Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đề tài: " GIÁ TRỊ VĂN HOÁ VÀ NHỮNG KHÍA CẠNH TÍCH CỰC TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.01 KB, 10 trang )






Nghiên cứu triết học

Đề tài: " GIÁ TRỊ VĂN HOÁ VÀ NHỮNG
KHÍA CẠNH TÍCH CỰC TRONG ĐỜI
SỐNG TÂM LINH "







GIÁ TRỊ VĂN HOÁ VÀ NHỮNG KHÍA CẠNH TÍCH CỰC TRONG ĐỜI
SỐNG TÂM LINH

NGUYỄN THÁI SƠN (*)
Đời sống tâm linh là một hình thức đặc biệt của ý thức con người và ý thức xã
hội. Đã có những khuynh hướng sai lầm về vấn đề này: hoặc là tuyệt đối hoá
vai trò của đời sống tâm linh, hoặc là đồng nhất đời sống tâm linh với chủ
nghĩa duy tâm, với mê tín dị đoan. Theo tác giả, hướng đến thế giới tâm linh
dường như là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người, đồng thời
là một trong những cách để con người sống lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Có
thể nói, lọc bỏ những yếu tố có màu sắc thần bí và mê tín dị đoan, phần tinh
tuý, trong sáng của đời sống tâm linh sẽ hiện ra, đó là những giá trị văn hoá
đầy bản sắc và chứa đựng ý nghĩa nhân văn.


Có hay không một thế giới tâm linh huyền bí với những phép nhiệm màu đầy
quyến rũ? Điều đó còn cần được nghiên cứu và tranh luận rất nhiều. Tuy
nhiên, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, không có bất kỳ một quốc
gia, một dân tộc nào trên thế giới lại không có một đời sống tâm linh hết sức
phong phú. Đối với con người Việt Nam cũng vậy, trải qua bao thế kỷ thăng
trầm, đời sống tâm linh của người Việt vẫn ẩn hiện đâu đó với những giá trị
diệu kỳ. Không chỉ từ xa xưa, mà ngay cả trong thời đại ngày nay, thời đại của
khoa học – công nghệ, thời đại của tri thức và văn minh, những vấn đề của thế
giới tâm linh, của đời sống tâm linh vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, vẫn tiếp
tục được đặt ra với không biết bao nhiêu bí ẩn, khêu gợi trí tò mò và cả những
thách đố lớn lao đối với khoa học chân chính.
Những lý do nào khiến cho đời sống tâm linh tồn tại một cách lâu dài, bền bỉ
như vậy? Chắc chắn là không phải chỉ bởi những hạn chế, những yếu kém
trong nhận thức của con người. Nếu chỉ vì những lý do đơn giản, tầm thường,
thì nhất định niềm tin của con người về thế giới siêu nhiên, về thế giới tâm linh
sẽ không thể mãnh liệt và có sức sống lâu bền. Chúng ta không thể nhìn nhận
đời sống tâm linh của con người một cách đơn giản, ngây thơ, không thể nhìn
nhận bằng tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường. Nói cách
khác, chúng ta phải xem xét vấn đề này từ góc độ thế giới quan duy vật biện
chứng.
Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế hiển nhiên là
những vấn đề thuộc về đời sống tâm linh sẽ còn tồn tại rất lâu dài trong đời
sống xã hội loài người. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa
tư duy và tồn tại”(1). Rõ ràng, chừng nào con người còn tư duy, chừng đó mối
quan hệ giữa hai thế giới, thế giới vật chất và thế giới tinh thần vẫn còn tồn tại.
Và, trong mối quan hệ này, những vấn đề thuộc về đời sống tâm linh sẽ không
thể bị xóa bỏ một cách đơn giản trong một sớm một chiều bằng những tư
tưởng chủ quan duy ý chí. Ngoài ra, sức sống của thế giới tâm linh còn xuất
phát từ những khía cạnh mang ý nghĩa tích cực nội tại. Đó chính là những giá

