Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Hieu Qua Chi Tieu Cong Ve Xoa Doi giam Ngheo pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.99 KB, 58 trang )

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định đói nghèo như là một thứ "giặc", cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm, nên đã
đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh phúc.
Giảm đói nghèo không chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được
Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của mục
tiêu phát triển.
Thực hiện đổi mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với tiến hành công
tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội đã hạn chế sự phân cách giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu trong cải cách và phát triển kinh tế, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện điều chỉnh cơ cấu ngành và
lĩnh vực kinh tế theo tín hiệu của thị trường nhằm thiết lập một nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Thành tựu đó thể hiện kết quả của sự đổi mới,
phát huy cao nguồn nội lực và sự hỗ trợ tích cực, có hiệu quả của cộng đồng quốc
tế.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, có mức thu nhập bình quân
đầu người vào loại thấp (GDP bình quân đầu người năm 2000 khoảng 400 USD), tỷ
lệ hộ nghèo còn lớn. Chính phủ Việt Nam nhận thức được điều này và coi tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện chủ yếu và nhân tố quan trọng để rút ngắn
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so với các nước khác trong
khu vực và trên thế giới, đồng thời tạo nguồn lực để tăng phúc lợi, cải thiện mức
sống nhân dân, giảm nghèo đói, thực hiện công bằng xã hội.
Vì những lý do cơ bản đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài HIỆU QUẢ CỦA
CHI TIÊU CÔNG CHO XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO.
Vì thời gian và kiến thức có hạn nên thiếu sót là chuyện khó tránh khỏi. Vì vậy
mong cô và các bạn góp ý, phê bình thẳng thắn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Nhóm chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
PHẦN MỘT: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU CÔNG VÀ XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO


1. Lý luận về chi tiêu công
1.1. Khái niệm chi tiêu công
Quan sát hiện tượng bên ngoài của hoạt động tài chính công, có thể khái niệm: Chi
tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành
chính, các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi Chính phủ.
Về mặt bản chất: chi tiêu công là quá trình phân phối và sử dụng các quỹ tài chính
công nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2 Đặc điểm chi tiêu công
- Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của cộng
đồng dân cư ở các vùng hay phạm vi quốc gia
- Chi tiêu công luôn gắn liền với các bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện.
- Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính công cộng.
- Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp và
thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của những địa chỉ
cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu công.
1.3 Phân loại chi tiêu công
a. Phân loại theo tính chất
Để phục vụ cho mục đích phân tích kinh tế, một cách phân loại chi tiêu công
cộng phổ biến nhất là xét xem các khoản chi tiêu đó có thực sự đòi hỏi tiêu hao
nguồn lực của nền kinh tế quốc dân hay không. Theo cách nhìn nhận này, chi tiêu
công cộng được chia làm chi tiêu hoàn toàn mang tính chất công cộng (hay còn gọi
là chi mua sắm hàng hóa dịch vụ) và chi chuyển nhượng
Chi tiêu hoàn toàn mang tính chất công cộng: là những khoản chi tiêu đòi hỏi các
nguồn lực của nền kinh tế. Việc khu vực công cộng sử dụng những nguồn lực này
sẽ loại bỏ việc sử dụng chúng vào các khu vực khác. vì thế, chi phí cơ hội của
những khoản chi tiêu công cộng này là sản lượng phải loại bỏ ở các khu vực khác.
Trong kinh tế vĩ mô, khoản chi này thường được xem là gây là hiệu ứng làm "thoái
giảm" đầu tư tư nhân. Vì thế, với một tổng nguồn lực có hạn của nền kinh tế, vấn đề
đặt ra là cân nhắc nên chi tiêu chúng vào đâu sẽ có hiệu quả nhất.

Chi chuyển giao hay chi có tính chất phân phối lại, ví dụ như chi lương hưu, trợ
cấp, phúc lợi xã hội…Những khoản chi tiêu này không thể hiện yêu cầu của khu
vực công cộng với các nguồn lực thực của xã hội vì chúng chỉ đơn thuần là sự
chuyển giao từ người này sang người khác thông qua khâu trung gian là khu vực
công cộng. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là chi chuyển giao không gây ra tổn
thất gì cho xã hội, các chương trình phân phối lại đều gây ra những méo mó trong
sự phân bổ nguồn lực, do đó dẫn đến sự phi hiệu quả.
b. Phân loại theo chức năng
Cách phân loại theo tính chất thường có ý nghĩa đối với việc phân tích kinh tế
nhiều hơn là việc quản lý chi tiêu ngân sách của Chính phủ. Một cách phân loại
khác theo mục đích giao dịch được gọi là phân loại theo chức năng. Cách phân loại
này thường được sử dụng trong đánh giá phân bổ nguồn lực của Chính phủ nhằm
thúc đẩy thực hiện các hoạt động và mục tiêu khác nhau của Chính phủ. Theo cách
phân loại này, chi tiêu công cộng bao gồm:
Chi cho cách dịch vụ nói chung của Chính phủ (hay chi hành chính): Đây là những
khoản chi ngân sách cho những hoạt động thường xuyên để đảm bảo Chính phủ có
thể thực hiện các chức năng của mình. Thuộc loại này gồm chi cho các cơ quan
hành chính của Chính phủ, chi cho cảnh sát, tòa án…
Chi cho các dịch vụ kinh tế: bao gồm những khoản đầu tư của chính phủ vào cơ sở
hạ tầng, điều tiết, trợ cấp sản xuất…
Chi cho các dịch vụ cộng đồng và xã hội: Đây là các khoản chi cho cộng đồng nói
chung, các hộ gia đình và cá nhân như chi cho giá dục, y tế, hưu trí, trợ cấp thất
nghiệp, phúc lợi, văn hóa, giải trí…
Chi khác: Chủ yếu là để trả lãi cho các khoản nợ của Chính phủ hoặc phân bổ ngân
sách giữa các cấp chính quyền
c. Phân loại theo mục đích chi tiêu
Tất cả các khoản chi tiêu của Chính phủ thường được phân loại một cách
truyền thống thành chi thường xuyên và chi đầu tư. Đôi khi, ở một số nước (như
Việt Nam), việc chi trả nợ còn được tách ra làm một khoản mục riêng ngoài chi
thường xuyên và chi đầu tư.

