Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " Hàn Phi - tập đại thành của tư tưởng Pháp gia " pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.97 KB, 3 trang )

Hàn Phi:
75






heo Hàn Phi Tử tập thích (Bắc
Kinh, 1958) của Trần Kỳ Du,
Hàn Phi sinh khoảng năm
Hàn Tơng Vơng thứ 14 (tơng đơng
với Tần Chiêu Tơng Vơng năm thứ 9
năm 298 TCN), mất năm Hàn Vơng
An thứ 6 (tơng đơng với Tần Thuỷ
Hoàng năm thứ 14 năm 233 TCN),
thọ khoảng 65 tuổi. Hàn Phi vốn là một
công tử thờng thờng bậc trung, xuất
thân trong một gia đình dòng họ vơng
thất không quan chức. Ông đọc rất
nhiều sách, từng đến Lan Lăng nớc
Sở (nay là thị trấn Lan Lăng, phía Tây
Nam huyện Thơng Sơn, tỉnh Sơn
Đông) theo học Tuân Khanh. Hàn Phi
có tật nói lắp, song rất có khiếu văn
chơng. Tác phẩm để đời của ông là bộ
Hàn Phi Tử gồm 55 thiên, chia làm 20
quyển. Tác phẩm này ra đời đã đánh
dấu sự xác lập học thuyết Pháp gia,
một trong bốn học thuyết t tởng lớn
nhất của Trung Quốc (Nho Mặc Lão


Pháp).
Tơng truyền thời kỳ đầu, triều Chu
có tới hơn 800 nớc ch hầu. Bắt đầu từ
thời Xuân Thu, các nớc thôn tính lẫn
nhau; đến cuối thời Chiến Quốc, chỉ còn
lại 7 nớc là Triệu, Hàn, Ngụy, Yên, Sở,
Tề và Tần (Chiến Quốc thất hùng).
Trong 7 nớc thì Tần mạnh nhất, có thể
thôn tính 6 nớc còn lại. Muốn tồn tại
không bị diệt vong, 6 nớc kia buộc phải
tìm kiếm con đờng phú quốc cờng binh
để đối kháng với Tần, ngoài ra không
còn con đờng nào khác. Hơn nữa, giữa 6
nớc cũng thờng xâm phạm lẫn nhau,
nên để ổn định và phát triển, mỗi nớc
cần có binh lực mạnh và quốc khố dồi
dào. Nhận thấy đất nớc ngày càng suy
yếu, Hàn Phi bèn dốc lòng tìm kiếm con
đờng cứu nớc, đặng khiến quốc gia
thoát khỏi nguy khốn.
Hàn Phi học rộng, đa tài. Đối với
những bài học thành bại, đợc mất
trong việc trị nớc của các học phái từ
thời Xuân Thu, ông đều nghiên cứu rất
sâu. Vốn là ngời tôn sùng Thơng Ưởng,
nên học thuyết pháp trị của Hàn Phi
về đại thể là nơng theo Thơng Ưởng.
Pháp trị chính là đem pháp luật ban
bố rõ ràng nơi cửa công (Hiến lệnh tiền
vu quan phủ. Hàn Phi Tử Thiên Định

pháp) để mọi ngời theo đó hành xử. Ai
lập công thì đợc thởng, ai vi phạm
phải chịu tội. Ngời có công thì tất
thởng, ngời đợc thởng không phải
hàm ơn nhà vua, vì đó là do công sức của
anh ta làm nên; kẻ có tội thì tất phạt, kẻ
bị phạt không thể oán ngời trên, vì đó
là do tội lỗi mà anh ta gây nên. Dân
chúng biết đợc việc thởng hay phạt
đều là do mình thì sẽ quen với việc lập
công và chú trọng cái lợi chung trong
công việc (Thiên Nạn tam). Nh thế,
ngời thống trị không phải động não khi
quyết định thởng phạt ai đó; cũng
không phải lỡng lự với những ai đó
không có công mà đòi thởng hoặc giả có
tội lại cầu đợc miễn; thần dân thì vừa
T

nghiên cứu trung quốc
số
2(60) - 2005

76

không giám coi thờng mà làm bậy, lại
vừa không dám đòi thởng hoặc cầu
miễn tội. Đó chính là những điều mà
Hàn Phi gọi là Thợng hạ vô vi (Thiên
Dơng quyền).