trị văn hoá sâu xa, ẩn chứa sau bức màn tâm linh sâu thẳm. Trong bài viết này,
chúng tôi muốn tập trung khai thác vấn đề này.
Trước hết, cần nói qua một chút về khái niệm đời sống tâm linh. Chưa nói đến
những người có niềm tin tôn giáo, những người mà trong tâm thức của họ lúc
nào cũng hiển hiện hình ảnh của Chúa, của Phật, mà chỉ nói đến những con
người bình thường, chúng ta cũng thấy vô vàn những biểu hiện của đời sống
tâm linh. Ngày Tết Nguyên đán, dù đi đâu ở đâu, dù xa xôi cách trở, chắc hẳn
ai cũng muốn sum họp với gia đình, với người thân, ai cũng muốn quay về với
quê hương, cội nguồn để thắp nén hương trên bàn thờ cầu khấn vong linh của
các bậc tiên tổ được siêu thoát, phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khoẻ, may
mắn, ăn nên làm ra. Một người lính lúc lâm trận, xông pha giữa làn bom đạn,
được đồng đội hy sinh thân thể để che chắn cho mạng sống của mình, chắc
chắn người lính đó sẽ suốt đời nhớ đến hình ảnh thiêng liêng của người đồng
đội lúc ngã xuống. Bước chân vào một nghĩa trang liệt sỹ, ta không thể không
xúc động trước vong linh của những con người đã hy sinh xương máu cho Tổ
quốc, cho nhân dân. Một cán bộ lãnh đạo cao cấp hay một người dân bình
thường, khi viếng thăm khu di tích Kim Liên, ai cũng muốn dâng một nén
hương tưởng niệm công ơn to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Có thể thấy rằng, tất cả những hiện tượng nêu trên đều là những biểu hiện cụ
thể của một đời sống tâm linh vô cùng phong phú. Vậy, đời sống tâm linh
chính là đời sống hướng về những giá trị tinh thần thuần khiết, thiêng liêng,
cao cả được đúc kết qua lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc và nhân loại. Đời
sống tâm linh chính là một hình thái đặc biệt của ý thức con người và ý thức xã
hội. Không thể có đời sống tâm linh, nếu như con người không có ý thức. Tuy
nhiên, ý thức nói chung của con người hết sức rộng lớn. Do đó, không phải bất
cứ điều gì thuộc về đời sống ý thức của con người cũng đồng thời thuộc về đời
sống tâm linh. Có thể thấy rằng, tính chất quan trọng nhất của đời sống tâm
linh trước hết là sự thiêng liêng, cao đẹp. Thế giới tâm linh phải là một thế giới
mà ở đó, chỉ những gì cao cả, lương thiện, đẹp đẽ mới có thể vươn tới và tồn
tại. Không biết từ bao giờ, những vấn đề thuộc về đời sống tâm linh đã đồng

hành cùng với con người và xã hội loài người.
Trong một thời gian khá dài, vấn đề đời sống tâm linh với những khía cạnh văn
hoá và những giá trị đích thực của nó đã được xem xét từ hai khuynh hướng
cực đoan, có tính đối lập gay gắt và do đó, đều đưa đến những kết quả sai lầm
đáng tiếc. Với khuynh hướng thứ nhất, một số người đã thổi phồng, tuyệt đối
hóa vai trò và giá trị của đời sống tâm linh, cho rằng thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ
của thế giới tâm linh đầy huyền bí. Những câu chuyện hoang đường về việc
chụp được ảnh linh hồn, về thần giao cách cảm, về gọi hồn, lên đồng, nhập
hồn, thoát xác… đã xuất hiện từ lâu nay lại được tiếp tục khơi dậy. Ở một mức
độ nhất định, chúng là cơ sở nuôi dưỡng những tư tưởng mê tín, dị đoan tầm
thường và thấp kém. Ngay cả trên một số phương tiện thông tin đại chúng,
thỉnh thoảng cũng có những mẩu tin giật gân, câu khách đầy màu sắc hoang
đường, đến mức khiến ngay cả những đầu óc duy tâm và mê tín nhất cũng phải
nghi ngờ tính xác thực của chúng. Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại
của những hiện tượng này? Cái gì đã khiến người ta tin vào những hiện tượng
nhảm nhí như vậy? Theo chúng tôi, quan điểm duy tâm, sự thổi phồng, tuyệt
đối hóa giá trị và ý nghĩa của đời sống tâm linh cùng với chủ nghĩa kinh
nghiệm, lối tư duy siêu hình máy móc, sự xa rời phép biện chứng duy vật
chính là những nguyên nhân cơ bản. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên
(Nhà xuất bản Sự thật ấn hành năm 1971) có chương Khoa học tự nhiên trong
thế giới của thần linh(2). Chương này được Ph.Ăngghen viết vào nửa đầu hoặc
giữa năm 1878. Cho đến nay, đã hơn 100 năm trôi qua, song những vấn đề
được ông trình bày trong đó vẫn còn nguyên giá trị. Ph.Ăngghen cho rằng, “sẽ
không sai lầm khi đi tìm cái cực đoan của ảo tưởng, của tính cả tin và mê
tín”(3) không phải chỉ ở triết học duy tâm, mà còn ngay cả ở những người làm
công tác khoa học, đặc biệt là ở những nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, những
người mà theo ông, “chỉ dựa vào thực nghiệm nên rất coi khinh tư duy và trong
thực tế lại nghèo về tư tưởng hơn”(4). Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh rằng, nếu
khinh miệt phép biện chứng thì không thể không bị trừng phạt. Sự trừng phạt
này thể hiện ở chỗ, “nó đưa một số người thực nghiệm chủ nghĩa tầm thường

