Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đề tài “Giá trị hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá Việt Nam trong điêù kiện hội nhâp kinh tế quốc tế” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.34 KB, 21 trang )

Giá trị hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh
hàng hoá Việt Nam trong điêù kiện hội nhâp
kinh tế quốc tế

1

1


MỤC LỤC
I/ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH HÀNG HOÁ VÀ GIÁ TRỊ HÀNG
HỐ
1) Cạnh tranh hàng hố
2) Giá trị hàng hố
II/ THỰC TRẠNG VỀ SỨC CẠNH TRANH HÀNG HỐ Ớ NƯỚC TA
1) Tình hình xuất khẩu hàng hố Việt Nam trong những năm vừa qua
2) Đánh giá chung về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới
III/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CANH TRANH HÀNG HOÁ VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1) Mục tiêu và phương hướng phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá Việt
Nam và sự cần thiết nâng cao khẳ năng cạnh tranh
2) Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trên thị trường thế giới
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói nền kinh tế thị trường nước ta vẫn cịn trong tình trạng thấp kém,
lạc hậu, hệ thống thị trường chưa đồng bộ, và đang trong giai đoạn thực hiện cơ
cấu kinh tế mở nhưng sức cạnh tranh cịn yếu.Tuy nhiên, nhờ có sự chỉ đạo và điều
hành sát sao của chính phủ thơng qua các chính sách phù hợp, kịp thời, cùng với
sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và toàn dân mà nền kinh tế
tiếp tục phát triển theo chiến lược nền kinh tế thị trường lấy cơ cấu kinh tế mở, hội
nhập để tồn tại và phát triển. Thích ứng với cơ cấu kinh tế này là chiến lược thị


trường hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt
hàng sản xuất trong nước có hiệu quả.
Nền kinh tế đã có những dấu hiệu tăng trưởng và phát triển. Hàng hoá Việt
Nam ngày càng đa dạng, phát triển theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mẫu mã và
chất lượng được nâng cao và không ngừng cải tiến, sánh ngang với các hàng ngoại
2

2


nhập về giá cả và chất lượng. Thị trường hàng hố Việt Nam được mở rộng khơng
những trong khu vực mà cịn phát triển trên tồn thế giới.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu “Giá trị hàng hoá và nâng cao sức cạnh
tranh hàng hoá Việt Nam trong điêù kiện hội nhâp kinh tế quốc tế” là một
hướng nghiên cứu hết sức quan trọng không những ở cấp vi mô (Doanh nghiệp)
mà cịn ở cấp vĩ mơ giúp chúng ta hiểu về thực trạng chất lượng, mẫu mã, giá cả
của hàng Việt Nam hiện nay, từ đó giúp đề ra những chính sách hỗ trợ phát triển
nhằm mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh của hàng
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Tô Đức Hạnh đã hướng dẫn em trong suốt
quá trình thực hiện tiểu luận này. Do kiến thức có hạn, tiểu luận khó tránh khỏi
những sai sót. Em mong được sự giúp đỡ, góp ý của thầy. Em xin chân thành cảm
ơn thầy!
Hà Nội, tháng 5 năm 2007
Sinh viên Vũ Thị Chung
PHẦN NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH HÀNG HÓA, GIÁ TRỊ HÀNG HÓA
1. Cạnh tranh hàng hố
Nói đến cạnh tranh hàng hố là chúng ta có thể nghĩ tới: Chất lượng và giá
cả của sản phẩm. Một hàng hoá khi đem giao bán trên thị trường, muốn có chỗ

đứng trên thị trường, chiếm lĩnh thị trường địi hỏi hàng hố đó phải có chất lượng
tốt, giá cả hợp lý và được người tiêu dùng chấp nhận. Một doanh nghiệp khi sản
xuất sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Điều đầu tiên họ
nghĩ tới là chất lượng và giá cả, mong tìm cho mình một vị trí trên thương trường,
thị trường quyết định sự sống cịn của sản phẩm. Chính vì vậy mà một sản phẩm
chất lượng tốt giá cả hợp lý, chắc chắn nó sẽ được người tiêu dùng chấp nhận từ
3

