Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hoàng cầm – Vị thuốc thanh nhiệt potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.34 KB, 5 trang )

Hoàng cầm – Vị thuốc thanh nhiệt
Hoàng cầm là vị thuốc có
xuất xứ từ Trung Quốc,
nhưng từ rất lâu đã có mặt
thường xuyên ở thị trường
Việt Nam. Có tới hơn 100 loài
được gọi là hoàng cầm. Trên
thực tế, loài hoàng cầm
Scutellaria baicalensis Georgi. là loài từ trước đến
nay được Đông y sử dụng phổ biến nhất. Đặc điểm
của loài này cũng dễ nhận ra vì nó có dạng như chân
của con gia cầm, bên ngoài có màu vàng, bên trong
lõi thường xốp, có màu nâu đất, đôi khi rất dễ bị vỡ
vụn ra. Các loài còn lại rễ thường nhỏ và phân nhiều
nhánh con, vỏ rễ ít vàng hơn. Cũng cần biết rằng
hoàng cầm chỉ có tác dụng tốt khi bên ngoài vỏ rễ
còn giữ được màu vàng, một khi bên ngoài rễ đã biến
thành màu xanh gỉ đồng thì hiệu quả trị bệnh của nó

Lệ giang hoàng cầm.

sẽ giảm đi rất nhiều, đôi khi hết tác dụng vì thành
phần hóa học đã bị thay đổi nhiều. Hoạt chất của nó
đã bị ôxy hóa chuyển thành các chất không có tác
dụng nữa. Do vậy cần hết sức lưu ý khi sử dụng vị
thuốc này. Trong hoàng cầm, thành phần hóa học chủ
yết là các hợp chất flavonoid, ngoài ra còn có các
thành phần chalcone, tinh dầu…
Tác dụng sinh học của hoàng cầm
Dịch sắc của hoàng cầm sau khi chế biến đều có phổ
kháng khuẩn khá rộng, có tác dụng ức chế với nhiều


loại vi khuẩn: trực khuẩn bạch hầu, thương hàn, ho
gà, lỵ, tụ cầu khuẩn, song cầu khuẩn viêm não, viêm
phổi, liên cầu khuẩn tan huyết, còn có tác dụng hạ
nhiệt tốt, tác dụng kháng viêm, giảm ho, trừ đờm, lợi
tiểu, hạ huyết áp. Hoàng cầm chế gừng có tác dụng
trị ho tốt. Hoàng cầm sao đen tăng cường tính thu
liễm cố sáp, nâng cao được tác dụng cầm máu.
Hoàng cầm sau khi chế biến có tác dụng chống ôxy
hóa tốt. Ngoài ra, người ta còn thấy rằng sau khi chế
biến, hoàng cầm còn có khả năng tăng cường dẫn
thuốc vào các kinh, làm thay đổi tác dụng và giảm đi
một số tác dụng phụ của vị
thuốc.
Công dụng trị bệnh của hoàng
cầm
Theo Đông y, hoàng cầm có vị
đắng, tính hàn, quy vào 6 kinh:
phế, tâm, can, đởm, đại tràng,
tiểu tràng với công năng thanh
thấp nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, giải độc, an thai.
Trên lâm sàng, hoàng cầm được sử dụng để trị rất
nhiều loại bệnh khác nhau như: sốt cao do viêm gan
hoàng đản, viêm gan virut, viêm ruột, viêm túi mật,
viêm bàng quang…, dùng hoàng cầm, long đởm,
trạch tả, sài hồ, mộc thông, chi tử, sinh địa, mỗi vị

Xuyên hoàng cầm.
8g; đương quy, xa tiền tử, mỗi vị 6g; cam thảo 4g,
sắc uống ngày một thang, uống liền 3 – 4 tuần.
Viêm phổi, đặc biệt áp – xe phổi hoặc các bệnh viêm

phế quản mạn tính kèm theo ho nhiều đờm và khó
thở: Hoàng cầm phối hợp với hoàng liên chân gà
(Rhizoma Coptidis), hoàng bá (Cortex Phellodendri),
đồng lượng, trung bình mỗi vị khoảng 6-12g/ngày, có
thể gia thêm bách bộ, mạch môn, cát cánh, mỗi vị
12g, cam thảo 8g. Sắc uống 2-3 lần trong ngày, uống
liền 2-3 tuần, không nên uống lúc quá đói sẽ gây cảm
giác cồn cào, khó chịu.
Trị các chứng viêm cơ, mụn nhọt, đinh độc… dùng
phương hoàng cầm, hoàng liên, hoàng bá nói trên, gia
thêm vị chi tử.
Khi sốt cao, lúc nóng, lúc rét, có thể dùng hoàng cầm,
sinh khương mỗi vị 8g; sài hồ, bán hạ, đảng sâm, đại
táo, mỗi vị 12g; cam thảo 4g, sắc uống ngày một
thang, uống liền tới khi cắt cơn.
Trị động thai chảy máu: Hoàng cầm 8g phối hợp với
chư ma căn (rễ củ gai), tô ngạnh (hoặc tô diệp), mỗi
vị 12g, sắc uống ngày 1 thang. Chú ý, với trường hợp
động thai, hoàng cầm cần được sao đen và cũng chỉ
dùng khi bị động thai hoặc động thai có chảy máu.

×