Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đề tài triết học " TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN TRONG “TỒN TẠI VÀ HƯ VÔ” CỦA J.-P.SARTRE " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.1 KB, 14 trang )



Đề tài triết học

TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM CÁ
NHÂN TRONG “TỒN TẠI VÀ HƯ
VÔ” CỦA J P.SARTRE
TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN TRONG “TỒN TẠI VÀ HƯ VÔ”
CỦA J P.SARTRE

(Nhân kỷ niệm 65 năm xuất bản lần đầu tiên)
ĐỖ MINH HỢP(*)
“Tồn tại và hư vô” của J P.Sartre được công bố lần đầu tiên vào năm 1943 tại
Paris. Đây là tác phẩm không chỉ đánh dấu cột mốc quan trọng trong dòng
chảy của triết học hiện sinh, mà còn cho thấy rõ tư tưởng triết học hiện sinh độc
đáo của J P.Sartre. Trong bài viết này, tác giả tập trung luận giải quan niệm
của J P.Sartre về tự do với tư cách phương thức hiện hữu của tồn tại người và
duy nhất phù hợp với tồn tại người trong mối quan hệ không thể tách rời với
trách nhiệm - trách nhiệm đối với thế giới và đối với bản thân mình của con
người.
Vốn là người đại diện cho phong trào cánh tả vào những năm 60 của thế kỷ XX,
là người đã tuyên bố chủ nghĩa Mác là “triết học của thời đại chúng ta”, J
P.Sartre giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của triết học
phương Tây hiện đại. Đó chính là vì, trong tác phẩm Tồn tại và hư vô, ông đã
đặt ra vấn đề “tự do và trách nhiệm cá nhân” một cách căn bản, hòa nhịp với lý
tưởng chung của toàn bộ triết học phương Tây, bắt đầu từ thời cận đại, đặc biệt là
triết học Mác. Đây chính là vấn đề mà, khi bước sang một thiên niên kỷ mới, loài
người ngày càng ý thức rõ hơn và coi đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với
số phận tiếp theo của nền văn minh nhân loại, đối với sự sống của bản thân loài
người.
Tồn tại và hư vô của J P.Sartre được công bố lần đầu tiên vào năm 1943 tại


Paris dường như cùng một lúc với vở kịch hay nhất của ông là Ruồi. Tác phẩm
này không chỉ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong dòng chảy của triết học
hiện sinh, mà còn cho thấy rõ tư tưởng triết học hiện sinh độc đáo của Sartre.
Mặc dù, cấu trúc về nội dung chung của Tồn tại và hư vô có rất nhiều điểm
tương đồng với Tồn tại và thời gian của M.Heidegger, song cặp khái niệm trung
tâm ở hai triết gia này lại khác nhau căn bản - “Tôi tồn tại ở đây” (“Dasein”)
của Heidegger và “Tồn tại cho mình” (“L’être pour-soi”) của Sartre. Sự khác
nhau này là rất quan trọng, vì nó cho thấy Sartre nhấn mạnh nhiều hơn đến tính
tích cực nội tâm của chủ thể.
Tính tích cực nội tâm này bắt nguồn từ chính sự đặc thù của tồn tại người (theo
thuật ngữ của Sartre là “tồn tại cho mình”) mà, đến lượt mình, nó lại làm nảy
sinh ra các vấn đề thuần tuý thiên về con người và hơn nữa, nó còn cho thấy sự
xuất hiện của một kiểu tồn tại đặc biệt - “tồn tại người” với tư cách một sự kiện
tuyệt đối, không thể giải thích được về mặt nguồn gốc lịch sử. Tính tuyệt đối và
tính đặc thù của kiểu tồn tại này thể hiện ra ở chỗ, chỉ có sự xuất hiện của nó
mới buộc “tồn tại tự nó”, lần đầu tiên, phải tập hợp lại dưới dạng thế giới, một
thế giới hiện hữu, hiện diện chỉ nhờ “tồn tại cho mình” với tư cách “hư vô”.
Sartre giải thích rõ rằng, không nên hiểu sự xuất hiện ấy của thế giới là sự sáng
tạo ra thế giới từ hư vô (thuyết tạo hoá). Tồn tại luôn hiện diện, nó không được
sáng tạo ra và con người cũng không thể tiêu diệt được nó. Song, triết học có
nhiệm vụ là phải làm sáng tỏ nghĩa của tồn tại. Sứ mệnh, công lao của triết học
hiện sinh, theo Sartre, là chứng minh tham vọng chính đáng của triết học - đặt ra
vấn đề về nghĩa (mục đích) của tồn tại và làm sáng tỏ nghĩa đó. “Bản thể luận
mới” của triết học hiện sinh chỉ có thể làm được điều đó nhờ phát hiện ra một
tồn tại hoàn toàn đặc biệt, làm sáng tỏ và mô tả nó bằng các phương pháp cũng
hoàn toàn đặc biệt (hiện tượng học). Kết luận được Sartre rút ra từ cách tiếp cận
như vậy là quan niệm về tồn tại người như “hư vô”(1).
Với tư cách thực chất của tồn tại người, “hư vô” được Sartre mô tả trước hết là
sự vượt ra khỏi quyền lực của quyết định luận phổ biến, là sự chạy trốn khỏi
“trật tự nhân quả của thế giới”. Theo Sartre, đặt ra vấn đề về thế giới có nghĩa là

