A. MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ
đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung
Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát
minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra
nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng
như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học
Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân”
(người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà
nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho
mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc
đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục
nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng
và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn
với tên người sáng lập ra nó.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có
phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời
còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh
thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn
hoá.
Cũng bởi Nho giáo có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến nước ta, nên tìm
hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam ngày nay
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hoàn thiện bản thân, giúp lý giải
nhiều thắc mắc về lối sống, phong tục cũng như suy nghĩ của người Việt
Nam. Đó là lý do vì sao em chọn đề tài “Quan điểm chính trị, xã hội trong
triết học Nho Gia và vai trò của nó đến xã hội Việt Nam hiện tại.”
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Khái quát lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại.......................................3
1.1 Khái quát về đất nước Trung Hoa.......................................................3
1.1a- Địa lý :........................................................................................3
1.1b- Nhân chủng học: ........................................................................3
1.2 - Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học :....................4
1.3 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại :.........5
1.4 Các học thuyết có ảnh hưởng đến Nho giáo:......................................5
2. Những tư tưởng cơ bản trong triết học Nho giáo:..............................11
2.1 Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo:.........................................11
2.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo và tư tưởng chính trị xã hội:............14
2.2.1: Tư tưởng xã hội (đối với con người):.......................................14
3. Sự ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam:.............................19
3.1 Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.......................................19
3.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt
Nam ........................................................................................................21
3.2.1 Ảnh hưởng Tích cực :................................................................21
3.2.2 Ảnh hưởng Tiêu cực :................................................................23
3.3 Ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia đến xã hội Việt Nam hiện nay.....23
3.3.2 Ảnh hưởng Tích cực:.................................................................26
3.3.3 Thực trạng và Giải pháp, bài học:............................................28
KẾT LUẬN...........................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
............................................................................................................... 30
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
Nội dung
1. Khái quát lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại
1.1 Khái quát về đất nước Trung Hoa
1.1a- Địa lý :
Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ
Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như
Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh giá,
phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung Hoa
chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nước Trung
Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao nguyên,
bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi sông bao bọc
hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như Hoàng Hà,
Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên, khí hậu mà
có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn
minh, tư tưởng khác nhau.
1.1b- Nhân chủng học:
Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực chính như sau :
- Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục, săn
bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân tộc
kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
- Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng,
săn bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân
tộc này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu
sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức
toán học, khoa học tự nhiên.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
1.2 - Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học :
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN
kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất
Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến.
Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời
kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII
tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống.
Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn
chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi) sang
giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã làm
7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ Hoàng
- vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành nhà nước
phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu, đất đai
thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một tầng lớp
mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn dựa trên
cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự
tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ
đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó, một loạt
học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu
hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều
đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính
trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành
nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo
suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của
triết học, vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch
của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức.
1.3 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại :
a- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi
cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
b- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào nội
tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con
người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính
là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân
sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây
(hướng ngoại).
c- Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn
đề, coi trọng sự hài hòa trong xã hội.
d- Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là
gốc rễ của nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà
rời rạc thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn…
e- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần
đan xen lẫn nhau.
1.4 Các học thuyết có ảnh hưởng đến Nho giáo:
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành”
đã được lưu truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân
Thu - Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới
mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế
giới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
a- Thuyết Âm - Dương :
Tư tưởng triết học về Âm - Dương :
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu
tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau :
Âm và Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như
nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý
này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất.
Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên
khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái
cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý :
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì
Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái
cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương
- Thiếu Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn -
Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng
vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn
chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là
một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn,
Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác
giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư
tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b- Thuyết Ngũ hành :
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã
giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm
dương hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp
nhau mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là
lửa thì bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ
nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh
và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh,
tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp
của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng.
Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ
sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc
đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành
còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là
mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý
thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.
Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong
qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả
lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái.
Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng
bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác
thường.
Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó
và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý
tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong
chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này
gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc.
Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá
độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành
liên tục, tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị
sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc
thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới
đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó
sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như
nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy
khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ
nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng
chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế
cân bằng trongthiên nhiên.
Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ
nhìn hành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là
hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc
mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn
chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị.
c- Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo
thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau.
Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời.
Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả.
Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho
phần Dương.
Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho
phân Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm
gọi là Dương Nghi và Âm Nghi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9
Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn
Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên
trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu
Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì
thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta
có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm.
Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm,
Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương
thể hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong
Âm có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch
Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương
với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu
Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm
với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh.
Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào),
còn được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính
của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành
Bát Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước,
Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau :
Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy.
Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10
Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.
2. Những tư tưởng cơ bản trong triết học Nho giáo:
2.1 Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo:
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
a- Tứ Thư : là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được
Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và
Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
C Đại học : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi
bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác
việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời
nói của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải
sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ
chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật,
trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của
đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ
dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến
thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
C Trung Dung : Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của
Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo
Website: Email : Tel : 0918.775.368
11
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức
trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với
sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
C Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử
và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi
thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc
sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử,
nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo
đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người.
Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
C Mạnh Tử : Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn
đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép
lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và
các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác
như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia
làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối,
trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể.
Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào
vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử
Website: Email : Tel : 0918.775.368
12