Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

vấn đề lao động - việc làm của tỉnh NINH BÌNH ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.2 KB, 16 trang )

GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lao động là nguồn lực không thể thiếu của mỗi quốc gia, nó vừa là
động lực vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế. Đặc biệt, nền kinh tế
nước ta về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, lao động nông thôn
chiếm tỷ trọng cao, là lực lượng dân số chủ yếu và giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân.
Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lao động dồi dào này thì
vấn đề lựa chọn, bố trí việc làm phù hợp với trình độ, khả năng của người
lao động là rất quan trọng. nó không những giúp kinh tế nước ta phát
triển mà còn hạn chế được nguồn lao động thiếu việc làm, nhất là ở khu
vực nông thôn – nguồn cung cấp lao động chủ yếu cho thành thị.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã triển khai hàng loạt các dự án,
chính sách nhằm hỗ trợ việc làm cho người lao động để họ có thể phát
huy hết khả năng của mình cũng như thừa hưởng những thành quả lao
động mang lại. Tuy nhiên, do trình độ kỹ thuật người lao động chưa cao,
khả năng tạo việc làm và thu hút lao động nông thôn còn hạn chế, đồng
thời thế mạnh của từng địa phương và lao động chưa được khai thác triệt
để nên vấn đề giải quyết việc làm vẫn còn nhiều nhức nhối, lan giải. điều
này đã hạn chế việc phát huy khả năng của cá nhân, kìm hãm sự phát
triển kinh tế của nước ta nói chung và của địa phương đó nói riêng. Để
giải quyết vấn đề này cần có những chính sách, biện pháp phù hợp với
từng thời kỳ, địa phương, cần sự cố gắng của người lao động. Đây cũng
chính là lý do sinh viên chọn đề tài “Vấn đề việc làm - lao động tỉnh Ninh
Bình” cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề lao động – việc làm của tỉnh Ninh Bình, chỉ ra
thực trạng, nguyên nhân của vấn đề đồng thời nêu nên một số biện pháp


để sử dụng hợp lý nguồn lao động, tạo việc làm phù hợp với trình độ
người lao động. Và một số khuyến nghị nhằm phát huy những thuận lợi
và khắc phục những khó khăn về tình hình lao động – việc làm của Ninh
Bình.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 1
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề lao động - việc làm của tỉnh Ninh Bình.
Thời gian: từ 29/ 4/ 2011 đến 29/05/ 2011
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích tài liệu: Gồm các văn bản, chính sách có
liên quan như các văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về
giải quyết, thu hút việc làm cho lao động. Các công trình khoa học, bài
viết nghiên cứu về vấn đề việc làm cho lao động hiện nay.
Phương pháp quan sát thực tế.
Phương pháp tìm tài liệu trên mạng.
5. Khách thể nghiên cứu
Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Ninh
Bình về chính sách lao động – việc làm của tỉnh Ninh Bình.
6. kết cấu của đề tài.
Gồm 3 phần.
Phần I: Phần mở đầu
Phần II: Phần nội dung
Chương I: cơ sở lý luận
1.Một số khái niệm
1.1Việc làm
1.2Lao động
Chương II: Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng của lao động – việc làm tỉnh Ninh Binh.

2. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng tới lao động – việc làm
Ninh Bình.
3. Một số giải pháp
Phần III: Kết luận và khuyến nghị.
1. Kết luận
2. Khuyến nghị.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 2
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SƠ LÝ LUẬN.
1. Một số khái niệm.
1.1. Việc làm.
Khái niệm việc làm được Bộ luật lao động quy định: mọi hoạt
động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận
là việc làm.
Hiểu một cách nôm na thì việc làm là sự kết hợp giữa sức lao động
với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của
con người.
Mọi hoạt động lao động là tất cả các hoạt động tạo ra các giá trị vật
chất, tinh thần cho xã hội. những hoạt động lao động này phải tạo ra
nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm. Đây cũng chính là sự khác
nhau giữa lao động và việc làm. Lao động được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm cả lao động tạo ra nguồn thu nhập và lao động không tạo ra
nguồn thu nhập như lao động công ích, các hoạt động từ thiện, các sáng
tạo nghệ thuật không nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
Khái niệm này đã cho phép người lao động và người sử dụng lao động
có thể tạo ra nhiều việc làm phong phú và đa dạng.
Lao động
Theo Bộ luật lao động quy định thì lao động là mọi hoạt động tạo