tránh xa thế giới, là vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, là đứng ở bên ngoài nó. Tồn
tại người tạo ra “hư vô” trong thế giới nhờ bản thân sự hiện diện của nó, còn
“hư vô” thì làm cho tồn tại người trở nên khác biệt với toàn bộ thế giới còn lại
và trở nên “bất khả tri”, theo Sartre, - đó chính là tự do.
Với Sartre, tự do không chỉ là phương thức hiện hữu, mà hơn nữa, còn là phương
thức duy nhất phù hợp với tồn tại người(2). Nói cách khác, với Sartre, thuật ngữ
“hư vô” được sử dụng để chỉ khả năng tự do sáng tạo ra bản thân mình của con
người nhờ năng lực ý thức - cái duy nhất vốn có ở con người. Rằng, khi ý thức
được sự khác biệt của mình với thế giới và vốn dĩ là một phương thức tồn tại độc
đáo, là “tồn tại cho mình”, “hư vô” và “tồn tại người”, về thực chất, là tự do. Sartre
coi đó là nghĩa cơ bản của tồn tại người và của tính chủ quan con người.
Với quan niệm này, Sartre còn nhấn mạnh sự khác biệt của tồn tại người với thế
giới, sự không phụ thuộc của nó vào thế giới thông qua một đặc trưng khác của
ý thức - sự định hướng vào thế giới. Theo ông, ý thức luôn thể hiện ra như là cái
có một quan hệ xác định với thế giới và do vậy, mọi ý thức đều là “ý thức có lập
trường” theo nghĩa đó; còn sự khác biệt căn bản của tồn tại người với thế giới
trước hết thể hiện ra ở chỗ nó là “hư vô”. Ý thức có thể đặt ra vấn đề về thế giới
nhờ vượt ra khỏi giới hạn của mình và lại đi vào “hư vô”, tức là đi vào cái
không có trong thế giới. Tính quy định duy nhất của ý thức bởi tồn tại - đó là trở
nên khác với tồn tại. Nhưng qua đó, ý thức bao giờ cũng là một cái khác với bản
thân mình như một phương thức tồn tại xác định, tức là phương thức đã bộc lộ
ra, đã hình thành, đã được lựa chọn. Do vậy, một trong các tính quy định cơ bản
của ý thức với tư cách một phương thức “tồn tại cho mình”, tồn tại người là ở
chỗ, nó “không phải là tồn tại hiện có của nó”(3). Điều đó có nghĩa là, ý thức
luôn nằm ở bên ngoài nó, thường xuyên siêu vượt hóa. Nói cách khác, siêu vượt
hóa là bản chất của ý thức và của tồn tại người. Con người chỉ có được tồn tại
đích thực người khi nó không dừng lại, không thỏa mãn với bản thân mình, với
những cái mình đã đạt được; nó cần phải thường xuyên vượt lên trên chính
mình, phải thường xuyên sáng tạo ra những giá trị mới. Đây là thực chất của cái
gọi là “hư vô hóa hư vô”, sáng tạo nhờ xuất phát từ năng lực tự do suy nghĩ và

