Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " " Liêu trai chí dị " với sáng tác dân gian và văn học truyền thống " ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.74 KB, 9 trang )

Liêu trai chí dị
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
75





trần văn trọng
NCS Trờng Đại học s phạm Hà Nội


1. Liêu trai chí dị (gọi tắt là Liêu
trai) là bộ tiểu thuyết viết bằng cổ văn
vĩ đại nhất trong số các tiểu thuyết văn
ngôn, xứng đáng là "thiên cổ kỳ th"
(Phùng Trấn Loan) trong di sản tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc. Kể từ khi
bản khắc Liêu trai đầu tiên (bản khắc
Thanh Kha Đình) ra mắt (1766), đúng
nửa thế kỷ sau khi Bồ Tùng Linh mất
(1715), cho đến nay mức độ ảnh hởng
rộng rãi của Liêu trai đối với đời sống
văn học không hề thua kém bất kỳ bộ
tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng nào của
Trung Quốc; thậm chí, còn có sức lan toả
đến đời sống văn học ở Việt Nam, mà
hiện tợng sáng tác kiểu "Liêu trai hiện
đại" là một ví dụ. Đó là minh chứng về
sức sống lâu bền của tác phẩm. Mặc dù
không nằm trong hệ thống "Tứ đại kỳ


th" (Tam quốc chí, Thuỷ hử truyện,
Tây du ký, Hồng lâu mộng) nhng nói
đến thành tựu tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc, ngời ta không thể bỏ qua Liêu
trai, bởi giá trị phong phú của nó cũng
nh tính đại biểu cho thành tựu đoản
thiên tiểu thuyết Trung Quốc. Tác phẩm
này từng đợc ca ngợi là "vua của truyện
ngắn" (đoản thiên tiểu thuyết chi vơng).
Gần ba trăm năm qua, nó đã ghi dấu ấn
sâu đậm trong đời sống tinh thần của
ngời Trung Quốc cũng nh Việt Nam.
2. Thành tựu sáng tạo nghệ thuật của
Liêu trai từ lâu đã đợc các nhà nghiên
cứu thừa nhận trên nhiều phơng diện.
Một trong những vấn đề mà các nhà
nghiên cứu quan tâm là Bồ Tùng Linh
đã chuyển hoá các sáng tác văn học dân
gian và văn học truyền thống trong Liêu
trai nh thế nào? Đây là một trong
những vấn đề đợc các học giả Trung
Quốc và ngoại quốc rất quan tâm trong
các cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế về
Bồ Tùng Linh đợc tổ chức liên tục từ
1988 đến nay. Làm sáng tỏ mối quan hệ
kế thừa và sáng tạo của Liêu trai đối
với truyền thống văn học dân gian và
văn học viết là một trong những chìa
khoá giải mã sức hấp dẫn ma lực của
Liêu trai.

Những thiên truyện trong Liêu trai
không phải là không có nguồn gốc để
khảo chứng, bởi nó đợc xây dựng trên
trần văn trọng
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
76
nền tảng hiểu biết một cách sâu sắc văn
học dân gian và văn học bác học. Trong
Liêu trai có nhiều truyện hoặc lấy
nguồn gốc từ văn học dân gian, hoặc
truyền thống văn học chí quái, truyền
kỳ. Các nhà nghiên cứu Diệp Đức Quân,
Chu Đài Bạch, Vơng Văn Sâm, Nhiếp
Thạch Tiêu, Đặng Khôi Anh, Uông Phân
Linh, Chu Nhất Huyền đã có những bài
khảo chứng truyện gốc của Liêu trai.
Qua so sánh tỉ mỉ giữa truyện gốc và
truyện đã chuyển hoá, cải biên của Bồ
Tùng Linh có thể thấy công sức cũng
nh sự sáng tạo của Bồ Tùng Linh đối
với các tài liệu mà ông đã lựa chọn, qua
đó "càng thấy đợc tính tiến bộ trong t
tởng sáng tác của Bồ Tùng Linh và sự
cao minh của một ngòi bút văn học".
Trong bài "Tự chí", Bồ Tùng Linh cũng
đã cho biết ba nguồn gốc t liệu hình
thành nên Liêu trai: Thứ nhất là do sở
thích đối với tiểu thuyết quái dị cổ đại
mà lấy làm đề tài; thứ hai là do tự mình
nghe thấy những câu chuyện truyền