3


đó, nó sẽ dễ dàng có được sức mạnh thị trường, đủ sức cạnh tranh với các sản
phẩm khác.
Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh, từng doanh nghiệp sản xuất hàng hoá phải tự
vươn lên nhằm đạt lợi nhuận cao và nắm vững được thị phần trong nước, từng
bước đột phá, đặt chân vào thị trường thế giới cụ thể là doanh nghiệp Việt Nam
cần khai thác tốt những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế, có tính độc đáo, đặc sắc
và có chất lượng cao, phải tính toán sao cho giá thành hợp lý đủ sức cạnh tranh với
các sản phẩm cùng loại trên thị trường, phải có sự chun mơn hố cao để có sự
lựa chọn sản phẩm mà không cạnh tranh triệt tiêu nhau: Phải đầu tư đổi mới nhanh
thiết bị công nghệ đi đôi với xây dựng và thực hiện chiến lược nghiên cứu triển
khai để sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao phù hợp với thị hiếu của khác hàng.
Phải coi đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành công mới như một yếu tố quyết
định để tăng sức cạnh tranh. Cuối cùng tập trung giải quyết khâu tiếp thị – khâu
yếu nhất hiện nay.
Về quản lý vĩ mô, điều cần thiết là cải thiện môi trường kinh doanh để ai cũng có
thể kinh doanh theo pháp luật một cách thuận lợi và được hưởng các dịch vụ công
rõ ràng. Đặc biệt nhà nước hỗ trợ tích cực doanh nghiệp về nghiên cứu triển khai
tiếp thị, xuất khẩu và đào tạo nguồn lực con người.
Tóm lại, chỉ có phát huy sức mạnh tổng hợp từ hai phía doanh nghiệp và nhà nước

thì mới tăng được sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Đó là địi hỏi cấp thiết hiện
nay khi nước ta đang tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Giá trị hàng hoá
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và
đi vào q trình tiêu dùng thơng qua trao đổi hoặc mua bán.
Giá trị hàng hoá: Để hiểu giá trị hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
biểu hiện quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau.
Hai hàng hố có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một
4

4


tỷ lệ nhất định, vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao
phí sức lao động của con người, tức là có lượng giá trị hàng hoá bằng nhau.
Giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá. Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động của
người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá
trị trao đơỉ là hình thức biểu hiện của giá trị.
Vì chất của giá trị là lao động, nên nếu không kể đến tính có ích của sản phẩm thì
mọi hàng hố đều giống nhau đều khơng có sự phân biệt. Điều này làm cho giá trị
của hàng hoá là cơ sở của mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng
hóa
2. Lượng giá trị hàng hố
Về chất, giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng
hoá.
Về lượng, giá trị của hàng hoá là số lượng lao động đo bằng thời gian lao động
hao phí để sản xuất hàng hố.
Mỗi chủ thể kinh tế có một lượng hao phí lao động thực tế nhất định trong s ản
xuất hàng hố, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này xác định giá trị cá

biệt của hàng hoá. Trên thị trường, không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hoá
để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hoá. Giá trị xã hội của hàng
hố được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất hàng hố
trong điều kiện trung bình của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ tay
nghề trung bình và cường độ lao động trung bình. Thông thường thời gian lao
động xã hội cần thiết được xác định theo thời gian lao động cá biệt của những
người sản xuất và cung ứng tuyệt đại bộ phận loại hàng hoá trên thị trường.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá
5

5


Thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết không phải là một đại lượng cố
định mà luôn luôn thay đổi do năng suất lao động, cường độ lao động, lao động
giản đơn và lao động phức tạp
* Năng xuất lao động:
- Năng suất lao động là hiệu quả có ích của lao động sản xuất vật chất của con
người. Nó được biểu hiện ở số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian
hay thời gian lao động hao phí để làm ra một đơn vị sản phẩm
- Còn tăng năng suất lao động là tăng hiệu quả có ích của lao động sản xuất vật
chất con người, nó được thể hiện ở chỗ số lượng sản phẩm trong một đơn vị thời
gian tăng lên so với trước hay số lượng thời gian lao động hao phí cho một đơn vị
sản phẩm phải giảm so với trước.
- Những nhân tố để tăng năng suất lao động:
+ Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và sự vận dụng nó về mặt cơng nghệ.
+ Trình độ của phân công và hiệp tác lao động, chuyên môn của người lao động.
+ Hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên.
Như vậy thực chất của tăng năng suất lao động là tiết kiệm thời gian lao động.

- Mối quan hệ giữa năng suất lao động với lượng giá trị hàng hoá: Năng suất lao
động tăng lên (cường độ lao động khơng đổi) thì số lượng sản phẩm làm ra trong
một đơn vị thời gian tăng lên, thời gian hao phí lao động cho một đơn vị sản phẩm
giảm xuống giá trị của một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Như vậy năng suất lao
động tỉ lệ nghịch với lượng giá trị của một hàng hoá.
* Cường độ lao động
- Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian, nó
được đo của năng lượng, nó được thể hiện ở trình độ khẩn trương của lao động, có
cường độ lao động cá biệt và cường độ lao động xã hội
- Tăng cường độ lao động là tăng mức độ hao phí của lao động trong một đơn vị
thời gian làm cho lao động khẩn trương hơn tốn nhiều năng lượng hơn.
6

6


- Quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá trị hàng hoá: Cường độ lao
động tăng lên (trong điều kiện năng suất lao động không đổi) làm cho mức độ hao
phi lao động trong một đơn vị thời gian tăng lên. Số lượng sản phẩm làm ra trên
một đơn vị thời gian nhiều hơn trước nhưng thời gian lao động hao phí cho một
đơn vị sản phẩm không đổi, lượng giá trị của một sản phẩm không đổi, số lượng
sản phẩm trội hơn so với trước chính là do tăng cường độ lao động mà có cho nên
tăng cường độ lao động đồng nghĩa với kéo dài thời gian lao động.
* Lao động giản đơn và lao động phức tạp
- Tham gia vào sản xuất hàng hoá với lao động có nhiều trình độ khác nhau và
người ta khái quát lên thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
- Lao động giản đơn là lao động khơng địi hỏi phải đào tạo chun mơn, khơng
cần địi hỏi phải qua huấn luyện mà ai có sức lao động cũng có thể làm được. Cịn
lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải đào tạo chuyên môn, phải qua huấn
luyện mới làm được.