hành động. Điều đó cũng có nghĩa là siêu vượt hóa không được định trước cho
con người, mà là con người không ngừng vượt ra khỏi giới hạn của mình, tách
mình ra khỏi những cái đã và đang hiện hữu, và liên tục hướng tới cái khác. Gắn
sự siêu vượt hoá với tồn tại xác định, Sartre cho rằng, khi tự dự phóng mình và
cố hiện thực hoá dự phóng đó, “tồn tại cho mình” không tuân thủ một tiêu chuẩn
khách quan nào đó có sẵn, ở bên ngoài nó, bởi chính chúng là những vật cản thủ
tiêu tự do của con người, biến con người thành “vật”. Con người không tạo ra và
cũng không thể tạo ra một chuẩn mực hành động nào, nó chỉ bộc lộ cấu trúc và dự
phóng cơ bản của tồn tại người - tồn tại khác với thế giới, không phụ thuộc vào
thế giới.
Từ đó, Sartre cho rằng, bản chất nhân văn của chủ nghĩa hiện sinh là ở chỗ nó
khẳng định chỉ có con người mới có khả năng vượt lên trên thế giới, vượt ra
khỏi giới hạn của mình để khẳng định chân lý thuần tuý mang tính người của
mình. Rằng, chỉ có con người mới có thể quyết định lấp đầy cái gì vào “hư vô”
của tồn tại người, vào “lỗ hổng của tồn tại”. Bức tranh về thế giới, (thế giới và
tồn tại nói chung) chỉ phụ thuộc vào con người (con người là kẻ bảo vệ nghĩa và
chân lý của tồn tại). Với quan điểm này, Sartre kết luận: con người hoàn toàn
chịu trách nhiệm về thế giới do nó tạo ra (thế giới người, xã hội người, thế giới
văn hóa và môi trường sống của con người) và về tất cả những gì diễn ra trong
thế giới ấy. Rằng, con người luôn hướng tới sự tự quyết, luôn cố gắng vượt lên
trên chính mình, song con người lại không thể đạt tới lý tưởng đó và do vậy, nó
luôn cảm thấy bất hạnh. Sở dĩ như vậy là vì, khi thực hiện dự phóng của mình,
con người đã đánh mất tự do và “tồn tại cho mình” - tồn tại với tư cách là sự
phủ định, là “hư vô”.
Coi phủ định là cấu trúc phát sinh của tồn tại người, đóng vai trò quan trọng
hàng đầu đối với sự siêu vượt hoá, Sartre cho rằng, tồn tại người bao giờ cũng là
vấn đề, là đặt vấn đề về tồn tại, là vạch trần, bác bỏ, hư vô hóa cái thực tại đang
phong toả nó và chính bản thân nó, tức là để có được tồn tại đích thực, phù hợp
với bản chất - tự do của mình. Do vậy, theo ông, con người luôn có sứ mệnh sử
dụng năng lực ý thức của mình để tự chất vấn mình, tìm kiếm những giá trị mới

và bộc lộ tự do sáng tạo của mình. Rằng, siêu vượt hoá là lối thoát của con
người ra khỏi giới hạn của cái hiện có và tự quy định mình thông qua cái vẫn
chưa hiện diện. Do vậy, phủ định là thành tố cấu trúc cơ bản của tồn tại người,
mức độ phù hợp với nó là tiêu chuẩn cơ bản về tính đích thực của tồn tại người.
Song, việc thoát ra khỏi giới hạn của mình cũng đồng thời là lối thoát dẫn đến
những khả năng vô hạn, nhưng lại là bất định, không có các tiêu chuẩn khách
quan và lịch sử cũng không thể đưa ra được một sự chỉ dẫn nào, tất cả đều phụ
thuộc vào chính sự lựa chọn của con người(4).
Với luận điểm này, Sartre không hẳn đề cao tự do sáng tạo ra nhân tính của con
người, mà chủ yếu nhấn mạnh trách nhiệm đối với thế giới, đối với chính mình
của con người với tư cách kẻ sáng tạo ra thế giới người (“tự nhiên thứ hai”, “thế
giới văn hóa” - môi sinh duy nhất của con người do con người sáng tạo ra).
Song, Sartre không dừng lại ở đây, mà còn đi xa hơn nữa. Theo ông, con người
bao giờ cũng lựa chọn một cách có ý thức, biết lựa chọn cái gì mà nó cần và tự
mình lựa chọn, không có gì ở bên trong hay ở bên ngoài nó bảo đảm nó sẽ lựa
chọn cái gì.
Tuy nhiên, theo Sartre, điều đó không có nghĩa là con người tự ý hành động mà
không có nguyên nhân nào. Điều đó chỉ có nghĩa là, mọi khả năng đều có cơ sở
của nó và khi thực hiện một lựa chọn nào đó, con người đều có thể chỉ ra cơ sở
ấy và qua đó, giải thích được điều đã lựa chọn. Nhưng tất cả những gì mà sau
đó, chúng ta coi là nguyên nhân của hành vi này hay khác, theo Sartre, đều là
không quan trọng đối với cấu trúc của tồn tại người. Con người chỉ che giấu
người khác và che giấu chính mình rằng, hành vi lựa chọn là tuyệt đối tự do.
Với quan điểm này, Sartre đã phê phán quan niệm của Freud về cái vô thức với
tư cách cơ sở hoạt động tinh thần của con người. Sartre phủ định mọi nguyên
nhân (tâm - sinh lý, kinh tế, chính trị, v.v.) của hành vi con người. Theo ông, tồn
tại người luôn mở rộng cho mọi khả năng lựa chọn của con người; ở đây, toàn
bộ kinh nghiệm quá khứ không có vai trò quyết định.
Như vậy, có thể nói, lập trường của Sartre là nhất quán trong việc luận giải ý đồ
mà Husserl đã đưa ra - làm sáng tỏ cấu trúc bản thể luận của tồn tại người và