thuyết dân gian "nghe đến đâu thì đặt
bút đến đấy, lâu ngày thành sách"; thứ
ba, do bạn bè cung cấp t liệu tham
khảo "bạn bè bốn phơng gửi th về
cho". Qua đó có thể thấy đợc tính quần
chúng rộng rãi của nguồn tài liệu gốc,
vừa có đề tài truyền thống, hơn nữa lại
đợc phong phú bởi những câu chuyện
hiện thực hàng ngày sống động, hơi thở
cuộc sống rõ nét. Đây là một trong
những yếu tố làm cho Liêu trai giàu sức
sống nghệ thuật.
Trong xã hội, quan niệm "vạn vật hữu
linh" đã tạo cho con ngời một ranh giới
không rõ ràng, không ngăn cách giữa thế
giới này và thế giới kia, giữa cõi trần và
cõi âm. Và chỉ có một chiều hớng là
quay về quá khứ, hoá thân vào quá khứ
để nhận thức lại chính mình. Chính vì
vậy mà nảy sinh nhu cầu sáng tác,
thởng thức và truyền bá những câu
chuyện dân gian đậm màu sắc "truyền
kỳ". Từ đó, những cốt truyện dân gian vô
cùng phong phú đã đợc các nhà văn
Trung Hoa nhiều thời đại ghi chép, cải
biên, sáng tạo lại, dần dần tạo nên một
dòng văn học mang sắc thái riêng biệt.
Đó cũng là "quá trình văn học hoá
truyện dân gian, quá trình lột xác,
chuyển từ sáng tác văn học dân gian

sang sáng tác văn học viết". Bồ Tùng
Linh đợc đắm chìm trong không khí
huyền thoại đậm đặc của thời đại ở vùng
quê Sơn Đông, đã chắt lọc những yếu tố
kỳ ảo trong hiện thực cuộc sống, cộng với
khát vọng giải phóng t tởng thăng hoa
thành cảm xúc nghệ thuật. Ông đã vận
dụng thành công các môtíp thần thoại,
truyền thuyết một cách sáng tạo trong
tác phẩm của mình. Trong Liêu trai,
độc giả nh lạc vào thế giới của cổ tích,
thần thoại. những môtíp "biến hình",
"hoá thân", "đột lốt", "phục sinh", "đầu
thai" đầy rẫy trong tác phẩm. Việc vận
dụng các môtíp văn học dân gian mang
một sắc thái mới, đã đợc "cải hoá" qua ý
thức nghệ thuật của nhà văn, vì thế nó
mang hơi thở cuộc sống và ý nghĩa nhân
sinh sâu sắc.
Liêu trai là đại biểu xuất sắc "chẳng
những là cái mốc đánh dấu sự trung
hng của văn học chí quái, truyền kỳ
Liêu trai chí dị
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
77
Trung Quốc, mà còn là đỉnh cao của tiểu
thuyết văn ngôn". Quả thực, ngoài việc
lợm lặt, ghi chép và cải hoá những cốt
truyện đợc lu truyền trong dân gian,
Liêu trai còn ảnh hởng khá sâu sắc

truyền thống văn học chí quái, truyền kỳ
Trung Quốc. Học giả Tôn Cúc Viên
khẳng định "Về tính chất Liêu trai
thuộc loại chí quái, nhng nó lại mợn
và vận dụng những thủ pháp của truyền
kỳ đời Đờng để sáng tạo nên một
hình thức mới khác của loại chí quái.
Trong tác phẩm, Bồ Tùng Linh không
chỉ kế thừa phơng pháp truyền kỳ để
chép chuyện chí quái nh Lỗ Tấn đã
nói, mà ông còn sáng tạo, cải biên những
cốt truyện đã có sẵn trớc đây. Đó cũng
là một quy luật sáng tác của văn học
trung đại. Có những truyện trong tài
liệu gốc chỉ là những dòng ký dị (ghi
chép điều lạ) cha đủ t cách là một tác
phẩm văn học đợc Bồ Tùng Linh thổi
vào phẩm chất nghệ thuật tơi mới và ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc. Có thể so sánh
truyện "A Tú" trong Liêu trai với
truyện "Cô gái bán phấn hồ" (mãi
phấn hồ nữ tử) trong U minh lục của
Lu Nghĩa Khánh đời Lục triều. Cốt
truyện "Cô gái bán phấn hồ" rất đơn
giản kể về một chàng trai con nhà giàu
có mê đắm cô gái bán phấn hồ. Hàng
ngày anh chàng thờng mợn cớ mua
phấn để gặp ngời mình yêu. Ngời con
gái cũng dờng nh biết đợc tình ý của
anh chàng nên hẹn hò. Khi gặp gỡ, anh