- Mối quan hệ giữa chúng
Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn cho nên trong cùng một đơn vị
thời gian lao động phức tạp tạo ra một lượng giá trị gấp nhiều lần so với lao động
giản đơn. Khi trao đổi hàng hoá trên thị trường, người ta quy các loại lao động
thành lao động giản đơn trung bình của xã hội và thông thường người ta lấy lao
động khai thác ra vàng và bạc là lao động giản đơn tư bản của xã hội.
II. THỰC TRẠNG VỀ SỨC CẠNH TRANH HÀNG HỐ Ở NƯỚC TA
2) Tình hình xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam những năm vừa qua.
Trong những năm vừa qua, nhờ chính sách đổi mới của đảng và nhà nước,
nền kinh tế nước ta đã tăng trưởmg mạnh đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhân dân
hướng từng bước ra xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Quá trình hội nhập, mở cửa và giao lưu với các nước trên khu vực và trên thế giới
đã tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu sản phẩm hàng hoá
7

7


của mình ra thị trường quốc tế, đánh dấu sự tăng trưởng và phát triển của toàn bộ
nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp sản xuất nói riêng.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của chính sách đổi mới là tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm thời kì 1986 - 2005 là 21,2% cao gần
gấp 2 lần tăng trưởng GDP. Nếu xuất khẩu bình quân 1 năm ở giai đoạn trước đổi
mới là 1,4 tỷ đô la (gấp gần16 lần)
Xuất khẩu của Việt Nam vượt qua ngưỡng 10 tỷ đô la vào năm 1999, trong khi
đó Hàn Quốc và Đài Loan vào năm 1978; Malaysia, Inđônêxia và Thái Lan là năm
1980. Hiện nay, trong khối ASEAN chúng ta đứng thứ 6 sau Philipine, kim ngạch
chiếm 0,3% so với tổng xuất khẩu của thế giới.
Những thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế của nhà nước cũng dần tạo thế
chủ động trong điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Việc tham

gia trực tiếp của nhà sản xuất vào quá trình tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong
nước và ngồi nước đã gắn bó chặt chẽ sản xuất với tiêu dùng, chất lượng sản
phẩm nâng lên rõ rệt, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế
biến sâu và tinh, giảm tỷ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Tuy hàng thơ hay mới sơ
chế cịn khá cao nhưng có thể nới xu hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến là rõ nét.
Qua các giai đoạn phát triển 5 năm: hàng thô tăng lên vào giai đoạn 1990-1995 ở
mức 74,6%, phản ánh việc Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới với sức phát
triển vô cùng mạnh mẽ, các sản phẩm của chúng ta không đủ sức cạnh tranh,chỉ
chủ yếu tập trung vào cung cấp các nhu cầu về nguyên, nhiên vật liệu dạng thô của
các nước trên thế giới.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 580,7
nghìn tỷ đồng (tính theo giá thực tế) tăng 20,9% so với năm trước và tăng trên 13%,
nếu loại trừ yếu tố giá, đây là mức tăng tương đối cao so với mức tăng trưởng,
chứng tỏ sức mua tăng và tiêu dùng của dân cư tăng lên. Trong tổng mức, kinh tế
8

8


nhà nước tăng 8,2%; kinh tế tập thể tăng 20,8%; kinh tế cá thể tăng 22,4%; kinh tế
tư nhân tăng 25%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi tăng 21,5%. Phân tích theo
ngành kinh tế, thương nghiệp tăng 19,9%; khách sạn, nhà hàng tăng 22,3%; dịch vụ
tăng 31,6% và du lịch lữ hành, chiếm 0,7% tổng mức nhưng tăng 30,5%.
Giá tiêu dùng tháng 12/2006 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 6,6% so
với tháng 12/2005, thấp hơn mức tăng trưởng và đạt mục tiêu về lạm phát mà
Quốc hội đã đề ra. Giá của tất cả các nhóm hàng hoá và dịch vụ trong tháng 12 đều
tăng so với cuối năm trước, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,9%, là nhân
tố chính đóng góp vào tăng giá tiêu dùng; các nhóm cịn lại tăng phổ biến từ 3,5%
đến 6,5%; riêng giá phân nhóm bưu chính, viễn thơng giảm 2,9%. Giá bình qn