Tuy nhiên, Hàn Phi không hoàn toàn
thoả mãn đối với chủ trơng của Thơng
Ưởng, vì Thơng Ưởng chỉ dụng Pháp,
không dụng Thuật. Hàn Phi nói: Không
có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy
cái giàu mạnh của nớc mà làm giàu cho
các quan đại thần mà thôi Vũ Vơng
chết, Chiêu Tơng Vơng lên ngôi, sai
Nhơng Hầu vợt nớc Hàn, nớc Ngụy
để đánh nớc Tề ở phía Đông. Suốt năm
năm mà nớc Tần không đợc thêm một
thớc đất, chỉ đắp thành cho đất phong
Đào ấp của ông ta. ứng hầu đánh nớc
Hàn tám năm, nhng chỉ dẫn đến việc
phong đất cho ông ta ở Nhữ Nam. Từ đó
về sau, những ngời đợc tin dùng ở
nớc Tần đều thuộc loại ứng Hầu,
Nhơng Hầu cả. Do đó, nếu nh đánh
thắng thì các đại thần đợc đề cao, đánh
chiếm đợc đất thì đất phong riêng đợc
lập, vì nhà vua không có cái thuật để
biết điều gian. Thơng quân (chỉ Thơng
Ưởng) tuy tìm mọi cách để tô vẽ cho
pháp luật của mình nhng các bầy tôi lại
dùng nó để mu lợi riêng. Bởi vậy, tuy cơ
sở của nớc Tần mạnh, nhng mấy mơi
năm vẫn không đạt đến đế vơng. Đó là
cái mối lo do nhà vua không có cái thuật
để trị nớc vậy. (Thiên Định pháp). Từ
đó, Hàn Phi muốn sử dụng thuật của

Thân Bất Hại. Thuật là nhân trách
nhiệm trao chức quan, theo tên gọi mà
đòi hỏi sự thực. Giữ cái quyền cho sống
và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi.
Đó là điều mà nhà vua phải nắm lấy
vậy. (Thuật giả, nhân nhiệm nhi thụ
quan, tuần danh nhi trách thực, thao sát
sinh chi bính, khoá quần thần chi năng
giả dã. Thử nhân chủ chi sở chấp dã -
Thiên Định pháp). Nh vậy, Thuật
chính là thủ đoạn, là biện pháp để nhà
vua chế ngự thần dân.
Đánh giá Pháp và Thuật, Hàn Phi
viết: Có ngời hỏi: Thân Bất Hại và
Công Tôn Ưởng, lời nói của hai nhà này,
lời của ai cần gấp cho nớc hơn? Xin
tha: Cái đó không thể nói đợc. Ngời
ta không ăn mời ngày thì chết. Trời
rét cóng, không mặc cũng chết. Nói
rằng quần áo và thức ăn cái nào cần
gấp cho con ngời hơn, thì hai cái này
không thể thiếu cái nào. Đó đều là
những thứ để nuôi dỡng sự sống vậy.
Nhà vua không có Thuật trị nớc thì ở
trên sinh ra dối trá; bầy tôi mà không
có Pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dới.
Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều
là những công cụ của bậc đế vơng
vậy (Thiên Định pháp).
Luận về Thế, Hàn Phi nói: Lỗ Ai

Công là ông vua kém, thế nhng khi
quay mặt về phơng Nam làm vua một
nớc thì dân trong bờ cõi ai cũng phải
làm tôi của ông ta. Đó là vì dân vốn phục
tùng theo uy thế. Uy thế rõ ràng (thặng
thế) dễ làm cho ngời ta phục theo mình,
cho nên Trọng Ni (chỉ Khổng Tử) lại làm
bầy tôi của ông ta, mà Ai Công thì làm
vua của Trọng Ni. Không phải Trọng Ni
thích cái nghĩa của nhà vua, nhng ông
ta phải phục tùng cái thế của nhà vua
vậy (Thiên Ngũ đố). Lại nói: Có tài mà
không có thế thì dù có hiền cũng không
thể khống chế đợc kẻ h hỏng. Kiệt làm
thiên tử thì có thể khống chế đợc thiên
hạ. Không phải vì ông ta hiền mà vì cái
thế của ông ta nặng; Nghiêu làm kẻ thất
phu thì không thể sửa đổi ba nhà. Không
phải vì ông ta h hỏng mà vì địa vị của
ông ta thấp vậy. Một ngàn cân đặt trên
thuyền thì nổi, một tri một thù không có
thuyền thì chìm, không phải vì ngàn cân
thì nhẹ mà một tri một thù thì nặng. Đó
Hàn Phi:
77