chàng vì quá sung sớng nên đột tử. Bà
mẹ phát giác đã tố cáo lên quan trên. Cô
gái đến nhà khóc lóc và ngời con trai đã
sống lại. Sau đó hai hai ngời kết nghĩa
vợ chồng. Truyện của Bồ Tùng Linh, đại
thể cốt truyện cũng nh vậy, nhng diễn
biến câu chuyện không bình lặng, mà tác
giả đã dùng ngòi bút tân kỳ, lắt léo để
kịch tính hoá câu chuyện, khắc hoạ
nhân vật sinh động. Điểm mấu chốt
trong sáng tạo cải biên của Bồ Tùng
Linh là xây dựng quanh nhân vật Lu
Tử Cố hai hình tợng nữ tính có tớng
mạo giống nhau, nhng tính cách lại
khác nhau: đó là A Tú thật và A Tú giả.
A Tú thật thì thông minh thuần phác, A
Tú giả lại khôn ngoan si tình, là một yêu
nữ giáng trần. Hai hình tợng một giả,
một thật ánh chiếu, tơng hỗ lẫn nhau.
Trong tiểu thuyết chí quái U minh lục
lấy chữ tình và kết cục "đại đoàn viên"
để cấu tạo cốt truyện; thì "A Tú" của Bồ
Tùng Linh cũng lấy chữ "tình" để bắt
đầu câu chuyện, triển khai câu chuyện
tình kỳ lạ giữa Lu Tử Cố với hai mĩ
nhân A Tú thật và giả. Song hai chữ
"thật giả" tuy là trung tâm của tiểu
thuyết, nhng chữ "mỹ" mới có tác dụng
đòn bẩy trong phát triển tình tiết cốt
truyện. Toàn bộ câu truyện chủ yếu

triển khai sự so sánh sắc đẹp giữa A Tú
thật và A Tú giả mà tình tiết biến ảo, ly
kỳ, lúc căng lúc chùng rất hấp dẫn. Mặc
dù kết thúc truyện của Bồ Tùng Linh
cũng không ra ngoài khuôn khổ "đại
đoàn viên" trong tiểu thuyết truyền
thống, song cách tổ chức cốt truyện, dẫn
dắt tình tiết của Bồ Tùng Linh đã vợt
xa Lu Nghĩa Khánh.
Đối với truyền kỳ Đờng, Bồ Tùng
Linh cũng đã có những đóng góp lớn
trần văn trọng
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
78
trong việc chuyển hoá cốt truyện. Sự cải
biên các cốt truyện truyền kỳ Đờng
trong Liêu trai còn có thể dẫn ra nhiều
câu chuyện nh: "Hoạ bì" cải biên từ
truyện truyền kỳ "Thôi Thao" trong
Tập dị ký của Tiết Dụng Nhợc;
"Phợng dơng sĩ nhân" cải biên từ
truyện "Độc cô hà thúc" trong Hà
Đông ký của Tiết Ng T và Tam
mộng ký của Bạch Hành Giản; "Tiểu
Nhị" cải biên từ truyện "Du tẩu" trong
Tuyên thất chí của Trơng Độc
Những sự cải biên cốt truyện của Bồ
Tùng Linh đã đạt đợc những phẩm
chất thẩm mĩ u tú, đem lại cho tác
phẩm sự mới mẻ về hình tợng và sự

sáng rõ t tởng. "Hiệp nữ" có nguồn
gốc từ truyện "Thôi Thận Ân" trong
Nguyên Hoá ký của Hoàng Phủ Thị và
truyện "Giả nhân thê" trong Tập dị ký
của Tiết Dụng Nhợc. Trong truyện
truyền kỳ "Thôi Thận ân", tiến sĩ Thôi
Thận ân thuê nhà ở trọ, thấy bà chủ
phong t xinh đẹp liền muốn lấy làm vợ.
Phu nhân tự cho mình là không xứng
đáng, chỉ xin làm thiếp. Sau khi sinh
đợc một đứa con, một đêm Thôi thấy
phu nhân từ trên nóc nhà nhảy xuống
tay phải cầm thanh đao tay trái xách
một cái đầu ngời, nói cha nàng bị quan
phủ sát hại oan uổng, nói xong bỏ đi.
Thôi Thận ân còn đang kinh hãi thì phu
nhân quay lại nói muốn cho con bú. Thôi
ngồi ngẫm nghĩ sao mà không nghe thấy
tiếng trẻ bú. Nhìn ra thấy con đã bị giết
mất rồi. Kẻ giết con chính là ngời mẹ.
Truyện "Giả nhân thê" trong Tập dị
ký về cơ bản tình tiết cốt truyện giống
nhau. "Hiệp nữ" (cô gái nghĩa hiệp) tuy
lấy cốt truyện trong truyền kỳ Đờng
song trên các phơng diện chủ yếu đều
có sự "thay da đổi thịt". Thứ nhất, các
nhân vật trong Truyền kỳ Đờng đều là
ngời có kinh tế khá giả, sau khi báo thù
xong đều đem của cải và a hoàn trong
nhà giao lại cho chồng quản lý, trong khi