Chi thường xuyên: Là các khoản chi để mua các hàng hóa và dịch vụ không lâu
bền, thường mang tính chất lặp đi lặp lại thường xuyên qua các năm. Thí dụ về chi
thường xuyên là chi trả lương cho cán bộ công chức nhà nước, chi bảo dưỡng và
duy trì cơ sở hạ tầng.
Chi đầu tư: Là khoản chi tiêu về mua đất, thiết bị, tài sản vật chất và vô hình khác,
trái phiếu Chính phủ, tài sản phi tài chính… có giá trị nhất định và được sử dụng
hơn một năm trong quá trình sản xuất.
1.4 Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công
1.4.1 Vai trò của chi tiêu công
Trong nền kinh tế thị trường, chi tiêu công có các vai trò cơ bản sau:
• Chi tiêu công có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư của khu vực
tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
• Chi tiêu công góp phần điều chỉnh chu kỳ kinh tế.
• Chi tiêu công góp phần tái phân phối thu nhập xã hội giữa các tầng lớp dân cư,
thực hiện công bằng xã hội
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu công
- Sự phát triển về vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Nhà
nước phải đảm nhận trong từng thời kỳ.
- Các nhân tố khác.
2. Lý luận chung về chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo
2.1.Khái niệm nghèo
Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân, nghèo không chỉ
đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như
giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt
hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có các
thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải thiện có
trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch cũng như
một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất

những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng.
Việt Nam đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái
Lan tháng 9/1993: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa
phương.
2.2 Phân loại nghèo
2.2.1 Nghèo khổ về thu nhập
Phạm vi nghèo khổ ngày càng mở rộng. Trước đây thì nghèo khổ thường gắn với sự
thiểu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ những năm 1970 – 1980, nghèo khổ được tiếp
cận theo nhu cầu cơ bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa
những năm 1980 đến nay, tuy nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản gồm:
tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Đối với các nước
đang phát triển thì việc đánh giá, phân tích nghèo khổ chủ yếu là dựa vào tiêu chí
thu nhập.
Chúng ta muốn biểu thị “nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa để so sánh xem
đâu là nước giàu, đâu là nước nghèo, vùng nào giàu hơn và vùng nào nghèo
hơn….Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm
+ “Nghèo khổ tuyệt đối”
+ “Nghèo khổ tương đối”
a. Nghèo tuyệt đối về thu nhập: là tình trạng không đảm bảo mức thu nhập hay
chi tiêu tối thiểu cần thiết để đáp ứng những nhu cầu vật chất tối thiểu cần thiết để
đáp ứng những nhu cầu vật chất tối thiểu để con người có thể tồn tại như lương
thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở….
b. Nghèo tương đối về thu nhập: là tình trạng không đảm bảo mức tiêu chuẩn để
có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những
người cảm thấy bị tước đoạt của cải mà đại bộ phận những người khác trong xã hội
được hưởng, đó là một biểu hiện bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Dù đã có những khái niệm về nghèo đói, song việc xác định nhóm người nghèo

cũng không phải là đơn giản, những khó khăn gặp phải:
- Việc xác định mức nghèo là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc so sánh
giữa các nước.
- Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ biến đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo
thời gian, theo quốc gia và theo khu vực.
Các nhà kinh tế đã sử dụng phương pháp là xác định “giới hạn nghèo khổ” (chuẩn
nghèo). Chúng ta lựa chọn xác định giới hạn nghèo dựa vào chi tiêu của các hộ gia
đình liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập (vì có thể thu nhập cao nhưng
dùng để trang trải cho những việc khác như: quốc phòng, quân sự… người dân thì
vẫn nghèo đói)
WB đã đưa ra “ngưỡng nghèo”: Ngưỡng nghèo là chỉ tiêu có thể đảm bảo mức cung
cấp năng lượng tối thiểu cho con người 2100 calo/người/ngày đêm tương ứng 1 - 2
USD/người/ngày (tính theo sức mua ngang giá (PPP) năm 1993). Đây là ngưỡng
nghèo lương thực thực phẩm vì với mức chi tiêu đó, ngoài cung cấp mức năng
lượng tối thiểu để tồn tại thì không còn có thể chi tiêu cho bất cứ một nhu cầu nào
khác.
Ở Việt Nam, theo phương pháp của Bộ LĐ – TB và XH (dựa trên thu nhập của hộ
gia đình) giai đoạn 2001-2005 (dựa vào điều kiện của đất nước trong từng giai
đoạn)
( Theo Tổng cục thống kê)
Thành thị: 150.000 đ/người/tháng tức 1.800.000 đ /người/năm
Nông thôn đồng bằng: 120.000 đ/người/ tháng tức 1.440.000 đ/người/năm
Nông thôn miền núi hải đảo: 80.000 đ/người/ tháng tức 960.000 đ/người/năm.
Giai đoạn 2006 -2010:
Thành thị: 260.000đ/người/tháng
Nông thôn: 200.000đ/người/tháng.
Giai đoạn 2011- 2015
Thành thị: 500.000đ/người/tháng
Nông thôn: 400.000đ/người/tháng
Vậy so với ngưỡng nghèo chung của các nước đang phát triển do WB quy định thì