đưa các hình thức biểu hiện cụ thể của nó (các quy định tâm - sinh lý, lịch sử -
xã hội, các quan điểm chính trị, đạo đức, khoa học tự nhiên, v.v.) ra khỏi sự
phân tích bản thể luận. Theo Sartre, những tìm tòi bản thể luận này luôn dừng
lại trước vấn đề siêu hình học và đạo đức học; nhưng sau bản thể luận, dẫu sao
vẫn cứ phải xác định thiện - ác là gì, bởi tự do và trách nhiệm cá nhân là những
đặc trưng quan trọng bậc nhất của tồn tại người, và chúng cần phải được xác
định dựa trên một quan niệm nào đó về thiện - ác. Và, Sartre đã đặt ra hàng loạt
vấn đề có liên quan tới đề tài này ở cuối tác phẩm Tồn tại và hư vô.
Vấn đề bản thể luận của tự do được Sartre trình bày trong Tồn tại và hư vô có
nhiều điểm tương đồng với quan điểm của Heidegger trong Tồn tại và thời gian.
Cả hai nhà triết học này đều cố gắng đưa “tự do” vào hệ thống những khái niệm
cơ bản của bản thể luận. Các ông coi tự do, theo một nghĩa nào đó, là cái được
“diễn dịch” ra từ tính tích cực ý hướng của chủ thể siêu nghiệm, bởi sự kiến tạo
thế giới đối tượng siêu vượt trong các hành vi ý hướng chính là tính tích cực tự
do của chủ thể. Song, khác với Heidegger, Sartre có thiên hướng lý giải tự do
như một đặc trưng bản thể cơ bản, sâu xa hơn cơ sở của tính tích cực người.
Theo ông, “điều kiện đầu tiên của tính tích cực là tự do”(5). Với quan điểm này,
mặc dù không phủ nhận tính tích cực là một đặc điểm của giới tự nhiên; song,
theo Sartre, tính tích cực này khác về nguyên tắc so với tính tích cực gắn liền
với tự do. Bởi lẽ, thế giới của tính tích cực, tổng thể những hành vi là một thực
tại đặc biệt. Nó giả định cần phải có sự hiện diện của “những động cơ” mà, xét
về một phương diện nào đó, có thể chế định việc xác định các nhiêm vụ và lựa
chọn mục đích, mặc dù “những động cơ” này không phải là nguyên nhân của
hành vi, chúng chỉ là một bộ phận cấu thành của hành vi. Mọi hành vi đều chịu
sự quy định của mục đích và động cơ và do vậy, “hành vi là sự biểu hiện của tự
do”(6).
Sartre cho rằng, “định nghĩa” tự do là rất khó, vì nó “không có bản chất”, không
thể được khuôn về một tính tất yếu nào đó. Trong tự do, “sự hiện sinh có trước
bản chất và quy định bản chất”(7). Tự do chỉ hiện diện ở tình thái đơn nhất.
Điều này có nghĩa là, tự do không phải là cái giống nhau ở những người khác