năm 2006 tăng 7,5% so với năm trước, thấp hơn mức tăng của 2 năm liền trước (giá
bình quân năm 2005 tăng 8,3%, năm 2004 tăng 7,7%).
Giá vàng tháng 12/2006 đã tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 27,2% so
với cuối năm trước. Bình quân giá vàng năm 2006 tăng 36,6% so với năm 2005,
trong đó tăng mạnh ở các q II và III với các mức tăng tương ứng là 47,6% và
44,5%. Giá đô la Mỹ tháng 12/2006 không tăng so với giá tháng 11, nhưng tăng
1% so với cuối năm 2005. Bình qn giá đơ la Mỹ năm nay tăng 0,9% so với
năm ngối và khơng chênh lệch nhiều giữa các quí, mức giao động chỉ từ 0,9%
tới 1,1%. Như vậy, nếu quan sát từ năm 2003 đến nay, giá đô la Mỹ tăng thấp
đáng kể so với giá vàng và tăng thấp so với mức tăng giá tiêu dùng.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu năm 2006 ước tính đạt 84 tỷ
USD, tăng 21% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 22,1%; nhập khẩu tăng
20,1%; nhập siêu là 4,8 tỷ USD, bằng 12,1% kim ngạch xuất khẩu (các con số
tương ứng của năm trước là 4,54 tỷ USD và 14%).
Xuất khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 39,6 tỷ USD và đã vượt 4,9% so
với kế hoạch cả năm, trong đó khu vực kinh tế trong 16,7 tỷ USD, tăng 20,5% so
với năm trước, đóng góp 39,8% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư
9
9


nước ngồi khơng kể dầu thơ 14,5 tỷ USD, tăng 30,1%, đóng góp 46,9% và dầu
thơ 8,3 tỷ USD, tăng 12,9%, đóng góp 13,3%. Năm nay, có thêm cao su và cà phê
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch
từ 1 tỷ USD trở lên là 9, trong đó 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt
may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3,3 tỷ USD.
Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm nay tăng mạnh, do phát triển nông
nghiệp đúng hướng, đồng thời giá thế giới tăng cao, trong đó kim ngạch cao su
tăng cao nhất (+58,3%); cà phê tăng tới 49,9% (hoàn toàn do được lợi về giá);
riêng gạo giảm cả kim ngạch và lượng, chủ yếu do nguồn cung khơng tăng.

Nhập khẩu hàng hố năm 2006 ước tính đạt 44,41 tỷ USD, vượt 4,5% so với kế
hoạch năm 2006 và tăng 20,1% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong
nước đạt 27,99 tỷ USD, tăng 19,9% và đóng góp 62,6% vào mức tăng chung; khu
vực có vốn đầu tư nước ngồi 16,42 tỷ USD, tăng 20,4%, đóng góp 37,4%.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị và hầu hết các vật tư, nguyên liệu cho sản xuất
trong nước đều tăng so với năm trước, đặc biệt là nhiều loại vật tư chủ yếu (trừ xăng
dầu, phôi thép và phân u rê) có lượng nhập khẩu tăng khá. Nhập khẩu máy móc,
thiết bị tăng 24,1%; xăng dầu 5,8 tỷ USD, tăng 16,4% (nhưng lượng nhập giảm
3,8%); phân bón tăng 5,1%; chất dẻo tăng 26,8%; hoá chất 18,6%; giấy các loại
tăng 30,5%; vải tăng 23,1%; riêng nguyên phụ liệu dệt, may, da giảm 14,1%, và
đang có xu hướng giảm do tăng sản xuất thay thế ở trong nước; sắt, thép 2,9 tỷ
USD, giảm 0,9%, nhưng lượng tăng 1,8% nhờ giá giảm.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,1 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm
2005, trong đó một số dịch vụ có tỷ trọng cao đạt mức tăng trên 20% như: du lịch,
tăng 23,9%; vận tải hàng không tăng 35,5%; dịch vụ hàng hải tăng 27,5%; dịch vụ
tài chính tăng 22,7%.

10

10


Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,12 tỷ USD, tăng 14,3% so với
năm trước, trong đó du lịch tăng 16,7% và cước phí vận tải, bảo hiểm (cif) chiếm
33,7%, tăng 20,1%. Nhập siêu dịch vụ năm 2006 chỉ còn khoảng 22 triệu USD
(năm trước 220 triệu USD).
Vận chuyển hàng hố năm 2006 ước tính đạt 350,4 triệu tấn và 88,6 tỷ
tấn.km, tăng 8,1% về tấn và tăng 9,3% về tấn.km so với năm trước. Trong đó, vận
tải cả trung ương, địa phương cũng như vận chuyển trên cả tuyến đường trong
nước, quốc tế và các ngành đường đều tăng cả về tấn hàng hoá và tấn.km