ngưỡng nghèo của Việt Nam thấp hơn nhiều nước ta có thu nhập thấp chậm
phát triển.
2.2.2 Nghèo tổng hợp( được đo bằng chỉ số HPI)
Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm trong “Báo cáo về phát triển con người” năm
1997. Nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của
con người, là sự thiệt thòi theo ba khía cạnh cơ bản nhất về cuộc sống
+ Thiệt thòi trên khía cạnh chính sách lâu dài và khỏe mạnh (xác định bằng tỉ lệ
người dự kiến không thọ quá 40 tuổi).
+ Thiệt thòi về trí thức (Tỉ lệ mù chữ )
+ Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế (tỉ lệ người không tiếp cận được với các dịch vụ y
tế, nước sạch và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng).
2.2 Quan điểm xóa đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền
vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người
nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả
người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay, bởi vì chính
bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ các khả năng điều hoà thu nhập giữa các
nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự điều hoà thu nhập ấy
lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững.
Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã có đủ tài chính để mở rộng
các dự án, các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó khăn
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trên cơ sở đó những người nghèo ở những
vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn lên thoát nghèo đói. Nhìn chung, ở đâu
kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, việc làm đầy đủ, thì ở
đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giầu tăng lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng
thay đổi nhanh chóng.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà
trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác
của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo.

Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng
đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều
kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi
gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người
nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế
theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm nghèo thành công
nhanh và bền vững.
Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo bằng các nguồn
tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí cho các chương trình xoá
đói giảm nghèo. Bên cạnh những thành tựu đáng kể của xoá đói giảm nghèo còn có
vấn đề nổi cộm đó là tình trạng tham nhũng, cắt bớt phần tài chính từ các dự án,
chương trình mà lẽ ra người nghèo được hỗ trợ để giúp họ thoát nghèo đói. Quan
điểm này có tác dụng hạn chế tình trạng tiêu cực đang diễn ra trong triển khai hiện
nay, tạo cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm theo pháp luật
các trường hợp tiêu cực.
Quan điểm thứ tư:Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư
vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng
hộ gia đình.
Thời gian qua, việc cho vay vốn hộ nghèo đói chưa thật hiệu quả, phần nhiều còn
thiên về số lượng lượt hộ vay vốn nên khoản vay còn nhỏ bé, chưa thực sự giúp các
hộ nghèo tạo được đà bứt phá, việc sử dụng vốn không đúng mục đích vấn còn khá
phổ biến. Nhìn chung, hiệu quả thực sự của các nguồn tài chính cung cấp cho mục
tiêu xoá đói giảm nghèo còn bị hạn chế. Thực tế cho thấy nguồn vốn cho người
nghèo vay sẽ phát huy tác dụng nếu có sự hướng dẫn sản xuất, tư vấn sử dụng vốn
vay.
2.3 Chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi
gặp rủi ro. Các chương trình hỗ trợ có hai dạng: cung cấp tiền mặt, chi trả cho

những dịch vụ hay hàng hóa đặc biệt – trợ cấp bằng hiện vật. Trong số các chương
trình cấp tiền mặt, các chương trình lớn là trợ cấp cho các gia đình đông con, cung
cấp tiền mặt cho các gia đình nghèo, bị tàn tật, mù và già cả. Chương trình trợ cấp
bằng hiện vật lớn nhất đó là trợ cấp bằng y tế, nhằm giúp cho chi tiêu về y tế cho
người nghèo.
Bên cạnh sự hỗ trợ bằng vật chất trực tiếp là trợ cấp bằng kinh phí thì việc tạo
việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn cho người nghèo sản xuất, kinh
doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xóa đói
giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
Chi tiêu công là một công cụ quan trọng của Chính phủ nhằm cung cấp nguồn lực
tài chính cho việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Chi tiêu công dưới các
hình thức như chi đầu tư, chi thường xuyên tự thân nó đã hướng đến thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao thu nhập cho dân cư, trong đó có
người nghèo. Hơn thế nữa, trong bố trí các loại chi nói trên, Chính phủ đã thể hiện
sự quan tâm đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Các định mức phân bổ chi thường
xuyên và chi đầu tư cho các địa phương đều tính đến yếu tố nghèo. Tiêu chí phân
bổ chi đầu tư cho các địa phương có tính đến tỷ lệ hộ nghèo. Định mức phân bổ chi
thường xuyên cũng ưu tiên cho các vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu và
vùng cao. Chẳng hạn, mức chi cho giáo dục trên 1 người dân ở vùng sâu cao hơn ở
vùng đô thị là 1,5 lần, tương tự, mức chi cho y tế chênh lệch giữa hai vùng này gấp
1,7 lần. Đồng thời, định mức chi cho các dịch vụ công thiết yếu này đối với vùng
núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng núi cao-hải đảo giai đoạn 2007 -2010
tăng so với giai đoạn 2004-2006 với tốc độ cao hơn so với định mức chi cho vùng
đô thị và đồng bằng. Chẳng hạn, định mức chi cho y tế miền núi cao, hải đảo giai
đoạn 2007-2010 tăng 2,8 lần so với thời kỳ 2004-2006, trong khi đó tỷ lệ này đối
với vùng đồng bằng là 2,2 lần4.
Bên cạnh các nội dung chi cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
nói chung, trong chi tiêu công có một nội dung chi riêng biệt tập trung vào mục tiêu
xoá đói giảm nghèo – đó là chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia. Các chương
trình mục tiêu quốc gia này bao gồm: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã

đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135), Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo (Chương trình 143), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30A/2008, các chương
trình trong lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, vệ sinh môi trường…
Ngoài ra, chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo còn làm phân phối lại thu nhập :
Chính phủ có ảnh hưởng đến phân phối thu nhập không chỉ thông qua những khoản
trợ cấp trực tiếp, mà còn thông qua những ảnh hưởng gián tiếp của hệ thống thuế và
các chương trình khác của Chính phủ. Có thể tưởng tượng là Chính phủ đánh thuế
mọi người với mức thuế như nhau, nhưng sau đó trợ cấp cho những người có thu
nhập thấp hơn một mức xác định. Điều này có ảnh hưởng tương tự như đánh thuế
những người có thu nhập thấp hơn với thuế suất thấp hơn.
2.4 Tính hiệu quả của chi tiêu công để xóa đói giảm nghèo
2.4.1 Các công cụ để xóa đói giảm nghèo
Ta thấy việc trợ cấp cho người nghèo không có khả năng tự đảm bảo cuộc
sống của mình là một hành động rất thiết thực, sẽ nâng cao mức sống của người dân
nghèo trong cùng một cộng đồng. Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách an
sinh xã hội nói chung và đối với hộ nghèo vùng khó khăn nói riêng.
Về mặt kinh tế: Chính phủ đã đưa ra các dự án:
• Dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh;
• Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư;
• Dự án Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng ATK,
vùng sâu đồng bằng sông Cửu Long);
- Nhóm các dự án Xoá đói giảm nghèo cho các xã nghèo nằm ngoài chương trình
135:
• Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo;
• Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo;
• Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo và cán bộ
các xã nghèo;

• Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao
gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư
theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nông nghiệp theo
quy định của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1123/CP-NN ngày 06 tháng 12
năm 2000 về việc chuyển dự án thuộc chương trình 773);
• Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo.
(Các xã đặc biệt khó khăn được tiếp tục thực hiện các dự án thuộc chương trình 135
"Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền
núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa" - chương trình Xoá đói giảm nghèo đặc biệt
của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc và Miền núi là cơ quan thường trực, theo các
Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 và số 138/2000/QĐ-
TTg ngày 29 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ, không thuộc quy định
của Quyết định này).
• Dự án Tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông qua
Qũy Quốc gia hỗ trợ việc làm;
• Dự án Nâng cao năng lực và hiện đại hoá các Trung tâm dịch vụ việc làm;
• Dự án Điều tra, thống kê thị trường lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị
trường lao động;
• Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết việc làm.
Cung cấp một số chính sách nhằm hỗ trợ người nghèo: chính sách trợ giúp y tế, hỗ
trợ giáo dục, nước sạch và nhà ở, hỗ trợ pháp lý.
2.4.2 Tính hiệu quả của chương trình
Nhà nước ta sử dụng các hình thức trên để hỗ trợ cho người nghèo, vậy hiệu quả
của chương trình được đánh giá thông qua hiệu quả của các hình thức trên như thế
nào, nếu như thông qua các hình thức trên người nghèo có được hưởng những lợi
ích đó hay không, và đã cải thiện đời sống người dân như thế nào thì đó chính là
hiệu quả của chương trình thông qua các tiêu chí như:
• Chương trình mang lại phúc lợi gì, tỉ lệ thoát nghèo
• Đối tượng được nhận
• Chi phí bỏ ra là thấp nhất

PHẦN HAI: THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH CHI TIÊU
CÔNG CHO XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. Thực trạng.
1. Tình hình đói nghèo của Việt Nam gần đây:
Theo chuẩn nghèo đói của TCKT thì tỉ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ
70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và đến năm 2002, tỉ lệ này chỉ còn 28,9%.
So với mục tiêu giảm ½ tỉ lệ đói nghèo 1900 – 2015 thì Việt Nam đã về trước mục
tiêu này và được cộng đồng quốc tế đánh giá là nước giảm tỉ lệ hộ đói nghèo lớn
nhất. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo. Nếu tính theo chuẩn
đói nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là
13%. Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới, đầu
năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước.
Năm 2006 có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo lương thực)
theo chuẩn nghèo quốc tế. Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt
Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước
đã giảm từ 22% năm 2005xuống còn 9,45% năm 2010.
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9
năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm
nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu
người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng
(960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng
những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng
(1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ
có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7
năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở
khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới

3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu
người dưới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tương ứng
284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế).
Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg
ngày 21-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo được
xác định, những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống
là hộ nghèo (khu vực nông thôn), đối với khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ
có mức thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng; Hộ cận nghèo là những hộ
có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu
vực nông thôn), đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000
đồng/người/tháng.
Theo kết quả Tổng điều tra hộ nghèo (62/63 tỉnh, thành), theo chuẩn nghèo mới (dự
kiến áp dụng từ năm 2011), tổng số hộ nghèo của cả nước là khoảng trên 3,3 triệu
hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 15,25%); tổng số hộ cận nghèo là khoảng trên 1,8 triệu hộ
(chiếm tỷ lệ 8,58%). Người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn (90%); ở
một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi Duyên hải miền Trung,
Tây Nam Bộ là những nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao (trên 50%), đây là những địa bàn rất khó khăn đối với công tác giảm nghèo.
Bảng 1. Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Số hộ nghèo
(1000 hộ)
2800,1 2500 1700 1440 3898,6 3568,5 3229 2806 2366 2219
Tỷ lệ hộ nghèo 17,18 14,3 11 8,3 7 18 14,7 13,4 11,3 10,6
(%)
Nguồn: Số liệu Bộ KH&ĐT
Hình 2. Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giai đoạn 1998 – 2010
Dưới đây là tỉ lệ bản đồ nghèo đói theo tỉnh thành và mật đói. Qua đó chúng ta rút ra
được nhận xét khái quát như sau:

- Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
- Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
- Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Tỉ lệ đói nghèo của Việt Nam theo vùng từng tỉnh thành
Bản đồ mật độ đói
Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ
nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong
manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ
cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng
nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất
hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và
dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Nhiều hộ
gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng
nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt
xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó
khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống
chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập
giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần
năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan
với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở
nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có
mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất
cao.
Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả nước về
chỉ số phát triển con người và phát triển giới.
Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn

Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn,
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt,
hạn hán ) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm
khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm
cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30%
trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm
xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có
nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công
trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu
trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói
nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người nghèo
sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của
thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo
là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản
xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ ), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó
khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo
nàn. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ
thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông
nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ
cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động
nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định
trong gia đình và cộng đồng do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do
chính sách mang lại. Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và
mức sống trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện
điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực
kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.

Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực nhà nước dẫn đến sự
dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực này,
làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao động này phải
chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm
được việc làm và trở thành thất nghiệp.Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những
nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản
(nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát nước, ánh sáng và thu gom rác thải ).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu
nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều
khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm tăng số lượng người di cư tự do từ
các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao
động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong
các báo cáo về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong
việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được
công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội
và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với
người dân đã có hộ khẩu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác
như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và
người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc ).
Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64%
số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó
khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn
nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
và thiên tai xảy ra thường xuyên.
Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội nói tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam đã giảm xuống

9,45% trong năm 2010 từ mức 22% năm 2005.Con số này được đưa ra tại một hội
thảo vừa được Bộ LĐ-TB-XH tổ chức ở Hà Nội.Tỷ lệ giảm nghèo như vậy đã
vượt quá mục tiêu 10% mà Quốc hội đề ra.
Tuy nhiên, đây là cách tính đói nghèo theo chuẩn cũ.
Theo chuẩn quốc gia hiện hành, người có thu nhập dưới 200.000 đồng/tháng ở
nông thôn và 260.000 đồng ở thành thị thì bị liệt vào diện nghèo.Đã có nhiều
tranh luận về định nghĩa về chuẩn nghèo ở Việt Nam, vì tỷ lệ đói nghèo phụ thuộc
vào điều này.Bộ LĐ-TB-XH nay đề xuất ra chuẩn nghèo mới là thu nhập bình
quân của người dân hu vực nông thôn là dưới 400.000 đồng/người/tháng và khu
vực thành thị dưới 500.000 đồng/người/tháng.
Nếu tính theo chuẩn mới này, thì năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo dự tính lại là 15%.
Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm được dẫn lời cho hay tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam
trong thời kỳ 2005-2010 giảm mỗi năm chừng 2%-3%.Thế nhưng có nhận xét
rằng công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam chưa bền vững và khoảng cách
chênh lệch giàu-nghèo ngày càng dãn rộng.Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu
Quốc gia về giảm nghèo cũng nhận xét tại hội thảo, rằng "các chương trình còn
chồng chéo, chia cắt, thiếu thống nhất về cơ chế, chính sách, nguồn lực nên hiệu
quả chưa cao, chưa minh bạch giữa chính sách giảm nghèo với chính sách an sinh
xã hội".
Chính phủ Việt Nam hiện đang xây dựng Định hướng giảm nghèo giai đoạn 2011-
2020 với mục tiêu giảm số hộ nghèo còn 4%-5% vào năm 2020.Các trọng tâm của
định hướng sẽ bao gồm phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện chất
lượng cuộc sống ở các vùng có khó khăn và hạn chế tái nghèo.
Tuy tình trạng đói nghèo đã có bước chuyển biến đáng kể trong thời gian qua
nhưng Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Tuy tỷ lệ hộ
nghèo giảm nhanh nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ đã thoát
nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo rất lớn, dẫn đến tỷ lệ hộ tái
nghèo hàng năm so với tổng số hộ nghèo còn cao; chênh lệch giầu – nghèo giữa
các vùng, nhóm cư dân chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện, xã có tỷ lệ
hộ nghèo cao”.

