Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " Tiến trình và mục đích gia nhập WTO của Đài Loan " pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.89 KB, 8 trang )


nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


74







Dơng văn lợi*
ài Loan với nguồn tài nguyên
thiên nhiên thiếu hụt, thị
trờng trên đảo bị giới hạn,
nên sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa
vào mậu dịch đối ngoại, thị trờng xuất
khẩu chủ yếu là Mỹ và Nhật Bản. Trớc
những năm 80 của thế kỷ XX, Mỹ, Nhật
và các nớc phơng Tây đã áp dụng
chính sách nâng đỡ và rộng mở đối với sự
phát triển của nền kinh tế Đài Loan.
Nhng sau đó, do cuộc khủng hoảng dầu
mỏ thế giới lần thứ hai, nền kinh tế thế
giới không mấy khởi sắc, các nớc
phơng Tây để bảo vệ lợi ích của mình
đã thực thi chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch,
áp dụng hàng loạt biện pháp hạn chế
trong thơng mại. Hơn nữa, Mỹ còn
nhiều lần gây áp lực với Đài Loan về vấn


đề mậu dịch, buộc Đài Loan mở cửa thị
trờng trên đảo và hạ thấp thuế quan
Môi trờng quốc tế bên ngoài nh vậy là
điều bất lợi cho sự phát triển nền kinh tế
Đài Loan. Chính bối cảnh kinh tế này
đã trở thành động lực thôi thúc Đài Loan
đệ đơn xin gia nhập GATT (General
Agreement on Tariffs and Trade-tổ chức
tiền thân của WTO). Bài viết này chủ yếu
tập trung trình bầy, phân tích tiến trình
và mục đích gia nhập WTO của Đài
Loan.
I. Tiến trình gia nhập WTO của
Đài Loan
Vào đầu tháng 1-1990, theo quy định
Điều khoản thứ 33 của GATT, Đài Loan
với quyền tự chủ trong quan hệ mậu dịch
đối ngoại đã chính thức đệ đơn tới Ban
Th ký xin gia nhập GATT. Trải qua
nhiều năm nỗ lực, cuối cùng đã hoàn tất
các hạng mục đàm phán xin gia nhập
song phơng và đa phơng vào năm 2001.
Ngày 18-9-2001, Ban Công tác kết nạp
Đài Loan đã tiến hành Hội nghị lần thứ
11 chấp nhận Nghị định th gia nhập và
Báo cáo của Ban Công tác này. Đồng thời,
tại Hội nghị Bộ trởng WTO lần thứ t
họp ngày 11-11 cùng năm đã thông qua
Đơn xin gia nhập của Đài Loan. Ngày 12
tháng 11, nguyên Bộ trởng Bộ Kinh tế

Lâm Tín Nghĩa đại diện cho Đài Loan ký
Nghị định th gia nhập WTO và đợc
Quốc hội Đài Loan
* Thạc sỹ. Viện Nghiên cứu Trung Quốc
thông qua ngày 16-11. Ngày 20-11 Tổng
thống Trần Thủy Biển đã phê chuẩn
Điều ớc gia nhập này. Sau khi Nghị
định th trình lên Tổng Th ký WTO
đợc chấp nhận, trải qua 30 ngày chờ đợi
đến ngày 1-1-2002, Đài Loan đã chính
Đ



Tiến trình và mục đích

75

thức trở thành thành viên thứ 144 của
WTO. Sau đây xin điểm lại những mốc
chính trong tiến trình gia nhập WTO của
Đài Loan:
Ngày 1-1-1990, sau khi chính quyền
Đài Loan đánh giá thấy việc gia nhập
GATT có lợi nhiều hơn cho sự phát triển
của nền kinh tế nên đã lấy danh nghĩa
Lãnh thổ Hải quan riêng biệt Đài Loan,
Bành Hồ, Kim Môn và Mã Tổ dựa theo
Điều khoản quy định thứ 33 của GATT
chính thức đệ đơn xin gia nhập tới Ban

