốc gia của Trung Quốc cho
giai đoạn 2000-2005 là 8,7% mỗi năm,
một trong những mức cao nhất trên thế
giới và gấp khoảng 3,5 lần của mức tăng

trởng năng suất đầy ấn tợng của Mỹ
2,5% cùng giai đoạn đó.
3
Sự tăng trởng
của Trung Quốc lẽ ra có thể thấp hơn
nếu nh có nhiều quan tâm hơn tới vấn
đề môi trờng, bảo vệ quyền lao động và
quyền sở hữu trí tuệ.
Những nhà quan sát nớc ngoài
thờng bị quá ấn tợng trớc những vấn
đề có quy mô lớn của Trung Quốc và ít
ấn tợng trớc năng lực của Trung Quốc
nhận ra và giải quyết những vấn đề đó.
Rất nhiều học giả uyên thâm đã dự đoán
về những khó khăn kinh tế nghiêm
trọng của Trung Quốc vào thời kỳ của sự
kiện Thiên An Môn năm 1989, mức độ
lạm phát cao năm 1992-1995, khủng
hoảng tài chính châu á (1997-1998) và
đại dịch SARS (2003). Khu vực tài chính
thờng đuợc coi là gót chân Asin của nền
kinh tế Trung Quốc và bên bờ vực sụp đổ.
Phân tích về những vấn đề của khu vực
ngân hàng của Trung Quốc trong cuốn
sách xuất bản năm 1998 của Nick Lardy
Cuộc cách mạng kinh tế cha hoàn
thành của Trung Quốc hoàn toàn đúng,
nhng những ngời trích dẫn từ cuốn
sách đó dự đoán về một cuộc khủng
hoảng tài chính thì lại sai lầm. Rất

nhiều ngời đã đánh giá thấp không chỉ
năng lực của Trung Quốc để nhận ra và
giải quyết vấn đề mà còn sự quyết tâm
của nớc này để đạt đuợc những mục
tiêu quan trọng. Thí dụ, tháng 4/1999
khi Tổng thống Clinton dội gáo nớc
lạnh lên đề xuất WTO tuyệt vời của Thủ
Pieter Bottelier

Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




24

tớng Trung Quốc Chu Dung Cơ,
4
nhiều
ngời đã lo sợ rằng Trung Quốc sẽ quay
lng lại tiến trình đó. Tuy nhiên, đến
cuối năm, một thỏa thuận song phơng
về điều kiện gia nhập đã đợc hoàn
thành. Tin tởng rằng t cách thành
viên sẽ phục vụ cho lợi ích quốc gia,
Trung Quốc quyết tâm gia nhập Tổ chức
Thơng mại Thế giới (WTO) theo những
điều kiện gia nhập nặng nề.
Hiểu rõ hiện tại: Thách thức của sự

quá độ thứ hai của Trung Quốc
Mặc dù gặp trở ngại bởi những mất
cân đối kinh tế vĩ mô, những vấn đề
ngành nghề và khu vực và những chỉ số
của sự bất bình đẳng xã hội gia tăng
cùng bất ổn ở nông thôn, điều kiện kinh
tế quốc gia của Trung Quốc hiện nay là
rất mạnh:
- Tăng trởng năng suất vẫn duy trì ở
tốc độ cao kể từ năm 2003.
- Mức lơng ở đô thị đang tăng lên
nhanh chóng.
- Lợi nhuận của doanh nghiệp đã đợc
củng cố tới năm 2005 (con số đáng tin
cậy của năm 2006 cha có).
- Lòng tin của giới kinh doanh là cao.
- Cán cân thanh toán đang rất mạnh.
- Dự trữ ngoại tệ của Trung quốc
đã vợt 1.000 tỷ USD và vị trí đầu t
quốc tế thực của nó đã chuyển sang tích
cực rõ rệt.
- Tình hình tài chính nói chung của
Trung Quốc đã cải thiện to lớn kể từ
những cải cách năm 1994.
- Đất nớc này đang có những tiến bộ
trong cải cách khu vực tài chính.
- Tăng trởng của nông nghiệp là
đáng hài lòng trong những năm gần đây.
- T nhân hóa nhà cửa ở thành thị
(1998-2003) đã góp phần tạo nên một sự