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương quý I năm 2007 ước tính đạt 22,3 tỷ
USD tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17,9% và
nhập khẩu tăng 33,6%. Do tốc độ nhập khẩu hàng hoá quý I năm nay cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu nên nhập siêu tăng mạnh so với cùng kỳ năm
trước, đạt 1,32 tỷ USD, bằng 12,5% giá trị xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hố q I/2007 ước tính đạt 10,48 tỷ USD, tăng 17,9% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,62 tỷ USD, tăng
23,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi không kể dầu thô đạt 4,13 tỷ USD, tăng
31,7% và dầu thô 1,73 tỷ USD, giảm 14,6%.
Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam 2 tháng đầu năm vẫn là EU, Mỹ,
Nhật Bản và Trung Quốc, trong đó thị trường EU và Mỹ chiếm khoảng 20% thị
phần và có tốc độ tăng cao; thị trường Nhật Bản đạt trên 800 triệu USD, tăng chậm
(+ 1,6%) và thị trường Trung Quốc giảm 9,8% so với 2 tháng đầu năm ngoái. Thị
trường Mỹ tiếp tục là nơi tiêu thụ chính các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như
hàng dệt may, giầy dép, gỗ và sản phẩm gỗ.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu (trừ dầu thô, gạo, cao su) đều tăng
về kim ngạch xuất khẩu trong quý I năm nay, trong đó nhiều mặt hàng nơng sản
được lợi do tăng giá như gạo, cà phê, cao su, hạt điều và tiêu. Đáng chú ý ba mặt
11

11


hàng xuất khẩu đó là dầu thơ, gạo và cao su giảm cả kim ngạch và khối lượng xuất
khẩu.
Xuất khẩu dầu thơ q I năm 2007 ước tính đạt 3,9 triệu tấn, giảm 7,9% so
với quý I năm trước, kim ngạch giảm 14,6% (do giá giảm khoảng 35 USD/tấn đã
làm kim ngạch giảm 137 triệu USD); hàng dệt may 1,65 tỷ USD tăng 30,1%, giầy
dép 918 triệu USD, tăng 13,9%; cà phê 695 triệu USD, tăng 133,6%, thuỷ sản 678
triệu USD, tăng 11,9%; sản phẩm gỗ 584 triệu USD, tăng 25%; điện tử máy tính

441 triệu USD, tăng 16,9%; hàng thủ công mỹ nghệ 190 triệu USD, tăng 25,8%;
riêng xe đạp và phụ tùng giảm 39,4%.
Xuất khẩu các mặt hàng nơng sản và nơng sản chế biến ước tính đạt trên 1,4
tỷ USD, tăng 25% so với quý I năm trước, đóng góp 3,2 điểm % vào tăng kim
ngạch xuất khẩu chung, trong đó gạo chỉ đạt 56,7% lượng xuất khẩu và 66,8% kim
ngạch của quý I năm trước, mặc dù giá tăng 17,8%, nhưng do nguồn cung thấp; cà
phê 695 triệu USD, tăng 133,6%; hạt điều 107 triệu USD, tăng 10,6%; rau quả
tăng 13,9%; hạt tiêu tăng 7,8%.
Nhập khẩu hàng hố q I/2007 ước tính đạt 11,8 tỷ USD tăng 33,6% so với
quý I năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước 7,6 tỷ USD, tăng 39,8%;
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi tăng 23,9%. Nhập khẩu hàng hoá quý I năm nay
tăng gần 3 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do nhập khẩu máy móc,
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và các nguyên, nhiên vật liệu quan trọng do sản xuất
trong nước đều tăng cả về kim ngạch và lượng nhập khẩu; giá nhập khẩu bình
quân quý I của nhiều nguyên, nhiên vật liệu không tăng đột biến như quý I năm
trước. Mặt khác, tốc độ tăng nhập khẩu quý I năm 2006 chỉ tăng 1,9%.
Nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng quý I/2007 ước tính đạt 2,2
tỷ USD, tăng 66,1% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu 1,4 tỷ USD, tăng 13,6%;
sắt thép 842 triệu USD, tăng 69,3% (phôi thép tăng 65,9%); vải 712 triệu USD
tăng 22%; chất dẻo 499 triệu USD, tăng 26,7%; hoá chất 289 triệu USD tăng
12

12


22,7%; sản phẩm hoá chất: 266 triệu USD tăng 18,7%... Nhóm các mặt hàng giảm
là nguyên, phụ liệu dệt, may da kim ngạch 393 triệu USD, giảm 12,7%; ô tô 134
triệu USD, giảm 9,7% (ô tô nguyên chiếc 55 triệu USD, giảm 4,7%); sữa và các
sản phẩm sữa 69 triệu USD, giảm 11,5%.
Vận chuyển hàng hố q I/2007 ước tính đạt 90,5 triệu tấn và 22,8 tỷ