Th ký, đồng thời cũng gửi kèm Bản ghi
nhớ Thể chế Thơng mại, nhng đơn
này đã bị gác lại không đợc Ban Th ký
của GATT giải quyết. Đến năm 1991, do
đợc sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ lúc đó
nên Đài Loan đã phá bỏ đợc cục diện bế
tắc này trong hơn 1 năm, làm cho các
thành viên của GATT đã chuyển hớng
tích cực và khẳng định đối với đơn xin gia
nhập của Đài Loan.
Nửa đầu năm 1992, Mỹ và Liên minh
châu Âu tích cực tìm kiếm những nhận
thức chung của các nớc thành viên
nhằm thành lập Ban Công tác gia nhập
GATT đối với Đài Loan. Đến ngày
8-9-1992, Chủ tịch Hội đồng GATT
đã triệu mời đại biểu các nớc thành viên
chủ yếu tiến hành hỏi ý kiến và đi đến
nhận thức chung về việc xin gia nhập của
Đài Loan. Cuối cùng vấn đề này của Đài
Loan cũng đã đợc liệt vào chơng trình
làm việc của Đại hội đồng GATT. Ngày
29-9-1992, Đại hội đồng GATT thống
nhất thông qua thành lập Ban Công tác
thẩm tra Đề án xin gia nhập GATT của
Đài Loan, đồng thời cho phép Đài Loan
có t cách là quan sát viên để Đài Loan
có thể tham gia các hội nghị có liên quan
khác.
Ngày 24-2-1993, Chính phủ Thụy Sĩ

đồng ý cho Đài Loan thành lập Đoàn đại
biểu tại GATT ở Giơ-ne-vơ. Tên tiếng
Anh chính thức của Đoàn đại biểu này là
Representation of the separate customs
territory of Taiwan, Penghu, Kinmen and
Matsu in GATT. Ngày 21-12-1994, Thứ
trởng Bộ Kinh tế Đài Loan Hứa Hà
Sinh đã dẫn đoàn đại biểu tham gia Hội
nghị lần thứ 7 của Ban Công tác kết nạp
Đài Loan. Hội nghị lần này đã hoàn
thành việc thẩm tra hệ thống thơng mại
của Đài Loan.
Hiệp định vòng đàm phán Uruguay
đã quyết định thành lập Tổ chức Thơng
mại thế giới (WTO) vào ngày 1-1-1995,
và đến ngày 1 tháng 12 cùng năm đơn
xin gia nhập của Đài Loan mới đợc
chuyển lên Ban Th ký WTO xem xét
theo Điều khoản thứ 12 của Hiệp định
WTO.
Đến năm 2000, Đài Loan đã hoàn tất
đàm phán song phơng và ký Hiệp định
song phơng với tất cả các nớc trong
Ban Công tác, và thông thờng Đại hội
đồng WTO có thể chấp thuận ngay sau
đó. Tuy nhiên, do sức ép trong quan hệ
quốc tế, Đài Loan đã không thể kết thúc
lộ trình gia nhập WTO của mình dễ dàng
nh vậy. Các thỏa thuận song phơng
chủ yếu đã kết thúc, nhng dới một

thỏa thuận không chính thức là chỉ có
thể gia nhập tổ chức này sau Trung
Quốc.

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


76

Ngày 18-9-2001, Thứ trởng Bộ Kinh
tế Trần Thụy Long dẫn đoàn tham gia
Hội nghị chính thức lần cuối của Ban
Công tác kết nạp Đài Loan vào WTO
đợc khai mạc ở Giơ-ne-vơ. Tại Hội nghị,
công việc thẩm định các văn bản gia
nhập WTO của Đài Loan nh Nghị định
th gia nhập, Báo cáo của Ban Công tác,
Bảng tổng hợp miễn giảm thuế quan và
Bảng cam kết của ngành dịch vụ
đã thuận lợi hoàn thành.
Ngày 11-11-2001, Hội nghị Bộ trởng
WTO lần thứ t tại Qatar chính thức
thông qua Đề án gia nhập WTO của Đài
Loan. Sau khi Quốc hội Đài Loan và
Tổng thống Trần Thủy Biển thông qua
và phê chuẩn Điều ớc. Ngày 2-12, Đài
Loan gửi công hàm xác nhận Nghị định
th lên Tổng Th ký WTO, trải qua 30
ngày thụ lý, đến ngày 1-1-2002 Đài Loan
đã chính thức trở thành thành viên của