đó hiệp nữ lại nghèo khó, sống nhờ vả
vào ngời khác lại còn phải phụng dỡng
mẹ già và nghĩ cách báo thù cha, con
đờng của cuộc đời càng khó khăn thì
tính cách của hiệp nữ càng đợc trui rèn
trong hoàn cảnh càng thêm lấp lánh; thứ
hai quá trình báo thù của các nhân vật
trong truyền kỳ đều có sự xuất hiện của
ngời nam giới trong gia đình, sự giao
tình với nhân vật nam giới là thiếu hẳn
sự sâu sắc của tình cảm. Nhân vật nam
chỉ là cái nền câu chuyện cho nhân vật
nữ chính, trong khi đó hiệp nữ và Cố
Sinh trong Liêu trai đối với nhau chân
tình, gần gũi nh bạn bè, đối với các
nhân vật khác cũng có sự thắm thiết, đó
là tình cảm giữa con ngời với con ngời.
Cố Sinh và Cố mẫu tuy là nhân vật phụ
cũng đợc miêu tả rất có nhân cách; thứ
ba, các nhân vật nữ trong truyện Truyền
kỳ sau khi báo thù xong đều giết chết
con của mình, dù có thể giải thích đó là
hành động quả quyết thì xét cho cùng đó
cũng là hành động phi nhân tính. Trong
Liêu trai, Bồ Tùng Linh đã thay đổi chi
tiết phi nhân tính "giết con" thành "sinh
con" mang đầy chất nhân bản. Hiệp nữ
sinh con không chỉ để lại cho nhà họ Cố
ngời con nối dõi (vì Cố Sinh đoản thọ).
Tình tiết này đã tô điểm thêm "tính cách

Liêu trai chí dị
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
79
chân thực" của hiệp nữ, nói lên cái đẹp
của nhân tính tình ngời. Hiệp nữ sinh
con không chỉ trở thành một yếu tố quan
trọng trong khắc hoạ tính cách nhân vật
mà còn "trở thành điểm nhấn để phát
triển tình tiết của tiểu thuyết, cao hơn
nữa nó đã trở thành mấu chốt quan
trọng để luyện thép thành vàng, biến đề
tài hiệp nữ truyền thống từ chỗ bình
thờng trở thành thần kỳ".
Không chỉ chí quái Lục triều, truyền
kỳ Đờng ảnh hởng sâu sắc, trở thành
nguồn đề tài cải biên cốt truyện của Bồ
Tùng Linh, mà ngay những chuyện vụn
vặt lợm lặt hàng ngày, hay từ những
ghi chép rất giản lợc trong sử sách cũng
gợi cảm hứng cho Bồ Tùng Linh sáng tạo
nên những giai tác mang hơi thở cuộc
sống. Truyện "Xúc chức" (chọi dế) là
một tác phẩm nổi tiếng trong Liêu trai
của Bồ Tùng Linh. Trớc khi Liêu trai
ra đời, trong dân gian đã lu truyền
những câu chuyện, lời đồng dao về tệ
nạn chọi dế từ Hoàng đế trong cung đến
thứ dân nơi thôn hẻm. Sử sách đời Minh
cũng đã ghi chép về thói chơi "chọi dế"
và nạn cống dế chọi hàng năm. Sách

"Vạn lịch dã hoạch biên" (ghi chép
những chuyện vặt thôn quê thời Vạn
Lịch) của Thẩm Đức Phù đời Minh đã
chép: "Tuyên Tông triều tôi thích nhất
trò này, đã từng chiêu hàng nghìn con
của tri phủ Tô Châu Huống Trung. Vì
vậy một thời lu truyền câu đồng dao
"con dế kêu ran, Tuyên Đức hoàng đế
ham". Lời đồng dao này đến nay vẫn còn
lu truyền. Tác phẩm "Minh triều tiểu
sử - Tuyên Đức ký. q6" của Lã Tất Tập
chép: "Hoàng đế tàn bạo thích chọi dế,
phái cử ngời đến Giang Nam tìm mua.
Giá dế chọi vì thế tăng cao đến mời
lạng một con. Khi đó Phong Kiều, một
lơng trởng do quận đô giám sát, bắt
đợc một con dế khoẻ, đem đổi lấy một
tuấn mã. Ngời vợ thấy đổi côn trùng
lấy tuấn mã làm lạ, mở hé nhìn trộm,
con dế nhảy ra mất. Ngời vợ sợ hãi tự
vẫn. Chồng trở về, thơng vợ hơn nữa
cũng sợ luật lệ liền tự vẫn theo". Câu
chuyện "Xúc chức" của Bồ Tùng Linh rõ
ràng đã đợc gợi ý từ những ghi chép
lịch sử và truyền thuyết dân gian.
Nhng cốt truyện và tình tiết trong tác
phẩm của Bồ Tùng Linh đã không diễn
ra một cách giản đơn nh những ghi
chép trên. Tác giả đã dựa trên những
quan sát, thể nghiệm, nhận thức, phân