nhau; thậm chí, nó cũng không phải là một trong các tình huống tồn tại khác ở
một con người. Hơn nữa, mọi thử nghiệm chuyển phương thức hành động (sở
thích, sự lựa chọn) vào bối cảnh khác còn có nghĩa là đánh mất tự do. Nói cách
khác, tự do là cái quyết định lối ứng xử trong một tình huống và cố gắng lặp lại
nó trong tình huống khác; hành động một cách “tự động”, tức là hoàn toàn
không tự do. Tự do trở nên hiển nhiên trong các hành vi “hư vô hoá”, biến
những gì không phải là đối tượng ý hướng thành hư vô. “Tự do không phải là
cái gì khác ngoài sự hư vô hoá đó”; còn sự “hư vô hoá” trong tự do không có cơ
sở nào khác ngoài bản thân tự do. Trong trường hợp ngược lại, “chúng ta sẽ
không có tự do, chúng ta không còn là những người tự do”(8), “tự do bị bóp
nghẹt dưới sức nặng của tồn tại”. Tự do không có cơ sở, cũng như con người
vốn dĩ đã là tự do. Con người và chỉ có con người mới có quyền tự do quyết
định mình sẽ trở thành người nào và như thế nào. Con người xuất phát từ lương
tâm, từ thế giới nội tâm của mình để tự quyết định việc đó, chứ không phải do
người khác, cái khác quyết định thay cho mình; con người quyết định mà không
chịu sự chi phối của những thiên kiến (“tâm thế nhân tạo”). Con người không tự
do là cái thực tại, cái hiện hữu giống như khách thể; nó hiện hữu nhưng không
hành động với tư cách con người theo nghĩa hiện sinh. Do vậy, tồn tại với tư
cách tự do nhất thiết phải phủ định tồn tại hiện có.
Cố gắng phát hiện ra tính đặc thù của con người và thế giới người, chủ nghĩa
hiện sinh nói chung luôn bác bỏ quan điểm “đa thành phần” về con người, bác
bỏ quan niệm coi con người như một thực thể được quyết định bởi dục vọng,
hay tự do. Điều này sẽ có nghĩa có thể tồn tại một nửa là tự do, một nửa là nô lệ.
Nhưng, với Sartre, “con người hoặc là tự do, hoặc là không tự do mãi mãi và
hoàn toàn”(9). Theo Sartre, không nên lý giải tự do là “sự kiện của ý thức” theo
lối tâm lý học. Tự do là toàn vẹn, là “tổng thể”. Tự do mang tính tổng thể, bởi
nó có thể hợp nhất động cơ, mục đích, cái khách quan của một tình huống nào
đó với cái chủ quan, cảm xúc, nguyện vọng, dục vọng, với những cái cho phép
con người thực hiện hành vi ý hướng. Tuy nhiên, “cái khách quan” trong trường
hợp này, theo Sartre, cần phải hiểu là mọi mục đích và hành vi đều được tạo ra