2. Nguyên nhân đói nghèo:
2.1. Mô hình tăng trưởng chưa thật sự hợp lý.
Vấn đề đói nghèo, về khách quan, là sản phẩm tất yếu của một mô hình kinh tế
nhất định. Khi một mô hình kinh tế đã cạn kiệt tiềm năng phát triển, thì dù có cố
gắng của chính quyền cũng không thể giải quyết tốt vấn đề đói nghèo.
Nước ta đã chuyển sang mô hình công nghiệp hóa từ nhiều năm nay. Đó là mô
hình kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, dựa vào đầu tư nước
ngoài để xuất khẩu nhằm tăng trưởng nhanh. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, mô
hình ấy có vai trò nhất định ở giai đoạn khởi động nền kinh tế thị trường, nhưng
nếu kéo dài thời gian thực hiện mô hình ấy chỉ lo tăng trưởng số lượng thì những
vấn đề xã hội sẽ phát sinh và tăng lên, thể hiện ở vấn đề đói nghèo trở nên nghiêm
trọng, phân hóa giàu nghèo mở rộng khoảng cách nhanh chóng, lối sống trong xã
hội xuất hiện nhiều vấn nạn mới.
Trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới thì mô hình công nghiệp
hóa này đã diễn ra hơn 200 năm trước đây trong hình thái kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Trong thế kỷ XX, mô hình này đã biến đổi dần dưới hình thức "khủng
hoảng - phát triển", đã lỗi thời và kết thúc vào nửa sau thế kỷ XX, khi mô hình
phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức ra đời và phát triển mạnh mẽ. Đây là
bối cảnh thế giới khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Do kéo dài mô hình công nghiệp hóa chạy theo tăng trưởng số lượng, nên hiện
nay nước ta tuy thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo đạt những kết quả nhất
định, nhưng vấn đề đói nghèo trên thực tế ở cả khu vực chính thức lẫn khu vực phi
chính thức vẫn còn nhiều điểm cần quan tâm nghiên cứu.
Ở khu vực chính thức (khu vực nhà nước) thì vấn đề đói nghèo ở trong bối cảnh
tiền lương thấp. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,
lương tối thiểu hiện mới chỉ đáp ứng 60% - 65% nhu cầu cần thiết. Mức lương
này (dù đã tăng lên) vẫn không bảo đảm bù đắp sức lao động giản đơn, chưa thể
nói đến tái tạo sức lao động và nâng cao năng lực lao động. So với các nước trong
khu vực, lương tối thiểu ở Việt Nam hiện thấp hơn khoảng 40%. Ưu điểm của một

mô hình kinh tế không chỉ ở năng suất lao động mà còn ở mức sống của người lao
động.
Chính sách tiền lương thấp hiện nay còn được các doanh nghiệp trong nước và
đầu tư nước ngoài lấy đó để làm căn cứ để trả lương cho người lao động, chứ
không dựa vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc. Những nhược điểm
trong quản lý nhà nước đã bị các doanh nghiệp khai thác làm cho người lao động
ngày càng đói nghèo. Ngoài ra, theo cam kết quốc tế, tới năm 2012, sự bình đẳng
trong trả lương giữa các thành phần kinh tế phải được thực hiện, trong khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước phải có chung mức lương tối
thiểu (khác với mức lương tối thiểu trong bộ máy nhà nước).
Vấn đề đói nghèo hiện nay khác với đói nghèo trước đây ở thôn quê do nhịp độ
phát triển các dự án chỉ nhằm thu hút đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, còn các yêu
cầu an sinh xã hội chưa được quan tâm, nhất là trong giải phóng mặt bằng, trong
tái định cư đã để lại hậu quả về mất việc làm và đói nghèo tăng lên.
Nhìn tổng quát, tác động của tăng trưởng kinh tế một cách phiến diện đến đói
nghèo có nguyên nhân sâu xa từ việc duy trì quá lâu mô hình công nghiệp hóa đã
lỗi thời ở thời đại hiện nay, còn nguyên nhân trực tiếp là bệnh thành tích theo
nhiệm kỳ của bộ máy quản lý. Thực tiễn cho thấy, giải quyết vấn đề đói nghèo
phải gắn liền với đổi mới mô hình kinh tế với đổi mới tư duy và phương pháp
quản lý.
Trong thời gian qua. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam ta chỉ chú trọng đến
chiều rộng mà chưa thật sự phát huy thế mạnh về chiều sâu. Tình hình kinh tế vĩ
mô chưa thật sự ổn định làm cho kinh tế - xã hội nước ta đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức. Đồng thời những yếu kếm trong nội tại nền kinh tế cũng được
biểu hiện rõ nét như mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả,
tích tụ kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa thực sự
nhận diện và giải quyết hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa tốc độ tăng trưởng
và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng cao và ổn định kinh tế vĩ mô; giữa kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công

bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội
Với nhận định chưa đúng cũng như việc nắm bắt thời cơ chưa sát với thực tiễn đã
gây thất thoát, lãng phí một lượng không nhỏ nguồn vốn của nhà nước ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc thắt chặt chi tiêu cho chương trình xóa đói giảm nghèo.
Đơn cử như hoạt động của Vinashin đã gây thất thoát hơn 900 tỷ đồng trong khi
tình hình nghéo đói vẫn cứ gia tăng và tiếp diễn hằng ngày…
Bảng So sánh tăng trưởng và giảm nghèo
200
1
2002 200
3
2004 2005 2006 200
7
2008 200
9
2010
1. Tăng trưởng:
- Tốc độ tăng trưởng
(%)
- Số điểm % tăng
trưởng gia tăng so với
năm trước