WTO.
Trong tiến trình gia nhập WTO, Đài
Loan đã trải qua hơn 200 vòng đàm phán
song phơng và 10 vòng Hội nghị đàm
phán đa phơng, tổng cộng phải tiến
hành đàm phán với 26 đối tác thành viên
WTO. Nhằm giảm bớt những tác động
tiêu cực cho nền kinh tế-đặc biệt là
ngành nông nghiệp khi gia nhập WTO,
trong quá trình đàm phán, Đài Loan
đã tích cực đấu tranh và đạt đợc một số
kết quả đáng khích lệ. Nh trong lĩnh
vực nông nghiệp, có 41 mặt hàng nông
sản thuộc loại hạn chế nhập khẩu đợc
áp dụng Điều khoản Xử lý đặc biệt trong
Phụ lục 5 của Hiệp định Nông nghiệp,
tức là đợc thực hiện mở cửa thị trờng
theo phơng thức hạn chế số lợng nhập
khẩu, và 14 loại hàng nông sản nhạy
cảm nh mía đờng, sữa nớc, lạc, tỏi,
đậu đỏ, nấm hơng khô, bởi, hồng, lê,
cau, thịt gà, thịt bụng lợn, nội tạng, hoa
loa kèn Đài Loan có thể áp dụng Biện
pháp phòng vệ đặc biệt (SSG). Về lĩnh
vực công nghiệp, sản phẩm công nghiệp
ôtô đợc áp dụng chế độ hạn ngạch thuế
quan, Đài Loan là khu vực duy nhất đợc
áp dụng hạn ngạch nhập khẩu mặt hàng
ôtô. Ngoài ra, còn một số mặt hàng khác
thay vì phải hạ thấp thuế quan hay phải

mở rộng cửa thì Đài Loan đã đấu tranh
đợc thực hiện hạn ngạnh thuế quan
theo những lộ trình nhất định hoặc đợc
kéo dài thời gian thực hiện mở cửa để các
ngành kém sức cạnh tranh trên đảo có
thời gian chuẩn bị hội nhập. Vậy, đạt
đợc kết quả nh trên là do đâu? Có thể
thấy đó là nhờ vào Đài Loan đã chuẩn bị
một sách lợc rõ ràng trong đàm phán,
những sách lợc đó là:
Thứ nhất, phát triển các ngành nghề
đồng thời với việc gia nhập WTO. Trong
khi tiến hành các vòng đàm phán, các bộ
ngành đã xem xét kỹ lỡng đến nhu cầu
phát triển của toàn bộ nền kinh tế để có
thể giành lấy lợi ích lớn nhất phù hợp cho
Đài Loan. Chú ý đến năng lực cạnh
tranh của một số ngành hàng cá biệt
nhằm giảm nhẹ mức độ tác động khi gia
nhập.
Thứ hai, lấy thua ít là thắng lợi để
làm hội phí. Theo quy định của WTO
ngời xin gia nhập hội cần phải giao nộp
hội phí, bao gồm mở cửa thị trờng, dành
cho các nớc hội viên đợc hởng đãi ngộ
Tiến trình và mục đích