chẳng qua là vì có thế hay không có thế
mà thôi (Thiên Công danh). Nh vậy,
bàn về thuyết Thăng thế, Hàn Phi
muốn khẳng định quyền thởng phạt,

quyền sinh sát của bậc đế vơng, đặc
biệt là cần phải có thế lực để duy trì và
bảo vệ quyền uy, chẳng hạn nh quyền
chỉ huy quân đội.
Qua những điều trình bày trên, có thể
thấy Hàn Phi là tập đại thành của t
tởng Pháp gia, gồm có ba phái là Pháp
Thuật Thế. Trong bối cảnh lịch sử
xã hội lúc đó, t tởng của ông là tiến bộ,
thuận với trào lu phát triển của lịch sử.
Hàn Phi từng nhiều lần dâng th,
thỉnh cầu Hàn vơng biến pháp, sửa
sang pháp chế, lánh xa các đại thần gian
tà, sử dụng những kẻ sĩ tài năng, song
vua Hàn không nghe. Có một lần, Hàn
vơng phái đại thần Đờng Khê Công
tiếp kiến Hàn Phi, thẳng thừng cự tuyệt
ý kiến biến pháp của ông. Chủ trơng
của Hàn Phi, vì thế, trớc sau không
đợc thực hiện ở nớc Hàn.
Sau đó, các thiên Cô phẫn (Nỗi phẫn
uất của con ngời cô độc) và Ngũ đố
(Năm bọn sâu mọt) do Hàn Phi trớc tác
truyền đến nớc Tần. Tần Thuỷ Hoàng
đọc đợc, vô cùng tán thởng nhng
không biết tác giả là ai, và nói, nếu đợc
làm bạn với ngời đó thì chết cũng
không uổng. Lí T, vốn có thời cùng Hàn
Phi theo học Tuân Khanh bèn nói, đó
chính là những trớc tác của Hàn Phi.

Tần vơng lập tức khởi binh tấn công
nớc Hàn. Hàn Vơng An trớc nay
không dùng Hàn Phi, đến lúc nguy cấp
mới phái ông đi sứ nớc Tần. Năm Hàn
Vơng An thứ 5 (Tần Thuỷ Hoàng năm
thứ 13 năm 234 TCN), Hàn Phi đến
nớc Tần, dâng th lên Tần vơng. Đó
chính là thiên Tồn Hàn (Bảo tồn nớc
Hàn), trong đó Hàn Phi chứng minh sự
tồn tại của nớc Hàn sẽ có lợi cho nớc
Tần. Tần Thuỷ Hoàng đa th này cho
Lí T và Diêu Giả đánh giá, bình luận.
Nhân việc này, Lí T thừa dịp công kích
Hàn Phi, nói ông là công tử nớc Hàn,
nên chỉ vì nớc Hàn chứ không vì nớc
Tần, nếu để ông ta tự do ở nớc Tần sẽ
là một tai họa. Tần vơng nghe theo Lí
T, bắt Hàn Phi bỏ ngục. Hàn Phi lại
viết thiên Sơ kiến Tần (lần đầu yết kiến
vua Tần) dâng lên Tần Thuỷ Hoàng, hy
vọng sẽ nói hết đợc ý mình khi yết kiến
Tần vơng, song Tần vơng cha kịp
tiếp kiến, Lí T đã sai ngời ép Hàn Phi
uống thuốc độc. Nghe nói, sau khi bỏ
ngục Hàn Phi, Tần vơng ân hận bèn
lệnh cho thả ông ra, nhng Hàn Phi
đã chết trong ngục Vân Dơng năm Tần
Thuỷ Hoàng thứ 14.
Hàn Phi tuy chết đi, nhng thuyết
Pháp trị của ông ta lại đợc Lí T sử

dụng để cai trị nớc Tần, giúp Tần
Thuỷ Hoàng hoàn thành nghiệp bá,
thống nhất Trung Quốc. Các nhà Pháp
trị ở Trung Quốc qua các đời đều tôn
sùng Hàn Phi. Trong lịch sử pháp chế,
t tởng và triết học Trung Hoa, Hàn
Phi có một vị trí xứng đáng, không thể
thay thế.
Hơng Thảo Biên khảo
Sách tham khảo
1. Từ hải, Thợng Hải Từ th xuất bản xã, 1989.
2. Nhiều tác giả: Trung Quốc lịch sử tam bách
đề, Thợng Hải Cổ tịch xuất bản xã, 1989.
3. Hàn Phi: Hàn Phi Tử, Phan Ngọc dịch, Nxb
Văn học, Hà Nội, 2001.

×