một cách tự do trong “dự phóng” của chủ thể hành vi. Rằng, không nên lẫn lộn
tự do với thói đỏng đảnh và thói tuỳ tiện như trong quan niệm quyết định luận
về thế giới, bởi “thế giới của tự do” không đồng nhất với “thế giới vật tự nó”.
Con người là tự do, vì nó không bị “thế giới vật tự nó” cũng như các dục vọng
quyết định. Do vậy, tự do hoàn toàn không phải là tính không thể tiên đoán được
của hành vi và nguyện vọng con người. Tự do thể hiện ở việc tìm kiếm bản thân
mình, chính xác hơn là ở việc lựa chọn bản thân mình (tính nhất thể của mình) và
qua đó, ở việc lựa chọn thế giới đối tượng của mình như một “phát hiện”. Nhưng,
sự lựa chọn, nếu là lựa chọn đích thực, thì đó là sự lựa chọn vô điều kiện! Song,
mọi sự lựa chọn một cách tự do đều luôn vấp phải những trở ngại hay những hạn
chế nào đó. Hơn nữa, chính sự hiện diện những trở ngại hay hạn chế đối với tự do
đã làm cho tự do trở nên hiển nhiên! Trở thành người tự do không có nghĩa là có
được tất cả những gì mong muốn; đó chỉ là ở vào tâm trạng mong muốn chính cái
mà mình ưa thích. “Thành công hoàn toàn không quan trọng đối với tự do”(10).
Do vậy, định nghĩa triết học duy nhất về tự do - đó là sự tự lựa chọn.
Theo Sartre, chúng ta là những cá nhân, vì chúng ta thực hiện sự lựa chọn của
mình và chỉ của mình; “chúng ta là tự do đang tiến hành lựa chọn, nhưng chúng
ta không lựa chọn tồn tại là người tự do, chúng ta buộc phải có tự do…, bị
quẳng vào tự do”(11). Rằng, tự do hoàn toàn không giống với sự lựa chọn ngẫu
nhiên, không giống như trò chơi sổ xố. “Tự do” theo kiểu đó không là gì cả,
ngoài một cái gì đó “tự nó”. Tự do “cho nó” - đó là sự chiếu sáng của tồn tại hay
là “bước nhảy trong tồn tại”, là thời điểm quyết định. Cuộc sống của con người
tự do chỉ là sự lựa chọn bản thân mình, là chuỗi những sự đột phá trong tồn tại
được thực hiện cùng với mỗi hành vi lựa chọn.
Tồn tại tự do - đó là tồn tại trong tình huống; còn tình huống thì chủ yếu là động
cơ: động cơ tấn công hay phòng thủ. Tình huống tự nó là sản phẩm của sự tương
tác giữa “tồn tại cho mình” và “tồn tại tự nó”, giữa hoàn cảnh và tự do. Sống
trong tình huống có nghĩa là sống có tính người theo nghĩa đích thực của từ này,
đó là thực tại người. “Không có tự do theo cách nào khác, ngoài cách trong tình
huống; không có tình huống theo cách nào khác, ngoài thông qua tự do”(12).

Theo Sartre, tự do không thể tách rời trách nhiệm. “Vốn có thiên mệnh phải trở
thành tự do, con người mang toàn bộ sức nặng của thế giới trên đôi vai mình.
Con người chịu trách nhiệm về thế giới và về bản thân mình, và đó là phương
thức tồn tại của nó”(13). Do cái Ngã chỉ có nghĩa là những “dự phóng của Tôi”,
nên trách nhiệm cũng là cái tuyệt đối như tự do: tất cả những gì xảy ra với Tôi
đều là của Tôi! Tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những sự lựa chọn của Tôi.
Song, Tôi không thể chịu trách nhiệm về sự ra đời của Tôi, nghĩa là, Tôi chỉ
không phải chịu trách nhiệm về trách nhiệm của tôi! Sự tồn tại của Tôi không có
căn cứ. Tôi chỉ đơn giản là bị “quẳng vào” thế giới; nhưng sau đó và cùng với
đó, Tôi bắt đầu phải chịu trách nhiệm về bản thân; Tôi tự do và có trách nhiệm,
khi vẫn không có căn cứ cho sự tồn tại của mình. Trách nhiệm ở đây là trách
nhiệm hiện sinh, chứ hoàn toàn không phải là trách nhiệm trước một người nào
đó, trước một cái gì đó. Với quan niệm này, Sartre đã chế nhạo tất cả những ai
có ý định từ bỏ giá trị của bản thân để tìm kiếm các căn cứ cho sự tồn tại của
mình và minh biện cho sự sống và cái chết của mình ở cái khác, tức là tồn tại bị
tha hoá, tồn tại không phải với tư cách “tồn tại tự nó”.
Thừa nhận con người là hữu hạn, hữu tử, song Sartre không vì thế mà bênh vực
những cái thủ tiêu sự sống và toàn bộ những giá trị của nó. Ông luôn gắn liền
hiện tại với tương lai, coi hiện tại là cái cần phải mở ra viễn cảnh cho tương lai.
Sự vô trách nhiệm đối với tương lai sẽ làm giảm giá trị của tự do. Con người
sống vô nghĩa là con người chỉ biết đề cao hiện tại. Chỉ có trách nhiệm đối với
tự do mới quy định trách nhiệm đối với cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Xét về
mặt triết học, tính nhất thời, tính hữu hạn không nằm ở phía trước, mà nằm ở
phía sau tự do và trách nhiệm.
Như vậy, có thể nói, Sartre hoàn toàn không bác bỏ giá trị cuộc sống. Sartre đề
cao tự do gắn với trách nhiệm đối với cuộc sống và cho rằng, không nên đồng
nhất tự do đích thực với tự do hình thức của kẻ đớn hèn. Lựa chọn cái hèn hạ,
con người đã tự hạn chế tự do của mình. Để tránh sự chế ngự của cái hèn hạ,
chúng ta cần phải phân cấp giá trị, phải kêu gọi con người phát hiện ra những
giá trị quan trọng, mở ra viễn cảnh cho tự do và sáng tạo. Mỗi người đều có thể