77

Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc dân. Do Đài

Loan trong lúc đàm phán cha là thành
viên của WTO, nhng khi xin gia nhập
vẫn phải dựa theo tập quán của WTO mở
cửa thị trờng cho các nớc hội viên còn
Đài Loan thì lại không đợc yêu cầu các
nớc hội viên mở cửa thị trờng cho
mình. Trớc tình hình đó, sách lợc đàm
phán gia nhập WTO của Đài Loan lúc đó
phải là một loại sách lợc thua ít chính
là thắng. Ví dụ, Đài Loan một mặt cam
kết mở cửa thị trờng, nhng mặt khác
lại tận dụng tranh thủ kéo dài thời gian
điều chỉnh mở cửa.
Thứ ba, liên kết các nớc nhỏ dụ dỗ
nớc lớn. Đài Loan gia nhập WTO tổng
cộng có 26 nớc đối tác yêu cầu đàm
phán, do số lợng các quốc gia đàm phán
quá nhiều nên trong sách lợc đàm phán,
Đài Loan đã áp dụng trớc tiên kết thúc
đàm phán song phơng với các nớc nhỏ
nh Na-uy, Iceland (hay vấn đề đàm
phán tơng đối nhỏ), sau đó căn cứ vào
đó thơng lợng với các nớc lớn nhằm
khơi dậy lòng đại nghĩa của họ, thúc đẩy
các nớc lớn nh Mỹ nhanh chóng đồng ý
kết thúc đàm phán với Đài Loan.
Thứ t, tiến hành diễn thuyết hợp
tung liên hoành. Để tranh thủ sự ủng hộ
Đài Loan gia nhập WTO của các nớc
thành viên, Đài Loan đã lợi dụng Hội

nghị Bộ trởng APEC, Hội nghị Bộ
trởng WTO và các loại Hội nghị quốc tế
khác tiến hành diễn thuyết kêu gọi các
nớc ủng hộ.
Cuối cùng là tìm kiếm sự ủng hộ trong
Viện Lập pháp Đài Loan bởi sự ủng hộ
của Viện Lập pháp là điểm mấu chốt cho
Đài Loan liệu có thể thuận lợi trở thành
thành viên của WTO hay không. Một khi
các thành viên trong Viện này không
biểu quyết thông qua thì dù kết quả đàm
phán có tốt đẹp đến đâu thì việc trở
thành thành viên của WTO cũng khó
thành hiện thực. Do vậy, các cơ quan
hành chính của Đài Loan đã thành lập
một Tổ công tác liên Bộ về trao đổi giữa
việc Đài Loan gia nhập WTO với Viện
Lập pháp nhằm có những nhận thức
chung để tranh thủ sự ủng hộ từ phía
Viện Lập pháp.
Nh vậy, về khía cạnh đàm phán, để
có thể đàm phán thơng mại thành công
thì ngời tham gia đàm phán cần phải có
trí tuệ, cũng cần phải học tập, cần thể lực,
cũng cần sự nhẫn nại và quan trọng hơn
cần phải có sự ngầm hiểu lẫn nhau trong
đoàn đàm phán. Đợc nh vậy thì có thể
biến dị kiến thành tơng đồng, biến đối
lập thành hợp tác. Bí quyết thành công
trong đàm phán thơng mại phải chăng

là cần tận dụng hết các cơ hội có thể để
tiếp tục đàm phán, tuyệt đối không phá
vỡ, không bỏ cuộc và với sách lợc hai
bên cùng thắng mới là nguyên tắc chỉ
đạo cao nhất của ngời đàm phán, mới có
thể hóa giải đợc những tranh chấp
trong thơng mại. Ngợc lại, nếu với lập
trờng cứng rắn và cố chấp, khi gặp phải
áp lực của đối phơng thì lập tức nói
không, tất nhiên sẽ thể hiện khí phách
của ngời đàm phán và dờng nh duy
trì đợc sự tôn nghiêm của dân tộc,
nhng về lâu dài mà nói thì đàm phán
của hai bên sẽ đổ vỡ, sự việc bất thành sẽ
tạo nên những thiệt hại lớn về lợi ích