tích sâu sắc về lịch sử và hiện thực, từ
đó cải tác thành tác phẩm xuất sắc,
không chỉ giá trị t tởng mà nghệ thuật
cấu tứ cốt truyện, tình tiết cũng rất độc
đáo, qua đó miêu tả số phận bi kịch của
con ngời nhỏ bé trong xã hội. Đáng chú
ý trong truyện của Bồ Tùng Linh tác giả
đan cài hai tình tiết trái ngợc nhau
nhng có mối quan hệ mật thiết với
nhau: đó là tình tiết trong hiện thực và
tình tiết trong ảo tởng. Nếu phần đầu
câu chuyện chủ yếu triển khai tình tiết
trong hiện thực thì phần sau lại đột ngột
xoay chuyển ngòi bút khi miêu tả tình
tiết trong ảo tởng: hồn con trai Thành
Danh hoá làm dế chọi. ở đây, tác giả sắp
xếp tình tiết không phải cố làm ra mơ
hồ, kỳ bí để thu hút dộc giả, mà là nhằm
trần văn trọng
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
80
thể hiện số phận bi thảm và bi kịch
trong thế giới nội tâm của nhân vật
Thành Danh. Sự thành bại trong câu
chuyện "chọi dế" không đơn thuần chỉ là
chuyện giải trí mà còn liên quan đến
cuộc đời và số phận của cả một gia đình.
Do đó, trong quá trình xây dựng cấu trúc
và sắp xếp tình tiết lúc căng lúc chùng,
lúc lơi lúc chặt, tác giả không ngừng

miêu tả sự biến đổi về tâm lý, t tởng
tình cảm của nhân vật chính khiến cho
câu chuyện càng hấp dẫn sinh động.
Ngời đọc dờng nh cũng đợc thể
nghiệm mọi trạng thái tình cảm tâm lý
với nhân vật qua những khúc ngoặt của
tình tiết cốt truyện.
"Lâm Tứ Nơng" cũng là một trong
những giai tác của Liêu trai. Câu
chuyện về cuộc đời của cô gái họ Lâm đã
có đến bốn tài liệu ghi chép gồm: Trì
bắc ngẫu đàm (Vơng Sĩ Trinh), Lâm
Tứ Nơng phụ ký (Lâm Tây Trọng),
Phụ nhân tập (Trần Duy Tùng), Dã
tẩu nhàn đàm (Đỗ Hơng Ng ẩn). ở
đây, chỉ lấy hai tác phẩm của Lâm Tây
Trọng và Vơng Sĩ Trinh để so sánh.
Trong "Lâm Tứ Nơng phụ ký" của
Lâm Tây Trọng, hình ảnh Lâm Tứ
Nơng nhảy múa cùng với đám hồn ma,
âm khí nặng nề, xuất hiện với hình thù
quái dị "mặt xanh nanh dài", "đầu to
nh cái bánh xe, miệng há to nh cái
gầu giai, hai mắt loé sáng nh điện", sau
hoá thành "giai nhân tuyệt sắc, tóc mây
búi cao, y phục đẹp đẽ". Lâm Tứ Nơng
tuy là giai nhân, song tuỳ tùng của nàng
là Quán đạo và Đông cô lại mời phần
quỷ khí "lai vô ảnh, khứ vô hình". Câu
chuyện về cuộc đời Lâm Tứ Nơng cũng