nhất sa vào chỗ dị đoan ngu xuẩn nhất, sa vào thần linh học”(5).
Tuy nhiên, sai lầm của khuynh hướng thứ hai cũng đáng sợ và nguy hiểm
không kém sai lầm của khuynh hướng thứ nhất. Một số người, khi giương cao
ngọn cờ duy vật nhưng lại bỏ quên tính biện chứng đã vội vàng quy kết rằng,
tất cả những gì thuộc về tâm linh và đời sống tâm linh đều đồng nghĩa với chủ
nghĩa duy tâm, đều là sự mê tín, dị đoan và do đó, đều cần phải xoá bỏ. Đã có
những thời kỳ người ta rầm rộ đập phá đình, đền, miếu mạo và xem đó là việc
làm đồng nghĩa với việc xoá bỏ những tàn tích của chủ nghĩa duy tâm cùng với
nạn mê tín, dị đoan của chế độ phong kiến. Nhiều di tích lịch sử đã bị tàn phá,
nhiều danh lam thắng cảnh đã bị xâm phạm hoặc hủy hoại. Nhiều công trình
văn hóa có giá trị và ý nghĩa tâm linh sâu sắc đã không còn nữa. Hiện nay,
không còn bóng dáng của những ngôi đình cổ ở nhiều làng quê đồng bằng Bắc
bộ và miền Trung. Những ngôi đền, ngôi miếu thờ các vị Thành hoàng làng
cũng đang dần biến mất. Những biểu tượng “cây đa, bến nước, sân đình” bây
giờ dường như chỉ còn trong hoài niệm. Với đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế
thị trường thiếu nhãn quan văn hóa, với lối sống thực dụng, chạy đua theo các
nhu cầu của đời sống vật chất trước mắt; đặc biệt, với lối tư duy duy vật tầm
thường, có lẽ chẳng bao lâu nữa, văn hóa tâm linh, đời sống tâm linh rực rỡ,
giàu bản sắc của người Việt trong quá khứ sẽ chỉ còn là những “hoang mạc
khô cằn”. Đối với quan điểm duy vật tầm thường, đời sống tâm linh hoặc là
không hề có giá trị văn hóa, hoặc nếu có cũng chỉ là những giá trị không đáng
kể. Thực ra, không phải bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng nhận ra những giá trị tinh
thần có sức mạnh to lớn tiềm ẩn trong tín ngưỡng và trong đời sống tâm linh của
con người. Đã có những lúc chúng ta không hiểu được rằng, nếu bắn vào quá
khứ bằng súng lục sẽ bị tương lai trả lời bằng đại bác… Rõ ràng, nếu nhìn nhận
vấn đề tâm linh, tín ngưỡng bằng cặp mắt duy vật tầm thường, bằng lối tư duy
siêu hình máy móc, bằng những suy nghĩ giản đơn sẽ đưa đến những sai lầm hết
sức nguy hiểm.
Thực ra, tâm linh, đời sống tâm linh, văn hoá tâm linh,… là những vấn đề hết
sức tế nhị. Cho đến nay, rất nhiều câu hỏi nảy sinh xung quanh những vấn đề