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


78

thơng mại không thể tính hết. Đây là
điểm chúng ta cũng cần phải suy ngẫm,
nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế ngày
nay và đàm phán là yếu tố không thể thiếu
trong quan hệ thơng mại quốc tế.
II. Những lợi ích về kinh tế,
chính trị của Đài Loan khi gia
nhập WTO
Nền kinh tế Đài Loan là một nền kinh

tế hớng ngoại lấy xuất khẩu làm chủ
đạo, từ những năm 60 đến những năm 90
của thế kỷ XX, nền kinh tế Đài Loan luôn
duy trì tốc độ tăng trởng tơng đối cao,
nhng năm 2001 tốc độ tăng trởng kinh
tế là -2,18%, đây là lần đầu tiên tăng
trởng âm trong vòng 50 năm. Đài Loan
là một khu vực xuất khẩu lớn đứng thứ
15 trên thế giới, không ít những ngành
nghề nh các ngành về công nghệ thông
tin đều có sức cạnh tranh nhất định trên
quốc tế. Vậy, chúng ta có thể đặt câu hỏi
vì sao Đài Loan lại nỗ lực gia nhập WTO
trong khi Đài Loan đã có khoảng 160 đối
tác thơng mại? Hay mục đích và những
lợi ích khi Đài Loan gia nhập WTO là gì?
Bởi đây chính là những động lực quan
trọng bao trùm lên các chính sách của
Đài Loan trong suốt hơn 1 thập kỷ, đến
mức ứng trớc nhiều khoản cam kết để
Đài Loan có thể gia nhập WTO.
Nhìn vào quá trình phát triển của Đài
Loan chúng ta có thể thấy, từ những
năm 50 của thế kỷ XX, nền nông nghiệp
của Đài Loan dần chuyển hình sang nền
kinh tế công nghiệp, nhng do thị trờng
trên đảo nhỏ bé cần phải dựa vào thơng
mại để mở rộng quy mô, do đó từ năm
1958 Đài Loan bắt đầu áp dụng chính
sách phát triển hớng về xuất khẩu.

Chính sách này cũng phù hợp với trào
lu mở cửa mậu dịch của quốc tế trong
những năm 60 nên mậu dịch đối ngoại
của Đài Loan đã phát triển mạnh mẽ.
Nhng bớc vào giai đoạn những năm 70,
tình hình quốc tế rất bất lợi đối với Đài
Loan. Trớc tiên, Đài Loan bị đa ra
khỏi Liên Hợp quốc (1971), tiếp theo là
cắt đứt quan hệ với nớc có nguồn nhập
khẩu lớn nhất là Nhật Bản (1973) và
nớc có thị trờng xuất khẩu lớn nhất là
Mỹ (1979). Khi bị cô lập về chính trị thì
sẽ ảnh hởng trực tiếp tới mậu dịch đối
ngoại. Hơn nữa, sự khó khăn trong ngoại
giao lại càng làm tăng thêm tính quan
trọng của mậu dịch đối ngoại. Trong giai
đoạn này, chính quyền Đài Loan lợi dụng
thông qua con đờng quan hệ song
phơng để duy trì các mối quan hệ tốt
đẹp về mậu dịch, bảo đảm sự phát triển
của nền kinh tế. Sau khi đoạn giao với
Mỹ, 98% quan hệ thơng mại của Đài
Loan là quan hệ với các quốc gia không
có bang giao, nên mậu dịch đối ngoại lúc
này là cực kỳ khó khăn.
Sang những năm 80, chủ nghĩa bảo hộ
mậu dịch ngày càng lan rộng, Đài Loan
do không phải là thành viên của GATT
nên khi đối diện với chủ nghĩa bảo hộ thì
cần phải dựa vào đàm phán để hóa giải

nguy cơ, và thờng xuyên phải đối diện
với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của các
nớc. Đài Loan tuy đợc hởng chế độ
Tối huệ quốc vĩnh viễn đối với Mỹ,
nhng với các quốc gia khác không phải
Tiến trình và mục đích