tấn.km, tăng 7,8% về số tấn và tăng 7% về số tấn.km so với quý I năm trước. Vận
chuyển hàng hoá ở các ngành đều tăng cả về khối lượng vận chuyển và luân
chuyển (ngoại trừ khối lượng luân chuyển của đường hàng không): vận chuyển
hàng hoá bằng đường bộ tăng 8,8% về tấn và tăng 9,1% về tấn.km; tương tự
đường sông tăng 5,9% và tăng 6%; đường biển tăng 5,5% và tăng 6,7%; đường sắt
tăng 4,4% và tăng 9,7%; đường hàng không tăng 8,1% và giảm 3,4%.
Trong quý I năm nay vận chuyển hàng hố đã có những tiến bộ, đáp ứng
được nhu cầu của sản xuất kinh doanh
3) Đánh giá chung về hàng hố Việt Nam trên thị trường thế giới
Q trình xâm nhập thị trường thế giới của hàng Việt Nam trong những năm
qua đã đạt được những kết quả đáng kể khẳng định được sự phát triển của các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước. Chứng tỏ chất lượng hàng việt nam
khơng thua kém gì các sản phẩm của các hãng sản xuất sản phẩm trên thế giới.
Khẳ năng cạnh tranh của hàng việt nam trên thị trường quốc tế cũng đủ sức đánh
bại một số sản phẩm cùng loại. Một số sản phẩm đặc trưng cho thế mạnh xuất
khẩu của việt nam như: gạo, hạt tiêu, hãng thuỷ sản và một số các sản phẩm NĐK
khác luôn được người tiêu dùng trên toàn thế giới cũng như thị trường thế giới
chấp nhận và luôn giữ vững được tỷ phần thị trường quốc tế, chứng minh được ưu
thế cạnh tranh hơn hẳn các sản phẩm cùng loại do các hãng thuộc các nước khảc
trên thế giới sản xuất về chất lượng và giá cả.
Bên cạnh các sản phẩm xuất khẩu thế mạnh trên, cịn một số hàng hố xuất khẩu
vào thị trường quốc tế còn thua kém khả năng cạnh tranh so với các sản phẩm
13

13


cùng loại như: cà phê và một số sản phẩm trong ngành công nghiệp, dệt may, gia
dấy, cao su…thế yếu về cạnh tranh của các hàng hoá trên là do cơng nghệ, dây
truyền sản xuất cịn nghèo nàn , lạc hậu, thua kem hẳn các nước trên thế giới. Để

nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hố thuộc lĩnh
vực cơng nghiệp cần đầu tư hơn nữa vào khâu sản xuất với công nghệ mới kỹ
thuật cao cho năng suất và chất lượng tốt.
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH HÀNG HOÁ VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Mục tiêu và phương hướng phát triển, xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam
và sự cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh.
Theo đánh giá của bộ tài chính mặc dù Việt Nam gia nhập hiệp định
CEPT/AFTA, nhưng từ năm 2003 trở đi là những năm khó khăn đối với các doanh
nghiệp trong nước để phải đối mặt với cơn lốc hàng hoá từ các nước trong khu vực
như: Thái Lan, Malayxia, Indonexia tràn vào thị trường nội địa.
Từ nhiều năm nay các nước nói trên đã có những bước tiếp cận thị trường Việt
Nam một cách rất bài bản.
Với mục tiêu mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của kinh tế đối ngoại, củng
cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi
để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn cơng nghệ từ bên ngồi. Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả thực hiện cam kết song phương và đa phương.
Bộ công nghiệp nước ta đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo nhiều vấn đề để nâng cao
khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập với thành phần là những doanh nghiệp
lớn. Nhìn chung các doanh nghiệp đều nhận thấy rõ cơ hội và thách thức do hội
nhập kinh tế mang lại. Hãy khoan nói đến chuyện xuất khẩu việc hàng hoá Việt
Nam đững vững trên thị trường trong nước đã là rất khó khăn. Khu mậu dịch tự do
Việt Nam – Trung Quốc đã hoạt động, Việt Nam đã ra nhập WTO. Thời gian
không chờ những ai xuất phát chậm.
14

14


Nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh của hàng

hoá, phát huy các thế mạnh và các lợi thế của các sản phẩm trong nước phục vụ
xuất khẩu, gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước trong lĩnh vực
sản xuất các loại sản phẩm hàng hoá.
Dưới sự điều hành và chỉ đạo của Chính Phủ, đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam
tham gia thương trường thế giới ngày càng đông. Bước chập chững này thấy bài
học về sự lựa chọn sản phẩm mà ta có lợi thế so sánh như gạo, thuỷ hải sản, dệt
may, da giầy, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều. Những mặt hàng nhỏ từ những cơ
sở nhỏ góp lại cũng đã cho một giá trị không thể xem thường như đồ gốm sứ, thủ
công mỹ nghệ, kim khí tiêu dùng, chế biến lương thực thực phẩm. Năm 2006 đã
đạt tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 39.6tỷ USD vượt 4.9% so với kế hoạch
cả năm. Trên cơ sở xác định mục tiêu, phương hướng phát triển xuất nhập khẩu
hàng hoá Việt Nam, đã đặt ra trong toàn bộ nền kinh tế nước ta bước vào một giai
đoạn mới đó là giai đoạn của hội nhập kinh tế và tăng trưởng. Tăng cường sự giao
lưu buôn bán với các nước trên thế giới, phát triển mạnh các doanh nghiệp hàng
hoá trong nước. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước
có điều kiện khẳng định mình, có cơ hội để đem các sản phẩm của mình gia nhập
thị trường quốc tế.
Sản phẩm của doanh nghiệp nào đó muốn có mặt trên thị trường quốc tế
phải có sức mạnh thị trường, sức mạnh cạnh tranh của hàng hố. Tính cạnh tranh
của hàng hóa thể hiện ở chất lượng, hình thức mẫu mã, bao bì đẹp, giá cả hợp lý
phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ưa chuộng và chấp nhận.
Doanh nghệp sản xuất sản phẩm luôn mong muốn đưa sản phẩm của mình lên tới
mức độ hồn thiện. Khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường lúc đó là rất lớn.
Chính vì vậy mà việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hố ln cần thiết
đối với các doanh nghiệp sản xuất.
15