sáng tạo một cách phù hợp với những năng lực của mình, nhưng những hành vi
khác nhau lại có giá trị khác nhau, nếu nhìn từ góc độ tự do và trách nhiệm.
“Hành vi của những con người trung thực có mục đích tối hậu là tìm kiếm tự do
tự nó. Sáng tạo bao giờ cũng có, song cần phải xem xét nó có được thực hiện vì
tự do hay không”(14).
Theo Sartre, tự do và trách nhiệm là những phương diện hiện sinh quan trọng
nhất của con người. Xét về bản tính khởi thuỷ của con người, con người phải
gánh vác trách nhiệm. Tự do và trách nhiệm luôn đòi hỏi tình đoàn kết và thống
nhất giữa mọi người, bởi chúng có quan hệ không những với “tồn tại cho mình”,
mà còn với “tồn tại cho tha nhân”. Tự do và trách nhiệm còn được Sartre sử
dụng làm các tiêu chí xuất phát để xác định các phẩm chất đạo đức khác của con
người, như thiện, ác, lương tâm, trung thực, tội lỗi, hèn nhát, bổn phận. Với
Sartre, thiện là phương diện hiện sinh của tự do, là trách nhiệm về tự do. Ác là
sự từ bỏ thiện. Không trung thực là thông tin xuyên tạc về tình hình thực tế, là
định hướng chống lại các lý tưởng về tự do. Lương tâm là sự tự đánh giá của cá
nhân trên bình diện tính cấp thiết của nó đối với tự do. Tội lỗi là sự từ bỏ trách
nhiệm. Hèn nhát là sự che giấu tự do nhờ viện dẫn vào hoàn cảnh. Bổn phận là
phục tùng những giá trị mà bản thân mình đã lựa chọn.
Với những quan niệm đó, Sartre đã được coi là một biểu tượng cho lương tâm
của người Pháp vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, là “nhà triết học của thế
kỷ XX”. Với tư cách này, Sartre luôn lo lắng trước một thực tế phũ phàng là
không có ai dám gánh vác trách nhiệm đích thực về nền giáo dục đang suy
thoái, về sự tự làm trống rỗng tinh thần của con người và về việc triết học đang
đánh mất ý nghĩa của mình trong cuộc đấu tranh của con người vì bản tính đích
thực người. Lý giải vấn đề này, Sartre cho rằng, xuyên tạc tự do là nguyên nhân
dẫn tới mọi thất bại của con người hiện đại; khôi phục sự tự do lựa chọn cách
làm người và biết chịu trách nhiệm về lựa chọn ấy là con đường duy nhất dẫn
con người quay trở lại với bản tính khởi thuỷ đích thực của mình. Sartre coi đây
là mệnh lệnh đạo đức mang ý nghĩa thực sự cấp bách trong bối cảnh mà những
mối nguy hiểm chết người đang treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Với mệnh lệnh

này, Sartre đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự ý thức một cách tỉnh táo về bản thân
mình và hướng nỗ lực của mình vào tha nhân như một định hướng duy nhất phù
hợp với đạo lý làm người trong thời đại ngày nay.r

(*) Tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Xem: J P.Sartre. Tồn tại và hư vô. Mátxcơva, 1994, tr. 46-68.
(2) Xem: J P.Sartre. Sđd., tr. 100-108.
(3) J P.Sartre. Sđd., tr. 126.
(4) Xem: J P.Sartre. Sđd., tr. 145.
(5) J P.Sartre. Sđd.,,tr.508.
(6) J P.Sartre. Sđd., tr.513.
(7) J P.Sartre. Sđd., tr.513.
(8) J P.Sartre. Sđd., tr.515.
(9) J P.Sartre. Sđd., tr.516.
(10) J P.Sartre. Sđd., tr.563.
(11) J P.Sartre. Sđd., tr.565.
(12) J P.Sartre. Sđd., tr.569.
(13) J P.Sartre. Sđd., tr.639.
(14) J P.Sartre. Sđd., tr.340-34


×