bùng nổ về xây dựng ở đô thị cha từng
có và sự di chuyển lao động (và xã hội)
lớn hơn bao giờ hết.
- Lạm phát thấp.
- Dòng FDI vào trong nớc tiếp tục cao.
- Chi tiêu của ngời tiêu dùng, mặc
dù còn khá khiêm tốn, dờng nh cuối
cùng trở thành lực bình ổn trong tỷ lệ
của GDP.
- Triển vọng kinh tế trong ngắn hạn
là tốt.
Nhng chẳng mấy ngời tại Trung
Quốc vừa lòng với tình thế này. Nhận ra
những vấn đề môi trờng nghiêm trọng,
các bất ổn ở nông thôn đang gia tăng và
những căng thẳng xã hội khác, chính
quyền của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ
tớng Ôn Gia Bảo đã sắp đặt lại u tiên
phát triển quốc gia từ tăng trởng thô
sang theo đuổi một xã hội hài hòa và
tăng trởng bền vững. Mô hình phát
triển mới của Trung Quốc nhắm vào cả
sự phụ thuộc gia tăng vào cầu trong nớc
và đổi mới trong nớc (độc lập) và đạt tỷ lệ
lớn hơn giá trị gia tăng trong chuỗi sản
xuất toàn cầu. Gần đây, việc duy trì đợc
tăng trởng cao đã đợc đa vào danh
sách những mục tiêu quan trọng.
Mô hình mới này rốt cuộc chính là
một nghị trình cho một sự quá độ thứ

hai. Lần quá độ thứ nhất (1978-2003)
chủ yếu nhắm vào việc chấp nhận các
nguyên tắc thị trờng, tạo ra các thiết
chế thị trờng và tối đa hóa tăng trởng
để vừa tạo đợc sức mạnh quốc gia vừa
tạo điều kiện cho việc tái sắp xếp quy mô
lớn lao động từ nông nghiệp và các
Kinh tế Trung Quốc năm 2020
Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




25

doanh nghiệp nhà nớc không hiệu quả
sang nền kinh tế đô thị phi nhà nớc.
Lần quá độ thứ hai này chủ yếu nhằm
vào nâng cao chất lợng tăng trởng của
Trung Quốc. Sự quá độ này đợc kỳ vọng
có liên quan tới việc giảm đi tầm quan
trọng tơng đối của ngành gia công giá
trị gia công thấp, công nghệ thấp và một
sự gia tăng tầm quan trọng tơng đối
của ngành dịch vụ và những ngành chế
tạo có giá trị gia tăng cao. Một thành tố
nữa rất quan trọng của chiến lợc mới là
làm cho nền kinh tế Trung Quốc sử dụng
năng lợng tiết kiệm hơn. Do đó, hai câu

hỏi đặt ra là: (a) Liệu chính quyền của
Hồ Cẩm Đào có khả năng tạo ra một
triển vọng thuận lợi cho sự quá độ thứ
hai này hay không và (b) điều gì sẽ xảy
ra nếu nh những nỗ lực này thất bại?
Những u tiên chiến lợc mới này có
thể là những gì đúng đắn đối với Trung
Quốc, nhng chính phủ Trung Quốc chắc
chắn sẽ không thể thực hiện chúng mà
không có sự thay đổi tơng đối quan
trọng nào trong nền kinh tế chính trị.
ở mức tối thiểu, Trung Quốc sẽ cần vừa
tạo ra khuôn khổ động cơ cho Đảng Cộng
sản Trung Quốc và các quan chức chính
quyền thống nhất, kiên định với những
u tiên chiến lợc phát triển mới, đồng
thời trao nhiều sự độc lập hơn cho ngành
t pháp. Sự tăng trởng thô là dễ dàng
hơn để đạt đợc so với một xã hội hài
hòa và phát triển bền vững, đặc biệt là
trong một nhà nớc tập trung quyền lực
áp đặt từ trên xuống. Nhng chính
quyền Trung Quốc đã đánh cợc uy tín
của nó có thể thậm chí là tính hợp
pháp vào việc giành đợc những mục
tiêu phát triển phức tạp hơn và khó
khăn hơn này. Liệu Đảng có tự tạo ra
một cái bẫy cho mình? Liệu nó, có thể là
vô tình, có tạo ra những nguyên nhân
xui khiến cho dân chủ hóa? Điều gì sẽ