15



2. Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường thế giới.
Chủ trương chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đây
trong nền kinh tế hàng hoá là một chủ trương, là một hướng đi đúng đắn của đảng
và nhà nước.
Nền kinh tế hàng hố là một mơi trường thuận lợi để phát triển hàng hoá
trong nước, tận dụng và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên đưa vào sản
xuất sản phẩm dịch vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, thực tế cho thấy so với chính mình
đã có sự tiến bộ. Tuy nhiên khoảng cách về trình độ phát triển năng lực quản lý,
cấp độ cơng nghệ của thế giới và khu vực ta còn kém xa, yếu về quy mô đã đành
nhưng quan trọng hơn là yếu về năng lực cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh của
hàng Việt Nam cần phải được liên tục nâng cao mới đảm bảo được ưu thế cũng
như vị trí của mình trên thị trường thế giới.
Đã đến lúc từng doanh nghiệp phải tự vươn lên nhằm đạt được lợi nhuận
cao và ổn định đối với thị phần trong nước, từng bước mạnh dạn đột phá và đặt
chân vững chắc vào thị trường thế giới.
2.1. Về phía doanh nghiệp.
2.1.1. Cần khai thác tốt những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế với tính độc đáo,
đậm sắc về chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên
thương trường.
Các sản phẩm đó là: gạo, cà phê, chè, cao su…
Các sản phẩm nuôi trồng như: tôm , cá basa, cá tra…
Khi đầu tư khai thác những sản phẩm này chúng ta đã có những thuận lợi nhất
định về điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu, sơng biển… Vì vậy năng suất sản
lượng tiềm năng là khá cao.
16

16



2.1.2. Phải có sự phân cơng chun mơn hố cao, để có sự lựa chọn sản phẩm mà
khơng cạnh tranh triệt tiêu nhau.
Hiện nay trong nền kinh tế nước ta có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một
loại hàng hoá hay sản xuất những sản phẩm tương tự nhau. Các doanh nghiệp này
không chỉ cần mở rộng sản xuất đa dạng các loại sản phẩm mà còn phải xác định
rõ đâu là sản phẩm chính của mình để đầu tư tập trung, tạo ra bước đột phá trong
loại mặt hàng đó, từ đó tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao có khả năng
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường ngày càng trở nên khó tính.
2.1.3. Phải đầu tư đổi mới nhanh thiết bị, công nghệ đi đôi với việc xây dựng và
thực hiện các chiến lược nghiên cứu triển khai để sản phẩm đạt chất lượng cao,
phù hợp với thị hiếu của khách hàng chất lượng của sản phẩm quyết định đến khả
năng cạnh tranh của sản phẩm.
Ngày nay khoa học công nghệ kỹ thuật tiến bộ và thay đổi rất nhanh, các nước
phát triển luôn thay đổi công nghệ của họ và chuyển giao những công nghệ lạc hậu
sang các nước kém phát triển. Đây là một trở ngại lớn trong q trình tiếp cận
cơng nghệ hiện đại để áp dụng vào sản xuất của nước ta. Để đạt được mục tiêu
trên, chúng ta cần đi tắt đón đường để có được những cơng nghệ mới nhất áp dụng
vào sản xuất. Bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế, chúng ta cũng phải đảm bảo
một điều: không thể để nước ta trở thành bãi thải công nghiệp của thế giới.
2.1.4. Phải coi đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành thạo công nghệ mới như là
một yếu tố quyết định để tăng sức cạnh tranh. Sản phẩm do đội ngũ công nhân
lành nghề, sản xuất luôn có chất lượng đảm bảo về mọi yêu cầu.
Khi đã có cơ sở vật chất cho sản xuất thì yếu tố con người trở thành khâu đột phá
quan trọng. Trình độ của người lao động có được nâng cao thì mới đáp ứng được
u cầu sử dụng máy móc cơng nghệ hiện đại, mới tạo được sản phẩm có chất
lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
17