79

nớc nào cũng đợc nh vậy. Trải qua
thời gian dài thực hiện công tác mậu dịch
đối ngoại đã làm cho Đài Loan hiểu rõ
rằng, trớc tình trạng không có quan hệ
ngoại giao, thiếu hụt sự trợ giúp của
chính trị, không gia nhập tổ chức kinh tế
quốc tế, thì vấn đề thơng lợng về
thơng mại với các nớc khác là vô cùng
gian khổ. Với kinh nghiệm của giai đoạn
những năm 70 và 80 khiến cho Đài Loan
có cảm nhận sâu sắc vai trò quan trọng
của việc gia nhập các tổ chức kinh tế
quốc tế là tuyệt đối cần thiết đối với sự
phát triển kinh tế của Đài Loan. Và đây
có thể coi là lý do cốt yếu để Đài Loan nỗ
lực gia nhập WTO.
Tuy nhiên, ngoài lý do trên, Đài Loan
còn có những lý do về mặt kinh tế và
chính trị mà các nớc thành viên đem lại
cho Đài Loan sau khi gia nhập. Trớc
tiên về mặt kinh tế, Đài Loan gia nhập

WTO có ít nhất ba điểm lợi sau:
Một là, Đài Loan là một trong những
khu vực công nghiệp hóa mới, nền kinh
tế Đài Loan đang tiến tới tự do hóa và
quốc tế hóa, nên gia nhập WTO có thể
thúc đẩy Đài Loan tiến thêm một bớc
hội nhập vào thị trờng quốc tế, phát
triển quan hệ kinh tế với các quốc gia và
khu vực.
Hai là, gia nhập WTO có thể bảo đảm
đợc trạng thái cân bằng giữa nghĩa vụ
phải thực thi với lợi ích đợc hởng thụ
trong mậu dịch đối ngoại.
Ba là, Đài Loan đợc hởng thụ chế
độ đãi ngộ tối huệ quốc và có địa vị bình
đẳng trong cạnh tranh quốc tế với các
quốc gia và khu vực khác. Đồng thời, có
thể lợi dụng những quy tắc trong Hiệp
định Tổ chức Thơng mại Thế giới để
chống lại các biện pháp bảo hộ mậu dịch
bất công bằng. Trong điều kiện tranh
chấp thơng mại đang ngày càng gia
tăng, thì Đài Loan có thể lợi dụng cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO để xử lý
tranh chấp thơng mại khi sảy ra. Nh
vậy, hàng hóa xuất khẩu của Đài Loan sẽ
đợc bảo đảm hơn trên trờng quốc tế và
có lợi cho việc mở rộng hoạt động mậu
dịch đối ngoại. Về tổng thể gia nhập
WTO có lợi cho nền kinh tế trên đảo và

cải thiện cơ cấu ngành nghề. Tất nhiên,
khi Đài Loan gia nhập WTO thì cũng gặp
phải những nhân tố bất lợi về kinh tế.
Nh, về ngắn hạn thì một số ngành nghề
thiếu sức cạnh tranh sẽ chịu tác động
mạnh khi mở cửa thị trờng, nhng nhìn
chung là lợi nhiều hơn hại.
Đài Loan là một nền kinh tế hớng
ngoại bởi vậy gia nhập WTO Đài Loan sẽ
có nhiều cơ hội thơng mại hơn. Về lĩnh
vực công nghiệp, giá nhập khẩu nguyên
liệu giảm xuống có lợi cho các doanh
nghiệp hạ thấp giá thành sản phẩm.
Đồng thời, giá nhập khẩu sản phẩm công
nghiệp hạ sẽ kích thích tiêu dùng trên
đảo, từ đó tạo cho các hoạt động thơng
mại thêm sôi nổi. Ngoài ra còn có tác
dụng thúc đẩy việc nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trên đảo với
hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào.
Đài Loan là một trong những thị trờng
xuất khẩu lớn đối với các ngành điện tử
và ngành dầu khí nên khi gia nhập
WTO Đài Loan có thể lợi dụng việc cắt
giảm thuế quan của thị trờng các nớc