không có gì đặc biệt. Nàng vốn là con gái
quan giữ kho ở Giang Ninh, cha nàng vì
ăn cắp của kho mà bị hạ ngục. Nàng
cùng ngời anh họ chạy đi chạy lại đến
hàng nửa năm mới gỡ tội đợc cho cha.
Ngời cha ra khỏi ngục lại nghi ngờ
nàng có t tình với ngời anh họ, vì vậy
nàng thắt cổ chết. Nh vậy, cái chết của
Lâm Tứ Nơng dới ngòi bút của Lâm
Tây Trọng không hề dính dáng gì đến
cuộc đấu tranh giữa hai triều Minh và
Thanh. Ngoài ra, sự miêu tả và sắp xếp
tình tiết trong cốt truyện của Lâm Tây
Trọng cũng không có gì đặc biệt.
Trong Trì bắc ngẫu đàm, việc xử lý
của Vơng Sĩ Trinh có khá hơn so với
Lâm Tây Trọng. Khi Lâm Tứ Nơng
xuất hiện đã ăn mặc theo lối cung nữ
nhà Minh và nàng tự xng là cung nữ
của Hành Vơng, chẳng may chết sớm.
Ngoài ra, nhân vật còn ngâm hai câu thơ
hàm ý nói đến chiến tranh nổi lên, triều
đại thay đổi. Nhng cái chết của Lâm Tứ
Nơng vẫn không có mối quan hệ gì đến
cuộc tranh chấp quyền lực của nhà Minh
và nhà Thanh. Trong Trì bắc ngẫu
đàm Lâm Tứ Nơng khi xuất hiện đã
báo luôn tên họ của mình "thiếp là cung
nữ phủ Hành Vơng "mà không hề dấu
giếm. Ngoài ra Vơng Sĩ Trinh còn để

nhân vật tự bộc lộ nguyên nhân "không
may chết sớm ở trong cung" là cố ý để
cho cái chết của Lâm Tứ Nơng không có
quan hệ gì với sự biến đổi của thời cuộc.
Vơng Sĩ Trinh với thân phận là một cận
Liêu trai chí dị
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
81
thần nhà Thanh đơng nhiên phải khéo
léo che giấu vấn đề chính trị.
Liêu trai cũng khai thác câu chuyện
về bi kịch cuộc đời của Lâm Tứ Nơng,
song so với Lâm Tứ Nơng phụ ký của
Lâm Tây Trọng và Trì bắc ngẫu đàm
của Vơng Sĩ Trinh thì vợt xa, cả về
mặt cấu tứ lập ý, lẫn hành văn. Trớc
hết, đối với Lâm Tứ Nơng phụ ký
hình tợng Lâm Tứ Nơng dù đợc miêu
tả một mỹ nhân song ấn tợng ban đầu
"mặt xanh nanh dài", "đầu to nh bánh
xe, miếng há nh gầu giai" khó phai, vì
vậy mà hình tợng không trọn vẹn. Còn
so với Trì bắc ngẫu đàm, Lâm Tứ
Nơng đợc miêu tả trong Liêu trai đối
với Trần Bảo Thợc có một quan hệ rõ
ràng: quan hệ nam nữ, đó là quan hệ
giữa ngời và ngời. Quan hệ rõ ràng thì
văn chơng mới hay đợc, và rất nhiều
tình tiết nảy sinh từ đây. Còn quan hệ
giữa Lâm Tứ Nơng và Trần Bảo Thợc

đợc miêu tả trong Trì bắc ngẫu đàm
là một quan hệ giả và không rõ ràng, vì
giữa các nhân vật không tồn tại liên hệ
hữu cơ nào. Quan hệ giả nên những câu
nói của Lâm Tứ Nơng trong Trì bắc
ngẫu đàm không thuyết phục "không
quên đợc chàng, tuy không có lợi gì cho
chàng, nhng cũng không làm tổn hại
đến chàng" (ý nói mình là ma - TVT) và
"từ đó, giả làm yến tiệc nơi đình quán, cứ
mỗi lần bày tiệc, lại có tiếng ngời cời
nói thù tiếp". Nhng thân thế Lâm Tứ
Nơng trong Liêu trai rất rõ ràng, sự
cảm nhận về thân thế của nàng cũng
rất sâu đậm khi hát bài "Vong quốc chi
âm", khi nói về chuyện cũ thì "buồn bã",
suốt đêm ngồi đàm luận âm nhạc, bình
phẩm thơ ca. Mặc dù tác giả đã nói rõ
Lâm Tứ Nơng là một hồn ma, nhng
lại không gây ấn tợng kinh sợ, vì hồn
ma đã sống lại thành ngời trần đầy
tình cảm bi ai. Trì bắc ngẫu đàm tuy
cũng có nói đến "thuật lại các chuyện cũ
trong cung, vô cùng thảm thiết, lại cầm
phách gõ và hát, âm thanh não nuột"
nhng chỉ là những lời rất trừu tợng.
Mặt khác, một tác phẩm bao giờ cũng là
một chỉnh thể nghệ thuật, mà hễ thêm
hoặc bớt một vài câu chữ cũng có thể
phơng hại đến toàn chỉnh thể. Trong