xảy ra nếu nh không có tiến bộ nào với
những mục tiêu mới có thể quan sát
đợc sau một số năm nữa? Liệu thể chế
chính trị sau đó trở nên độc đoán hơn
hay áp chế hơn? Liệu giới lãnh đạo có bị
chia rẽ hay mất niềm tin vào bản thân?
Liệu có một phong trào Đoàn kết kiểu
Ba Lan ở Trung Quốc hay không? Liệu
một Gorbachev của Trung quốc có xuất
hiện và (không cố ý) tạo điều kiện cho
việc tháo tung thể chế chính trị Trung
Quốc, nh đã xuất hiện tại Liên Xô trớc
đây?
Có hàng loạt những thách thức quan
trọng mà Trung Quốc sẽ cần phải vợt
qua để có thể đạt đợc thành công trong
sự quá độ thứ hai này:
- Giảm sự phụ thuộc của tăng trởng
vào xuất khẩu thực và đầu t
- Giảm tỷ lệ tiết kiệm quốc gia và
tăng tỷ lệ tiêu dùng
- Tăng cờng hệ thống an sinh xã hội
và mở rộng nó ra khu vực nông thôn
- Thực hiện các tiêu chuẩn môi trờng
đang tồn tại và phát triển những tiêu
chuẩn thêm
- Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đầy đủ
cho chủ sở hữu cả trong nớc và nớc
ngoài của những quyền này
- Giảm mức độ tiêu dùng năng lợng

trong nền kinh tế Trung Quốc.
5

- Tăng cờng độc lập t pháp
- Cải cách chế độ tài chính ngân sách
sao cho giảm sự phụ thuộc của chính
Pieter Bottelier

Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




26

phủ cấp thấp hơn vào những nguồn thu
ngoài ngân sách
- Giảm rõ rệt sự ảnh hởng chính trị
với các hãng, đặc biệt trong hệ thống tài
chính
Một số trong những thách thức này
đã đợc nhận ra bởi chính phủ tiền
nhiệm và chúng đều không mới. Cái mới
là chúng nay đã trở thành một phần của
những tiêu chí đo lờng khả năng thực
hiện của chính phủ không chỉ bởi cộng
đồng quốc tế mà còn bởi chính ngời dân
Trung Quốc.
Hớng tới tơng lai: Liệu Trung

Quốc có khả năng đối phó với những
thách thức của lần quá độ thứ hai này
không?
Trở ngại lớn nhất để thực hiện lần
quá độ thứ hai này có thể là nền kinh tế
chính trị của Trung Quốc có đặc điểm,
trong nhiều thứ khác, là sự liên can của
nhà nớc mạnh mẽ vào nền kinh tế
thông qua chế độ sở hữu đất đai và rất
nhiều công ty, sự kiểm soát với hệ thống
tài chính và chính phủ cấp thấp hơn phụ
thuộc vào các nguồn thu ngoài ngân sách.
Trung Quốc sẽ không chắc có thể tạo ra
đợc sự quá độ này mà không có những
thay đổi trong nền kinh tế chính trị
của đất nớc này. Khung khổ khuyến
khích hiện tại đối với Đảng Cộng sản
Trung Quốc và các cán bộ chính quyền là
không thống nhất với những u tiên
phát triển mới của Trung Quốc. Điều
này đặc biệt đúng ở cấp chính quyền địa
phơng, nơi nhu cầu rộng khắp với các
nguồn thu ngoài ngân sách làm lệch đi
những u tiên phát triển, dẫn tới sự liên
can của chính quyền trong nền kinh tế
địa phơng và làm cơ sở cho tham nhũng
địa phơng. Các chế độ khuyến khích sẽ
cần thiết để điều chỉnh sao cho tạo nên
tính trách nhiệm trớc nhân dân ở dới
những ngời hởng lợi từ xã hội hài hòa,

môi truờng trong sạch hơn và công bằng
xã hội lớn hơn. Để thúc đẩy đổi mới
trong nớc (độc lập) thật sự hơn, hệ
thống giáo dục và khuyến khích cấp
doanh nghiệp cần thiết phải sửa đổi để
khuyến khích và tạo điều kiện cho
những suy nghĩ sáng tạo.
Không có nhiều bằng chứng cho thấy
lần quá độ thứ hai đã bắt đầu từ năm
2003 đang trở nên hiện thực hóa. Thặng
d bên ngoài của Trung Quốc vẫn tiếp
tục gia tăng. Một nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới gần đây đã kết luận không
chỉ sự bất bình đẳng thu nhập tại Trung
Quốc tiếp tục giãn rộng mà còn trong
giai đoạn 2001-2003, 10% dân c dới có
mức thu nhập thấp nhất đã chịu sự suy
giảm tuyệt đối về thu nhập. ở khía cạnh
tích cực, có một số bằng chứng rằng tăng
trởng đầu t đã giảm xuống tới mức độ
bình thờng và tiêu dùng của hộ gia
đình trong phần trăm của GDP đã ổn
định và đang có khả năng gia tăng. Hơn
nữa, chi tiêu cho nghiên cứu và ứng
dụng đã tăng đáng kể (theo Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế OECD, nền
kinh tế Trung Quốc hiện đang đứng thứ
2 trên thế giới sau Hoa Kỳ về chi tiêu
cho nghiên cứu và triển khai), nhng
theo quan điểm của nhiều chuyên gia, sự