nghiên cứu trung quốc số 6(65) - 2005


80


mà mở rộng thị trờng xuất khẩu đối với
các ngành có u thế. Về lĩnh vực nông
nghiệp, mặc dù gia nhập WTO ngành
nông nghiệp sẽ chịu tác động lớn nhất,
tuy nhiên đối với các doanh nghiệp nhập
khẩu và doanh nghiệp chế biến hàng
nông sản thì do giá nhập khẩu giảm nên
đã hạ thấp đợc giá thành sản phẩm.
Đồng thời, khi gia nhập WTO, Đài Loan
cam kết xóa bỏ hạn chế khu vực nhập
khẩu và số lợng nhập khẩu nên sản
phẩm nông nghiệp tiêu thụ trên đảo và
doanh nghiệp gia công chế biến hàng
nông sản sẽ có nhiều cơ hội đợc lựa chọn
sản phẩm đa dạng hơn và cũng có thể hạ
thấp giá thành. Về lĩnh vực dịch vụ, gia
nhập WTO sẽ có nhiều cơ hội buôn bán
mới trong các ngành nghề liên quan nh
ngành dịch vụ thông tin di động, hệ
thông quản lý thông tin viễn thông, hệ
thống phần mềm viễn thông loại lớn,
quảng cáo và phân phối Doanh nghiệp
ngành bảo hiểm tài chính có thể mở rộng
nghiệp vụ ra nớc ngoài, tiến hành
chuyển đổi sang quốc tế hóa, có lợi cho
doanh nghiệp Đài Loan thi hành sách
lợc toàn cầu. Còn về phơng diện mua
sắm của chính phủ, Đài Loan có thể thu
hút đợc những kỹ thuật, trình độ quản

lý tiên tiến của nớc ngoài, giúp cho việc
nâng cao chất lợng và kỹ thuật các công
trình trên đảo, tạo đà cho việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Đài Loan. Đồng thời, sau khi gia
nhập WTO, có thể tăng thêm cơ hội hợp
tác làm ăn giữa doanh nghiệp Đài Loan
với doanh nghiệp nớc ngoài. Ngoài ra,
có thể mở rộng thị trờng mua sắm chính
quyền trong các nớc đã ký Hiệp định
Mua sắm Chính phủ, làm tăng thêm cơ
hội phát triển hớng ra bên ngoài cho các
doanh nghiệp Đài Loan. Đó là tất cả
những điểm lợi về mặt kinh tế khi Đài
Loan gia nhập WTO.
Thứ hai về mặt chính trị, nh trên
đã nói từ đầu những năm 70, sau khi
chính quyền Đài Loan bị rút khỏi Liên
hợp quốc thì địa vị quốc tế của Đài Loan
ngày càng hạ thấp. Ngày càng có nhiều
quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc, đặc biệt là trong những
năm gần đây sức mạnh tổng hợp của
Trung Quốc tăng lên thì chính quyền Đài
Loan lại càng trở nên đơn độc. Để tìm
kiếm không gian sinh tồn và mở rộng vũ
đài quốc tế của mình, chính quyền Đài
Loan hết sức coi trọng việc tận dụng tối
đa mỗi khi có cơ hội đến. Và việc gia
nhập WTO cũng có thể coi là một cơ hội

mà Đài Loan có thể tận dụng. Theo một
số nghiên cứu của các học giả Trung
Quốc thì khi gia nhập WTO Đài Loan có
thể thực hiện mu đồ chính trị của mình
trong ba phơng diện sau:
Một là, có lợi cho việc thực thi chính
sách ngoại giao thực dụng. Đài Loan
gia nhập WTO có thể lợi dụng cơ hội mỗi
lần WTO tổ chức các hội nghị quốc tế, tổ
chức đa biên, đàm phán song phơng và
các hoạt động khác thì có thể tiếp xúc
rộng rãi với các quốc gia thành viên. Từ
đó có thể xây dựng các mối quan hệ với
những nớc này nhằm thực hiện chính
sách ngoại giao thực dụng. Chính
quyền Đài Loan đang nằm trong thế bị cô
lập nên bức bách tìm kiếm các loại diễn
đàn có thể biểu đạt ý đồ chính trị của
Tiến trình và mục đích

