Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Truyền thuyết về các vị thuốc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.02 KB, 5 trang )

Truyền thuyết về các vị thuốc
Danh y Hoa Đà trồng cây thược dược trong vườn mà không
biết đó là cây thuốc. Hồn hoa hiện thành cô gái đứng khóc
mong được chú ý, nhưng ông cũng chẳng bận tâm. Chỉ đến khi
bà vợ được chữa khỏi bằng cây này, ông mới biết đó là thuốc
quý.
Cây thuốc bạch thược.

Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai.
Mẫu đơn được tôn xưng là "hoa vương", thược dược được coi là
"hoa tướng". Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng đánh giá
như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai loài hoa này.
Tuy chỉ là "hoa tướng" nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn
mẫu đơn. Tương truyền từ 3.000 năm trước, vào thời Tam Đại,
thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi trong
khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra
mẫu đơn, người ta tưởng đó chỉ là một loài thược dược, nên đã gọi
nó là "mộc thược dược". Hai hoa này nhìn thoáng qua rất giống
nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ
nhưng là hai cây khác nhau. Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu
đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm thuốc bổ
huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; còn mẫu đơn thuộc
nhóm thanh nhiệt lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc
bệnh.
Cây hoa thược dược cảnh.

Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn
thân, tựa như hoa mẫu đơn hay thược dược cảnh. Cánh hoa màu
hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ. Củ
này luộc chín phơi khô chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch


thược này không phải là cây hoa thược dược (Dahlia variabilis
Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y
Hoa Đà phát hiện ra trong một tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết
và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc
quanh nhà. Một hôm có người đem biếu ông cây hoa lạ, nói rằng
có thể dùng chữa bệnh nhưng không rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà
đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa
hồng. Ông thử hái hoa sắc uống nhưng không nhận thấy có gì khác
lạ. Ông lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng không phát hiện điều
gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng không có tác
dụng chữa bệnh nên mấy năm liền, Hoa Đà không để ý đến nó nữa.
Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngoài
cửa sổ có tiếng con gái khóc thút thít. Nhìn ra, ông thấy dưới ánh
trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc. Ông tự
hỏi, không biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ông
khoác áo ra ngoài nhưng nhìn trước nhìn sau không thấy bóng
người nào nữa, chỗ cô gái đứng khóc chỉ còn một cây thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: "Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây
giờ cũng đang là mùa thu, hoa đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được
vào việc gì?".
Nhưng ông vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng
khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại
biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại mấy
lần khiến Hoa Đà vô cùng ngạc nhiên. Ông bèn đánh thức vợ đang
ngủ say dậy kể lại chuyện.
Bà nói: "Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm
thuốc cứu người, chỉ có cây bạch thược này bị bỏ quên, chắc là nó
có nỗi oan ức". Hoa Đà bảo: "Tôi từng thử tất cả các bộ phận của

nó thấy chả có tác dụng, vậy còn oan ức nỗi gì?".
Bà vợ nói: "Ông mới thử những thứ trên mặt đất, còn rễ của nó thì
sao?". Nhưng danh y gạt đi: "Hoa lá cành còn chẳng có gì đặc biệt,
vậy thì còn thử rễ làm gì?". Dứt lời, ông nằm xuống ngủ thiếp đi.
Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã
thay đổi, không còn lắng nghe ý kiến của người khác như trước kia
nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết
rất nhiều, uống đủ thứ thuốc không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ
cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã hết đau,
máu cũng không còn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm
kích: "Cảm ơn bà đã thức tỉnh ta, nếu không thì ta đã để mai một
cây thuốc quýquý".
Sau sự kiện đó, ông thử nghiệm và nhận thấy ngoài tác dụng giảm
đau, cầm máu, rễ bạch thược còn có tác dụng dưỡng huyết và chữa
được nhiều
bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên bạch thược, sau đó
Hoa Đà thêm chữ "dược" thành bạch thược dược.
Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều công dụng nữa
của cây bạch thược. Nó trở thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác
dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị kinh
nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên
lâm sàng y học hiện đại, nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận
mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc, cường tuyến
giáp…

×