đổi mới trong nớc vẫn còn cha tơng
xứng.
Những xu hớng, điểm yếu và mạo
hiểm- Thực hiện lần quá độ thứ hai có
Kinh tế Trung Quốc năm 2020
Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




27

thể là phức tạp bởi những sự phát triển
mà chính phủ có rất ít hoặc không thể có
sự kiểm soát:
- Lực lợng lao động của Trung Quốc
đợc cho là sẽ lên tới đỉnh cao về số
lợng vào năm 2015 và bắt đầu giảm
không lâu sau đó. Sự thay đổi nh thế có
thể dẫn tới những áp lực gia tăng thêm
về tiền lơng, đặc biệt là theo những văn
bản pháp luật về lao động mới đợc đề
xuất.
- Tăng trởng năng suất chắc chắn sẽ
suy giảm khi việc cơ cấu lại các doanh
nghiệp quy mô lớn vốn đã bắt đầu vào
năm 1995 gần tới thời điểm hoàn thành.
Khi sự suy giảm này xuất hiện, không
gian cho việc tăng lơng và tăng tỷ giá

hối đoái mà không có mất mát việc làm
sẽ trở nên thu hẹp
- Sự khan hiếm đất đai gia tăng sẽ
tiếp tục đẩy cao chi phí, đặc biệt ở miền
Đông Trung Quốc
- Một cuộc khủng hoàng tài chính có
thể xảy ra nếu nh một sự suy giảm
kinh tế đột ngột hoặc sự sụp đổ của giá
tài sản (bao gồm cả bất động sản) một
sự suy giảm nh vậy có thể xuất hiện
đáp lại những trừng phạt thơng mại từ
bên ngoài, một bệnh dịch hoặc một thảm
họa tự nhiên hoặc môi trờng lớn.
- Nguồn cung dầu và khí từ bên goài
có thể bị cắt đứt .
- Lạm phát có thể trở thành một vấn
đề nữa nếu những thặng d thơng mại
từ bên ngoài tiếp tục tăng và Ngân hàng
Trung ơng Trung Quốc không thể xử lý
đợc tình trạng vợt quá thanh khoản
này.
- Đài Loan và Bắc Triều Tiên có thể
thể hiện nh là sự ngạc nhiên khó
chịu.
Điều gì xảy ra nếu lần quá độ thứ hai
thất bại? Một sự kết hợp của những
diễn biến tiêu cực có thể dẫn tới những
vấn đề kinh tế và chính trị nghiêm trọng,
thậm chí nếu năng lực của giới lãnh đạo
không phải là vấn đề. Những chỉ số kinh

tế cơ bản để quan sát là tăng trởng
năng suất, tiền lơng thực và thất
nghiệp ở đô thị. Tăng trởng năng suất
suy giảm kết hợp với tiền lơng thực gia
tăng và chi phí đất đai tăng cao có thể
nhanh chóng dẫn tới sự đóng cửa của
hàng loạt các xí nghiệp và dẫn tới tình
trạng thất nghiệp trên quy mô lớn ở
thành thị - đặc biệt nếu nh đổi mới
trong nớc, điều có thể cho phép một sự
chuyển đổi sang hệ thống sản xuất giá
trị gia tăng cao hơn chậm xuất hiện. Sự
đổ vỡ này có thể hủy hoại một hệ thống
an sinh xã hội mới còn trứng nớc. Bất
ổn ở đô thị có thể kết hợp với bất ổn ở
nông thôn và dẫn tới sự bất ổn định
nghiêm trọng. Nếu điều này có thể dẫn
tới một cuộc nổi dậy của quần chúng, sự
đàn áp hoặc một sự chia rẽ trong giới
lãnh đạo, kết quả có thể là một cuộc cách
mạng chính trị kết hợp với một sự suy
thoái kinh tế nghiêm trọng.
Điều gì xảy ra nếu nh lần quá độ thứ
hai thành công? Khả năng này đa ra
một kịch bản tốt đẹp: Giới lãnh đạo
Trung Quốc tiếp tục tiến thêm một bớc
về phía trớc trong quá trình cải cách và
hởng một mức độ ủng hộ hợp lý của
quần chúng bởi việc tạo ra những điều
chỉnh khung khổ chính trị và khuyến