81

mình, khi gia nhập WTO thì có thể vận
dụng cụ thể và thực thi các chính sách
ngoại giao thực dụng nh ngoại giao
thơng mại, ngoại giao đồng tiền
Đồng thời, có thể lợi dụng đầy đủ những
u thế về thơng mại và lợng dự trữ
ngoại tệ phong phú để triển khai chính
sách ngoại giao kinh tế nhằm kéo gần

quan hệ với các nớc á, Phi và Mỹ La
tinh.
Hai là, có lợi cho việc mở rộng không
gian sinh tồn quốc tế. Đài Loan gia nhập
WTO, một mặt giúp Đài Loan tăng cờng
tiếp xúc với các quốc gia không có quan
hệ bang giao
(1)
để có thể nhận đợc
nhiều hơn sự hiểu biết và ủng hộ của các
quốc gia này, đặc biệt là sự ủng hộ phía
sau của một số tập đoàn các nớc phơng
Tây. Đồng thời Đài Loan có thể lợi dụng
quan hệ quốc tế đa phơng để tạo thế cân
bằng quan hệ hai bờ.
Ba là, Đài Loan gia nhập WTO với t
cách khu vực thuế quan độc lập nh vậy
Đài Loan trở thành một thực thể kinh
tế bình đẳng trong các hoạt động quốc tế
của WTO.
Tóm lại, sau 12 năm nỗ lực Đài Loan
cuối cùng cũng đã trở thành thành viên
của một tổ chức thơng mại lớn nhất
toàn cầu. Nhìn lại chặng đờng gia nhập
WTO của Đài Loan có thể thấy Mỹ
đã đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tiến trình này. Tuy nhiên, so
với một số nớc và khu vực khác thì 12
năm là khoảng thời gian tơng đối dài,
bởi một trong những lý do quan trọng đó

là Đài Loan phải thực hiện nguyên tắc
Trung Quốc trớc, Đài Loan sau, do
vậy, dù Đài Loan có hoàn tất công việc
đàm phán với các đối tác thì cũng phải
đợi Trung Quốc gia nhập xong mới đến
lợt. Những lợi ích về kinh tế và chính trị
nh trên thì việc Đài Loan nỗ lực gia
nhập WTO là cần thiết.



Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo của Ban Công tác Đài Loan.
2. Nghị định th gia nhập WTO.
3. Lâm Trờng Hoa, Phân tích tình
hình kinh tế Đài Loan năm 2004 và triển
vọng 2005, Tạp chí Nghiên cứu Đài Loan,
Trung Quốc, số 1/2005.
4. Trần Hớng Thông, Gia nhập WTO
tác động tới nền kinh tế Đài Loan và đối sách
của nó, Tạp chí Kinh tế Châu á TBD, Trung
Quốc, số 5/2002.
5. Hà Kỳ Sinh, Bàn đến vấn đề pháp
luật khi Đài Loan gia nhập WTO, Tạp chí
Nghiên cứu Đài Loan, Trung Quốc, số
4/1997.
6. Giang Bỉnh Khôn, Suy nghĩ về phát
triển nền kinh tế Đài Loan và triển vọng,
Nxb Liên Kinh, Đài Bắc, 2004.

7. Thế kỷ mới gia nhập WTO: Bớc
ngoặt và ảnh hởng, Nxb Cục Thơng mại
Quốc tế, Bộ Kinh tế Đài Loan, Đài Bắc, 2002.
8. Tạp chí Triển vọng kinh tế, Đài
Loan, số 83 (9/2002); số 86 (3/2003); số 89
(9/2003).

×