6,89



7,08
0,22



7,34
0,26


7,79
0,45

8,4
0,61


8,23
-
0,17


8,46
0,23


6,18
-2,28


5,32
-
0,86



6,7
1,38

2. Giảm nghèo
- Tỷ lệ nghèo đói (%)
- Số điểm % giảm
nghèo giảm xuống so
với năm trước

17,5


14,5
3

11
3,5

8,31
2,96

7
1,31

18


14,7
3,3


13,4
1,3

11,3
2,1

10,6
0,7
Nguồn: Tính toán từ số liệu của bộ KH&ĐT
2.2. Môi trường bị tàn phá và biến đổi khí hậu.
Ở nước ta, mức độ tàn phá môi trường ngày càng nghiêm trọng là một nhân tố
trực tiếp làm tăng mức độ và phạm vi của đói nghèo. Ở đây chỉ nêu lên mấy mặt
chủ yếu:
Trước hết, tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp. Các khu công
nghiệp, các công ty đã làm hàng loạt sông ngòi, kênh rạch, nguồn nước ngầm bị ô
nhiễm do không giải quyết vấn đề chất thải. Kết quả là làm bệnh tật gia tăng đối
với công nhân và dân cư trong vùng. Những chi phí cho chữa trị bệnh tật khiến
người lao động nghèo thêm.
Thứ hai, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu không những đưa đến mực nước
biển dâng cao, xâm chiếm nhiều diện tích đất đai để sinh sống (Việt Nam là một
trong năm nước chịu tác động trước tiên), mà còn gây ra những trận hạn hán, lũ
lụt trầm trọng, xói mòn bờ biển, bờ sông, phèn hóa đất đai nông nghiệp. Bộ Tài
nguyên và Môi trường Việt Nam dự báo, nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét thì
khoảng 20% châu thổ và 10% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể bị nhấn
chìm. Những tai họa gần này sẽ làm tăng sự đói nghèo về mức độ và phạm vi.
Thứ ba, vấn đề môi trường tác động xấu đến phát triển kinh tế và đói nghèo ở
nước ta trở nên cấp bách khi con sông Mê Công rơi vào tình trạng lâm nguy. Sông
Mê Công dài 5.400 km chảy qua Trung Quốc, Mi-an-ma, Thái Lan, Lào, Cam-pu-
chia và Việt Nam, cung cấp nước cho trồng trọt, cho vận chuyển hàng hóa, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của 65 triệu người. Riêng nhu cầu nguồn nước cho

khu vực này tăng nhanh (từ 43.700m
3
năm 2002 tăng lên 56.700m
3
vào cuối năm
2010).
Mối đe dọa chính đối với sông Mê Công là việc xây dựng đập thủy điện. Trung
Quốc đã có 5 đập hoạt động, dự định xây thêm 15 đập cỡ lớn và cực lớn ở thượng
nguồn. Các nước Đông Nam á có kế hoạch xây dựng 11 con đập ở hạ nguồn.
Những con đập này sẽ làm biến đổi sự điều hòa tự nhiên và lưu lượng dòng chảy
theo mùa (tính thủy học), làm giảm lượng phù sa ở hạ nguồn, đe dọa những khu
vực trồng lúa nước năng suất cao nhất thế giới (như đồng bằng sông Cửu Long),
đe dọa các luồng cá di chuyển sinh sản ở một con sông đang là ngư trường cá
nước ngọt lớn nhất thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của nông dân và ngư
dân. Mối đe dọa sông Mê Công còn do tác động của biến đổi khí hậu, gây ra ngày
càng nhiều những trận lũ lụt và hạn hán trầm trọng, xói mòn bờ, nước biển dâng
cao ở khu vực châu thổ con sông này.
Như vậy, vấn đề môi trường bị tàn phá đang và sẽ là một trong những nguy cơ rất
lớn về đói nghèo đối với cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong thập niên tới. Chính
sách xóa đói, giảm nghèo từ năm 2011 trở đi phải được xây dựng trên những cơ
sở hiện thực mới nói trên, khác hẳn với cách làm chắp vá dựa trên “tư duy hỗ trợ,
ban ơn”, chỉ nhằm ổn định xã hội ngắn hạn, không có khả năng phát triển.
Khi xem xét tác động của môi trường đến phát triển kinh tế và xã hội, còn phải
tính đến giá trị địa - kinh tế của Việt Nam. Đó là giá trị địa - kinh tế ven biển, với
chiều dài 3.260 km bờ biển, hơn 3.000 hòn đảo, diện tích mặt biển lớn gấp ba lần
diện tích đất liền. Đó là lợi thế để tăng trưởng kinh tế gắn chặt với thu hẹp diện
đói nghèo, bằng cách khai thác tiềm năng biển gắn liền với bảo vệ môi trường của
một nền kinh tế sinh thái thông qua hiện đại hóa 4 trung tâm vùng biển: Hạ Long -
Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Phú Quốc và xây dựng lực lượng hiện đại bảo vệ
vùng biển.