Pieter Bottelier

Nghiên cứu trung quốc
số 8(78)-2007




28

khích/động cơ theo hớng đúng (thí dụ,
trách nhiệm hớng xuống ngời dân hơn,
đổi mới trong nớc hơn, bảo vệ tốt hơn
môi truờng và quyền sở hữu trí tuệ, t
pháp độc lập hơn và ít tham nhũng hơn).
Đồng thời, Trung Quốc có thể thành
công trong việc tránh đợc những trừng
phạt thơng mại hà khắc bởi những đối
tác thơng mại lớn nếu Trung Quốc thúc
đẩy các biện pháp nh điều chỉnh tỷ giá
hối đoái dần dần, cải thiện bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ và tự do hóa thơng mại
hơn cũng nh tuân thủ đầy đủ và tốt
WTO và thực hiện các cam kết quốc tế
khác. Mặc dù đòi hỏi những điều chỉnh
trong nền kinh tế chính trị của Trung
Quốc, cách tiếp cận này sẽ không nhất
thiết phải đa đến cải cách chính trị
toàn bộ. Nếu nh có thể thành công để
tạo nên một lần quá độ thứ hai, Trung

Quốc sẽ củng cố tốt cho sự tăng trởng
tiếp tục với sự ổn định, một sự gia tăng
thực chất về đầu t ra bên ngoài và một
vai trò lãnh đạo toàn cầu sau năm 2020.
Có một kịch bản nào nữa hay không?
Một khả năng thứ ba có thể là một
kịch bản quản lý khủng hoảng trong đó
một sự quá độ thứ hai thành công bị
đình trệ hoặc trì hoãn sau năm 2020
nhng những vấn đề kinh tế và chính trị
củng cố lẫn nhau trở nên trầm trọng.
Nhà nớc độc đảng có thể xử lý khéo léo
các cuộc khủng hoảng, nhng với những
khó khăn đang gia tăng, theo cách mà
một cơn bão hoàn hảo đợc tránh hoặc
trì hoãn sau năm 2020. Trong kịch bản
này, năng suất sản xuất suy giảm, tiền
lơng thực tế tăng, chi phí đất đai leo
thang tạo ra các thách thức, nhng
những áp lực trong hệ thống này không
tạo ra một cuộc khủng hoảng. Bất ổn
trầm trọng ở đô thị kết hợp với bất ổn ở
nông thôn, nhng một giới lãnh đạo kiên
cờng một cách ngạc nhiên xử lý tình
trạng lộn xộn và tránh một cuộc khủng
hoảng làm suy yếu.
Phạm Ngọc Thạch dịch

chú thích:
1

Ngâ
n hàng Thế giới, Trung Quốc năm 2020:
Những thách thức của cải cách trong thế kỷ mới,
Ngân hàng Thế giới, Washington D.C, 1997.
2
Gerald Segal: Trung Quốc quan trọng không,
Foreign Affair, (tháng 9, 10/1999), tr.25
3
Con số về tăng trởng năng suất đuợc lấy từ
nghiên cứu gần đây của Ban Hội thảo.
4
Điều này ám chỉ tới những điều kiện mà
Trung Quốc phải chấp nhận khi gia nhập WTO
nh một thành viên chính thức. Những điều kiện
này đã trải qua đàm phán giữa Trung Quốc, Mỹ
và các thành viên khác của WTO trong Ban Công
tác giao nhập WTO của Trung Quốc trong nhiều
năm. Những điều kiện đợc đề xuất bởi Chu
Dung Cơ tháng 4/1999 về cơ bản là những gì mà
Hoa Kỳ vẫn kiên quyết đòi. Do đó, là khó khăn
cho ngời Trung Quốc có thể hiểu nổi tại sao đề
xuất của họ vẫn không đợc Hoa Kỳ chấp nhận.
Phái đoàn Trung Quốc đã rời Hoa Kỳ với sự thất
vọng và bối rối. Một cách trớ trêu, những điều
kiện trên thực tế đợc Hoa Kỳ và Trung Quốc đạt
đuợc vào tháng 12/1999 lại còn hơi u đãi hơn cho
Trung Quốc so với những đề xuất mà Chu Dung
Cơ đa ra vào tháng 4-1999. Giai đoạn cuối cùng
của các cuộc đàm phán song phơng đợc mô tả
trong cuốn sách Một tỷ khách hàng: Bài học từ

việc kinh doanh với Trung Quốc của James
McGregor, NXB Free Press và Simon&Schuster,
New York, 2005.
5
Việc sử dụng năng lợng ám chỉ tới số lợng
năng lợng sử dụng trên mỗi đồng GDP tạo ra.

×