Trì bắc ngẫu đàm chỉ chú trọng miêu
tả yến tiệc đãi khách, toàn chuyện thù
tạc giữa Lâm Tứ Nơng và Trần Bảo
Thợc, mà thực ra điều này không thiết
yếu lắm. Cuối tác phẩm, Lâm Tứ Nơng
lại xuất hiện và nói "trần duyên đã hết"
và "nghĩ mối thâm tình thâm hậu bấy
lâu nay", vậy đó là 'trần duyên" nào và
"mối thâm tình" nào. Điểm đáng chú ý là
cả Trì bắc ngẫu đàm của Vơng Sĩ
Trinh và Liêu trai của Bồ Tùng Linh
đều có bài thơ của Lâm Tứ Nơng. Trong
Trì bắc ngẫu đàm, có thể nói có hoặc
không cần chi tiết này vì nó không tham
gia vào sự miêu tả hình tợng. Còn
trong Liêu trai nó là một chi tiết rất
quan trọng không chỉ bộc lộ thế giới tâm
hồn đầy mẫn cảm với thi ca nhạc hoạ
của Lâm Tứ Nơng, mà hơn nữa nó còn
khéo léo đan cài sự phê phán hiện thực.
Lâm Tứ Nơng dùng thơ để bộc lộ khéo
léo về về số phận bất hạnh của mình, nỗi
ai oán phẫn nộ cũng nh sự thiện lơng
trần văn trọng
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
82
trong tâm hồn của cô. So sánh hai bài
thơ có thể thấy điểm khác nhau rất lớn:
Bài thơ trong Trì bắc ngẫu đàm :
Tĩnh toả thâm cung ức vãng niên

Lâu đài tiêu cổ biến phong yên.
Hồng nhan lực bạc nan vi lợi,
Nam hải tâm bi chỉ học thiền.
Tế độc liên hoa thiên bách ngẫu,
Nhàn khan bối diệp lỡng tam thiên.
Lê viên cao xớng "Thanh bình khúc",
Quân thí thính chi diệc vãng nhiên.
Bài thơ trong Liêu trai :
Tĩnh toả thâm cung thập thất niên,
Thuỳ tơng cố quốc vấn thanh thiên.
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc,
Khấp vọng quân vơng hoá Đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu,
Hán gia tú cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhợc nan vi lệ,
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiền.
Nhật tụng bồ đề thiên bách cú,
Nhàn khan bối diệp lỡng tam thiên.
Cao xớng "Lê viên" ca đại khốc.
Thỉnh quân độc thính diệc san nhiên.
Bài thơ trong Trì bắc ngẫu đàm, trừ
hàm ý câu "Lâu đài tiêu cổ biến phong
yên" (Lâu đài tràn ngập trong khói lửa
và tiếng trống trận) nói tới chiến tranh
loạn lạc, mang dấu ấn của thời đại. Còn
những câu khác đều không gợi cho độc
giả ấn tợng hay liên tởng về một triều
đại đã sụp đổ (nhà Minh), Lâm Tứ
Nơng chỉ có một lòng hớng Phật,
không có một chút hoài niệm về "cố

quốc", cũng nh không oán thán về cái
chết oan ức của mình. Còn bài thơ trong
Liêu trai. Câu thứ nhất đã xuất hiện
thời gian Lâm Tứ Nơng gặp nạn là 17
năm về trớc, tức năm Thuận Trị thứ 3
(1646) - năm mà Hành Vơng vị vua
cuối cùng nhà Minh bị bắt và áp giải về
Bắc Kinh. Trong bài thơ, Lâm Tứ Nơng
còn nhấn mạnh các từ "cố quốc", "Hán
gia" gắn liền điển tích vua Thục mất
nớc (chim Đỗ quyên), nói đến nỗi đau
của ngời dân mất nớc hoài niệm về
vua Thục cũng tức là hoài niệm về Hành
Vơng. Điểm đặc biệt là trong Liêu trai,
Bồ Tùng Linh còn ghi chú rõ: "Trong bài
thơ có chữ trùng điệp, thất luật, nghĩ
rằng ngời chép lại có chỗ lầm lẫn". Sự
chú thích nh vậy đã đa toàn bộ câu
chuyện về cuộc đời Lâm Tứ Nơng thành
truyền thuyết, còn trong Trì bắc ngẫu
đàm lại không có ý nh vậy.
Xét về mặt thời gian sáng tác thì Trì
bắc ngẫu đàm (bản khắc sớm nhất là
"Phúc Kiến khắc bản" năm Khang Hy 28
- 1689) sớm hơn Liêu trai và có lẽ gần
với truyền thuyết về Lâm Tứ Nơng.
Liêu trai có khả năng dựa trên Trì bắc
ngẫu đàm để cải tác. Sự cải tác của Bồ
Tùng Linh đã đạt đến trình độ nghệ
thuật tinh tế trong xử lý các chi tiết tạo