17



Nguồn nhân lực thực tế luôn là một trong những yếu tố quyết định đến mức độ
phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế hàng hoá. Chất lượng nguồn nhân
lực phải được coi trọng và được đào tạo thơng qua việc tăng cường cập nhật
chương trình đào tạo hiện đại, nắm bắt được những công nghệ mới tăng cường
việc giao lưu đào tạo nghề với các nước khác. Có như vậy mới có thể thay đổi chất
lượng lao động trong nước và đó là yếu tố quan trọng làm tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam.
2.1.5. Để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá mỗi doanh nghiệp cần tập trung giải
quyết khâu quảng cáo, tiếp thị. Người tiêu dùng không thể biết đến và sử dụng một
loại sản phẩm nếu như sản phẩm đó dù tốt nhưng không tồn tại trong ý thức của
người tiều dùng.
Hiện nay đây là khâu yếu nhất.
Hoạt động tiếp thị quảng cáo sản phẩm được coi là một chiến lược trong kinh
doanh và trong việc gia nhập mở rộng thị trường.
2.2. Về phía quản lý vĩ mơ- phía nhà nước.
2.2.1. Điều cần thiết là cải thiện môi trường kinh doanh để ai cũng có thể kinh
doanh theo pháp luật một cách công khai thuận lợi và được hưởng các dịch vụ
công một cách dễ dàng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì cần nhất là mặt bằng sản xuất.
Nhà nước cần tạo điều kiện để doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất. Nhà nước cần
hướng doanh nghiệp vào khai thác các vùng ngun nhiên liệu có chi phí sản xuất
thấp, giá trị sản phẩm cao. Cần đẩy mạnh hợp tác giữa chính quyền các địa
phương với các doanh nghiệp. Có như vậy các doanh nghiệp mới có đầy đủ các
điều kiện khác để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần hỗ trợ một cách kịp thời và đúng mực về vốn để các doanh nghiệp
có vốn sản xuất.
18


18


Nhà nước cần cải tạo hệ thống thuế, nhất là thuế xuất nhập khẩu, để doanh nghiệp
có cơ hội giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hố của
mình.
2.2.2. Đặc biệt nhà nước cần tích cực hỗ trợ trong việc về nghiên cứu triển khai,
tiếp thị xuất khẩu và đào tạo nguồn lực con người.
Để triển khai tiếp thị đặc biệt là khi muốn đưa sản phẩm trong nước ra thị trường
quốc tế thì vai trị của nhà nước là vơ cùng quan trọng. Những hợp tác kinh tế
quốc tế cần được lót đường bởi các hoạt động chinh trị.
Trong việc phát triển nguồn nhân lực thì việc đào tạo con người rất cần sự hỗ trợ
tích cực từ phía nhà nước.
Chỉ có phát huy sức mạnh tổng hợp từ hai phía nhà nước và doanh nghiệp thì mới
tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Đó là một địi hỏi của nền kinh tế hàng
hố để chủ động nền kinh tế thắng lợi.
Tóm lại, có thể đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng hố
như sau:
* Về phía doanh nghiệp:
- Đầu tư, nhanh tróng đổi mới cơng nghệ, dây truyền sản xuất vào sản xuất sản
phẩm là mục tiêu chất lượng.
- Xây dựng các chiến lược nghiên cứu, xâm nhập thị trường thế giới, nghiên cứu
nhu cầu thị hiếu của thị trường xuất khẩu.
- Tập trung giải quyết khâu tiếp thị.
* Về phía nhà nước:
- Cải thiện mơi trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước có điều kiện
tập trung hàng hoá hướng ra thị trường xuất khẩu.
- Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, triển khai nhằm mục đích nâng
cao chất lượng sản phẩm.
19


19


- Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà nước và doanh nghiệp để tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm hàng Việt Nam.
3) KẾT LUẬN
Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước phát triển mạnh, đẩy mạnh q trình
xuất nhập khẩu hàng hố.
Những năm gần đây, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang các nước trên thế giới
tăng cao. Được thị trường thế giới ưa chuộng và chấp nhận. Một số hàng thế mạnh
xuất khẩu của Việt Nam như lúa gạo, hàng thuỷ sản, nông sản…luôn giữ được
chất lượng và ưu thế cạnh tranh của mình.Tuy nhiên trước tình hình kinh tế thế
giới hiện nay, tình trạng cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới của các nước
có sản phẩm xuất khẩu địi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá Việt Nam ở
trong nước có sản phẩm xuất khẩu địi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hàng hố
Việt Nam
ở trong nước khơng ngừng nâng cao chất lượng, uy tín và khả năng cạnh tranh
của sản phẩm do mình sản xuất.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên đặt chân vững chắc vào thị trường
thế giới.
Biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường thế giới địi hỏi phải có sự phát huy tổng hợp sức mạnh từ hai phía nhà
nước và doanh nghiệp. Chỉ có như vậy thì mới phát huy được khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Hà Nội, ngày 15-5-2007
Sinh viên
Vũ Thị Chung


20

20


21

21



×