Mặt khác, phải chấm dứt những hoạt động kinh tế trái với đòi hỏi trên, như khai
thác cát để bán cho Xin-ga-po. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm hoạt
động khai thác cát đã làm mất một khối lượng tương đương một hòn đảo rộng 15
km
2
.
Trong vòng nửa thế kỉ qua, mực nước biển tại Việt Nam đã dâng cao thêm khoảng
20 cm. Nhưng dưới tác động của biến đổi khí hậu và đặc biệt là các hoạt động của
con người, nước biển sẽ lấn sâu vào đồng bằng sông Cửu Long nhanh hơn, với tần
suất cao hơn. Hiện tượng mặn hóa phát triển nhanh trong thời gian gần đây là do
hai yếu tố kết hợp : nước biển dâng cao hơn và mực nước sông Cửu Long hạ
xuống thấp. Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước nhiều mối đe dọa
như diện tích đất trồng trọt bị thu hẹp, an toàn lương thực bị đe doạ, hệ sinh thái bị
hủy hoại, một số loài động thực vật có thể bị biến mất, tỷ lệ người đói nghèo gia
tăng, không kiểm soát được luồng di dân, nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
tàn phá, một số bệnh dịch có nguy cơ tái xuất hiện …Khí hậu nóng hơn đã gây ra
hiện tượng giãn nở của các đại dương và tan băng, làm cho mực nước biển dâng
lên. Mực nước biển dâng cao làm cho nước mặn xâm nhập ngày càng sâu vào
trong đồng bằng sông Cửu Long, làm giảm diện tích đất canh tác, hủy hoại
nghiêm trọng hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Theo các kịch bản được Bộ Tài
nguyên và Môi trường Việt Nam công bố, nếu mực nước biển dâng cao thêm 65
cm, thì hơn 6% diện tích thành phố Hồ Chí Minh bị ngập lụt. Nếu mực nước biển
dâng cao thêm 1 m, khoảng 500 km
2
của thành phố sẽ nhấn chìm dưới nước
biển.Tình hình còn tồi tệ hơn đối với đồng bằng sông Cửu Long, nơi sinh sống
của khoảng 17 triệu người. Vùng châu thổ này có tổng diện tích gần 40 ngàn km
2
,
cung ứng hơn 50% sản lượng lúa và hoa quả cho toàn quốc. Trong giả thuyết vào

năm 2100 nếu mực nưóc biển ở Việt Nam tăng thêm hơn 1m thì vựa lúa lớn nhất
của Việt Nam sẽ bị mất đi 38% diện tích. Hàng loạt địa phương bị chìm trong
nước. Cụ thể, Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long… mất từ 40%-
50% diện tích…Tuy nhiên, ngập chỉ là một vấn đề. Còn mặn sẽ xâm nhập vào đất
liền sâu hơn, sớm hơn, bờ biển bị xói mòn mạnh hơn ở cả phía Biển Ðông lẫn
phía Vịnh Thái Lan. Phần lớn vùng Nam sông Hậu, nhất là bán đảo Cà Mau, chịu
sự chi phối của hai chế độ triều, biển Ðông bán nhật triều và vịnh Thái Lan nhật
triều.
Việt Nam là nước có nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào nông nghiệp, trước tính
hình đáng lo ngại trên thì cấp thiết phải cần có giải pháp cụ thể một mặt chống
biến đổi khí hậu và chạy đua với nó. Khi diện tích đất canh tác bị thu hẹp đáng kể
thì liệu số phận của những người nông dân nghèo sẽ về đâu? Nhiều ngày qua,
nhiều năm qua miền Trung phải vật lộn chống chọi vói bão lũ khiến cho miếng
cơm manh áo của người nông dân càng bị eo hẹp. Là một dải đất nghèo nàn, thiên
tai, bão lũ còn khiến khúc ruột miền Trung trở nên xơ xác, hoang tàn và sau mỗi
cơn lũ lại xuất hiện thêm nhiều cảnh đói khổ.
Điều kiện tự nhiên đã tác động mạnh mẽ đén tình trạng đói nghèo, làm gia tăng
nhanh tỉ lệ đói nghèo của Việt Nam.
2.3. Hạn chế về năng lực quản lý, bộ máy tổ chức các cấp.
Đây là nhân tố tác động không nhỏ đến mức độ đói nghèo, nhưng thường bị bỏ
qua và chậm đổi mới. Xét trên toàn cảnh, tác động của nhân tố tổ chức, quản lý
của các cấp đến đói nghèo có mức độ khác nhau, ở những thời gian khác nhau,
được thể hiện tập trung ở mấy mặt sau đây:
Thứ nhất, tính chất và mức độ "hành chính quan liêu" trong các cấp đã ảnh hưởng
đến giải quyết vấn đề đói nghèo, thực hiện những chủ trương, chính sách xóa đói,
giảm nghèo trong thời gian qua biểu hiện ở các hoạt động:
- Cứu trợ dân nghèo trong các đợt thiên tai bão lụt ở một số nơi rất chậm trễ, làm
diện đói nghèo kéo dài và lan rộng.
- Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc, dựa vào quan hệ
thân quen đưa vào diện nghèo những hộ không nằm trong tiêu chí nghèo, thậm chí

bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo được hưởng. Những sai phạm này thường ở
cấp chính quyền cơ sở và huyện.
- Chất lượng xây dựng các luật kinh tế, xã hội còn thấp so với thực tiễn, nên "dễ
thông qua nhưng khó thi hành" ở cấp vĩ mô. Quy trình làm luật hiện nay chỉ coi
trọng mặt chính sách, giải trình nội dung chính sách hay luật mà không đòi hỏi
giải trình về mặt kỹ thuật tổ chức thực hiện, nhất là về mặt thanh tra, kiểm soát. Vì
vậy đã có những trường hợp bất khả thi, hoặc dễ "lách luật" và lạm dụng. Đây là
hạn chế của cấp vĩ mô.

×