nên một hình tợng nhân vật Lâm Tứ
Nơng sinh động. Trong Liêu trai, Bồ
Tùng Linh đã xử lý hai chi tiết rất thành
công. Lâm Tứ Nơng tự giới thiệu "em
năm nay hai mơi tuổi, vẫn còn là xử
nữ" và "em là cung nữ ở phủ Hành
Vơng". Trong Trì bắc ngẫu đàm, thân
thế và địa vị Lâm Tứ Nơng không phải
Liêu trai chí dị
Nghiên cứu Trung Quốc số 8(87) - 2008
83
là một cung nữ bình thờng, mà là "một
ngời thiếp yêu ở phủ Hành Vơng"
(thiếp, cố Hành Vơng cung Tần dã).
Nh vậy, Lâm Tứ Nơng của Bồ Tùng
Linh không phải là một ngời thiếp yêu
của Hành Vơng. Bởi có phải là thiếp
yêu hay không phải là thiếp yêu có sự
phân biệt và có ý nghĩa hoàn toàn khác.
Là thiếp yêu, tất phải là ngời đợc
Hành Vơng sủng ái, thì tấm lòng
thơng nhớ cố quốc không có gì lạ.
Không phải là thiếp yêu, chỉ là một cung
nữ bình thờng mà thơng nhớ cố quốc
thì thân phận của ngời nhớ thơng và
ngời đợc nhớ thơng đợc nâng lên
khác hẳn. Việc xử lý chi tiết này giúp tác
giả tự do hơn trong ngòi bút, mặt khác
làm cho cuộc tình giữa Trần sinh và
Lâm Tứ Nơng không bị ràng buộc bởi

quan niệm danh tiết và hình tợng nhân
vật Lâm Tứ Nơng không gây phản cảm.
Thành công trong việc cải hoá cốt truyện
cũng nh trong xử lý nghệ thuật đã
khiến tác phẩm "Lâm Tứ Nơng" của
Bồ Tùng Linh đợc đánh giá là "một áng
văn chơng u tú nhất phản ánh diện
mạo thật của lịch sử trong các tác phẩm
Lâm Tứ Nơng, điều đó làm cho nó trở
thành một ghi chép lịch sử phản ánh
tâm trạng dân tộc của các tầng lớp trí
thức Hán tộc bấy giờ".
3. Nh vậy, qua những so sánh giữa
Liêu trai của Bồ Tùng Linh với các tác
phẩm gốc có thể khẳng định Liêu trai
có mối quan hệ mật thiết với truyền
thống văn học dân gian và truyền thống
văn học bác học. Nhà văn họ Bồ đã tiếp
thu, kế thừa và cải hoá các truyện có
nguồn gốc từ chí quái, truyền kỳ cũng
nh những chuyện dân gian lu hành
đơng thời, kể cả những ghi chép lợm
lặt từ trong sử sách. Đó là sự cải biên
một cách xuất sắc, đem lại cho tác phẩm
hơi thở mạnh mẽ của thời đại, nó cho
thấy tìm về cội nguồn văn học dân gian,
văn học truyền thống, những sáng tác
văn học đời sau không chỉ có kế thừa mà
còn có khả năng chọn lọc và dung hợp
chỗ mạnh, khắc phục chỗ yếu của các

sáng tác văn học trớc đó.
tài liệu tham khảo
1. Cổ điển văn học tam bách đề. Thợng
Hải cổ tịch xuất bản xãm, 1986.
2. Chu Nhất Huyền: Liêu trai chí dị t
liệu vựng biên, Thiên Tân, Nam Khai đại học
xuất bản xã, 2002.
3. Uông Phân Linh: Bồ Tùng Linh và văn
học dân gian, Thợng Hải văn nghệ xuất
bản xã,1985.
4. Bồ Tùng Linh: Liêu trai chí dị toàn tập,
Nxb Văn hoá thông tin. 1996, Nguyễn Chí
Viễn và Trần Văn Từ dịch.
5. Nguyễn Đăng Na: Văn xuôi tự sự Việt
Nam thời Trung đại, Nxb Giáodục, 1999.
6. Mã Thuỵ Phơng: Thần quỷ hồ yêu
đích thế giới, Bắc Kinh, Trung Hoa th cục.
2002.
7. Trâu Lơng Tông. Liêu trai chí dị bình
thởng đại thành - Lâm tứ nơng, Ly Giang
xuất bản xã, 1991.




×