đó vẫn chưa có lời giải đáp thực sự khoa học và nghiêm túc. Tuy nhiên, nếu
soi xét vấn đề dưới lăng kính của thế giới quan duy vật biện chứng, chúng ta
có thể thấy những sự thực khá đơn giản. Bất kỳ ai cũng dễ nhận thấy rằng, việc
hướng về thế giới tâm linh dường như là một nhu cầu tất yếu trong đời sống
tinh thần của con người. Nhu cầu này giúp con người xoa dịu những nỗi đau
trần thế, vượt qua được những khó khăn, những thử thách nghiệt ngã của cuộc
đời dù chỉ là về mặt tinh thần. Khi gặp những nỗi đau, những điều bất hạnh,
bất kỳ ai cũng có nhu cầu được sẻ chia, được an ủi. Và, những lúc rơi vào tình
huống như vậy, có lẽ rất nhiều người sẽ hướng về thế giới tâm linh để cầu
mong một sự che chở, vỗ về, dù họ biết chẳng bao giờ có một phép màu nào
cả. Những nỗi đau quá sức chịu đựng của con người nhỏ bé, yếu đuối và mong
manh vẫn thường xẩy ra trong cuộc đời ngắn ngủi. Một người vợ mất chồng,
một người cha mất con trong những tai nạn giao thông phũ phàng chắc chắn sẽ
vô cùng đau khổ. Họ sẽ làm gì nếu không hướng về thế giới tâm linh để được
tiếp thêm nguồn sức mạnh tinh thần, để được an ủi, vỗ về. Dù khoa học, công
nghệ có tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, dù tri thức, hiểu biết của con người có
phát triển đến mấy đi chăng nữa thì những tai nạn bất ngờ, những căn bệnh nan
y vẫn cứ xảy ra và cướp đi cuộc sống của những con người vô tội. Có lẽ,
chừng nào trên trái đất này còn có những khổ đau và bất hạnh thì chừng đó,
con người còn có nhu cầu hướng về thế giới tâm linh và do vậy, đời sống tâm
linh vẫn tiếp tục tồn tại. Đúng như C.Mác đã từng khẳng định, tôn giáo chỉ là
“thuốc phiện của nhân dân”, chỉ mang lại sự đền bù có tính hư ảo. Tuy nhiên,
khi trình độ phát triển của con người còn có những hạn chế, thì sự đền bù đó
cũng có giá trị nhất định, dù chỉ là về mặt tinh thần. Dĩ nhiên, với thế giới quan
duy vật biện chứng, chúng ta không bao giờ được phép đắm mình trong sự an
ủi giả tạo của đời sống tâm linh. Nhưng với tư duy biện chứng, chúng ta hiểu
rằng có một sự đền bù hư ảo dù sao cũng hơn là chẳng có bất cứ một điều gì.
Hướng về thế giới tâm linh không những là một nhu cầu, mà dường như còn là
một cách giúp con người sống lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Thế giới tâm linh,
đời sống tâm linh chính là sự khát khao của con người về chân lý, về cái hoàn

mỹ và hạnh phúc vĩnh hằng. Tất cả những người có thế giới quan duy vật biện
chứng, có kiến thức khoa học đều hiểu là Thượng Đế, Chúa Trời hay Đức
Phật,… không hề tồn tại đích thực. Nhưng dù sao, từ trong sâu thẳm tâm hồn,
ai cũng khát khao, mong mỏi và đợi chờ những điều tốt đẹp. Xã hội sẽ tốt đẹp
hơn và con người sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu nếu ngay tại cuộc sống trần thế
này không còn những rủi ro, bất hạnh. Trong khi đời sống hiện thực còn có
những khó khăn, còn có những tệ nạn, những bất công thì những mơ ước, khát
vọng của con người về một thế giới lý tưởng vẫn tiếp tục được biểu hiện qua
những biểu tượng vĩnh hằng thuộc về thế giới tâm linh. Trong nhiều câu
chuyện thần thoại và cổ tích, phép màu và các sức mạnh siêu nhiên là một
phương thức để cái thiện chiến thắng cái ác, cái tốt vượt lên trên cái xấu, cái
cao thượng thay thế cho sự thấp hèn. Cứ mỗi lần cô Tấm bé nhỏ gặp phải
những nỗi đọa đày thì ông Bụt lại hiện ra để thực hiện thiên chức của mình,
mang lại sự công bằng xã hội. Những nhân vật như Lý Thông, như mẹ con nhà
Cám,… cuối cùng đều phải đền tội, đều bị trừng phạt một cách xứng đáng.
Nếu sự thực luôn diễn ra đúng như vậy thì cái ác, cái xấu sẽ chẳng còn nơi ẩn
nấp. Trong thực tế, con người không dám làm điều xấu, không dám gây ra tội
ác là do sợ bị pháp luật trừng phạt, sợ bị lên án bởi đạo đức, lương tâm, bởi dư
luận xã hội và có lẽ, có một phần không nhỏ là do sợ bị trừng phạt bởi thánh
thần. Rõ ràng, tác dụng ngăn ngừa cái xấu, ngăn cản cái ác, đưa con người đến
với cái thiện, cái tốt của đời sống tâm linh là hoàn toàn có thật. Chúng ta đều
biết, có nhiều con đường, phương thức để giáo dục và hoàn thiện nhân cách
con người, mà một trong số đó, theo chúng tôi là đời sống tâm linh. Đây cũng
là một khía cạnh tích cực trong các giá trị đích thực của đời sống tâm linh.
Ngoài ra, đời sống tâm linh còn tạo ra sự đoàn kết, tạo ra sự kết nối quá khứ –
hiện tại – tương lai. Đời sống tâm linh có sức lan truyền mạnh mẽ, tạo ra
những cảm xúc, rung động thiêng liêng và do đó, có tác dụng tập hợp, đoàn
kết, gắn bó con người một cách có hiệu quả. Sự thiêng liêng trong bài thơ
“Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đã khiến kẻ thù run sợ. Hòn Vọng
Phu bị phá sập đã gây nên sự tiếc nuối trong biết bao trái tim người Việt. Hồ

Gươm ở thủ đô Hà Nội gắn liền với sự tích Hoàn Kiếm vừa huy hoàng và đẹp
đẽ, vừa trang nghiêm, đầy vẻ linh thiêng. Đó là một biểu tượng tuyệt vời của ý
chí độc lập tự chủ, kiên cường, thượng võ, song cũng đầy chất lãng mạn của
dân tộc. Từ sự tích thần Kim Quy thời An Dương Vương đến truyền thuyết rùa
vàng rẽ sóng nhận gươm thời vua Lê Thái Tổ là cả một hành trình lịch sử đầy
sóng gió, trong đó đời sống tâm linh là một trong những cơ sở quan trọng giúp
cha ông ta vượt lên trên sự đồng hóa tàn bạo của các thế lực xâm lược ngoại
bang. Đối với mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên là biểu tượng hết sức thiêng liêng,
có sức mạnh lôi cuốn các thành viên quây quần, đoàn tụ để tưởng nhớ về cội
nguồn, duy trì những giá trị truyền thống nhằm chuyển giao cho các thế hệ mai
sau. Con người là một sinh vật kỳ diệu, có khối óc biết suy nghĩ để phân biệt
phải trái, đúng sai; có trái tim biết rung động trước những giá trị văn hóa tinh
thần đẹp đẽ, cao cả. Từ đó, hình thành nên một đời sống tâm linh sâu thẳm,
phong phú và có sức cuốn hút mạnh mẽ đến kỳ diệu. Gạn lọc và bỏ đi những
yếu tố có màu sắc mê tín, dị đoan, phần tinh tuý trong sáng trong đời sống tâm
linh sẽ hiện ra, đó là những giá trị văn hoá đầy bản sắc và có ý nghĩa nhân văn.
Có thể khẳng định rằng, những giá trị văn hóa của đời sống tâm linh là bền vững
và có những ý nghĩa tích cực nhất định. Chúng không những tạo ra những sức
mạnh tinh thần, mà còn có thể tạo ra những sức mạnh có tính vật chất thực sự.
Đó là những giá trị mà chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc và đầy đủ.
Bàn về giá trị văn hóa của đời sống tâm linh là một vấn đề vô cùng phức tạp và
tế nhị. Những ý kiến trên đây mới chỉ là những suy nghĩ ban đầu còn hết sức
đơn giản và mộc mạc. Bài viết cũng không có tham vọng giải quyết một cách
triệt để tất cả các khía cạnh. Chúng tôi chỉ hy vọng gợi mở một phần nào ý
nghĩa văn hoá và những giá trị tinh thần đích thực ẩn chứa trong đời sống tâm
linh của con người dưới góc nhìn của thế giới quan duy vật biện chứng./.

(*) Tiến sĩ, Trưởng bộ môn Triết học, Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại
học Vinh, Nghệ An.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995, tr.403.
(2) Chúng tôi sử dụng tác phẩm Biện chứng của tự nhiên được xuất bản từ năm
1971 là vì trong C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.20, phần in về Biện chứng
của tự nhiên (từ tr.451 đến tr.826) chúng tôi không thấy có chương này.
(3) F.Ăngghen. Biện chứng của tự nhiên. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.62.
(4) F.Ăngghen. Sđd., tr.62.
(5) F.Ăngghen. Sđd., tr.78.



×