ra
các giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội.
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, đóng vai trò
quyết định trong lịch sử phát triển của loài người. Ph. Ăng ghen đã viết
“ lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người,
đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói rằng: Lao
động đã tạo ra chính bản thân con người” (C. Mác – Ph.Ăng ghen, tuyển
tập, tập 5, NXB Sự Thật, Hà Nội 1983 tr 491).
Đây cũng chính là phương thức tạo ra của cải vật chất và các giá trị
tinh thần đem lại cuộc sông ấm no cho con người và là nhân tố quyết định
sự phát triển của xã hội. Ngay từ thời kỳ nguyên thủy, con người đã biết
săn bắt, hái lượm để nuôi sống bản thân và dòng tộc, đây chính là hình
thức lao động sơ khai đầu tiên đã hình thành trong suy nghĩ của con
người khi loài người xuất hiện. Nhờ có lao động mà con người tách mình
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 3
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

ra khỏi thế giới động vật, biết tích lũy kinh nghiệm để chinh phục tự
nhiên, làm chủ cuộc sống của mình, tạo nên một nền văn minh của chính
con người như ngày nay.
Như vậy, có thể nói rằng biết lao động là một phẩm chất đặc biệt
và là phẩm chất sống còn của con người. trải qua hàng ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyến thống
lao động cần cù, sáng tạo. Đây là một tài sản quý của con người và dân
tộc Việt Nam, truyền thống này cần được giữ gìn, tiếp tục phát huy trong
công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Nhất là thời kỳ Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa đất nước.
2. Vai trò của đề tài.
Lao động là điều kiện tiên quyết, quyết định nền kinh tế của một
quốc gia có phát triển hay không, ở đó những hoạt động tạo ra thu nhập

được gọi là việc làm có tác dụng giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời
sống người lao động và sự phát triển nhân cách của con người. Chính vì
vậy, lao động – việc làm có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề lao động
– viêc làm ở Ninh Bình còn khá nhiều vấn đề nổi cộm. sinh viên chọn đề
tài này nhằm tìm hiểu rõ thực trạng của tình hình lao động – việc làm
hiện nay của Ninh Bình. Đồng thời chỉ rõ những thuận lợi cả về con
người và điều kiện tự nhiên, những chính sách của Đảng và Nhà nước,
những khó khăn đã ảnh hưởng tới tình hình lao động – việc làm hiện nay
của tỉnh. Từ đó chỉ ra nguyên nhân của vấn đề sinh viên đang nghiên cứu,
đó vừa là nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, từ cơ cấu ngành kinh tế,
điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng như thế nào tới cơ cấu lao động và việc
làm của nhân dân trong tỉnh. Để giải quyết được vấn đề này cần phải có
những biện pháp cụ thể, chiến lược áp dụng cho từng thời kỳ, từng địa
phương để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực.
Ngoài ra, sinh viên cũng nêu nên một số ý kiến, khuyến nghị nhằm cải
thiện tình hình lao động – việc làm hiện nay của Ninh Bình.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 4
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG –
VIỆC LÀM TỈNH NINH BÌNH
2. 1.Thực trạng vấn đề lao dộng – việc làm tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Ninh Bình – đang trên đà phát triển.
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía đông nam đồng bằng Bắc bộ, có
diện tích tự nhiên 1.389km2 và dân số 939.000 người với mật độ dân số
642 người/km². đây là một tỉnh có lịch sử hình thành lâu đời, sự giàu có
về tài nguyên thiên nhiên cộng với kinh nghiệm quý báu về nền nông
nghiệp lúa nước và tiểu thủ công nghiệp đã hình thành nên sự đa dạng
về kinh tế cũng như lao động – việc làm ở đây.

Trong tỉnh hiện nay có 2.800 doanh nghiệp với hơn 70.000 công
nhân lao động. Lực lượng này làm việc đã góp phần thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đồng thời đã
giải quyết vấn đề quan tâm hàng đầu là giải quyết việc làm cho lao động
hiện nay. Năm 2010 tỉnh Ninh Bình tăng thêm 19 nghìn lao động có
việc làm, GPD tăng 16%, thu ngân sách 2900 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư
phát triển trên địa bàn đạt 19.200 tỷ đồng.
Ngoài ra, trong tỉnh còn có 22 cụm công nghiệp, 7 khu công nghiệp
đã tạo việc làm cho hàng ngàn lao động trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Theo thống kê, toàn tỉnh có 51 cơ sở dạy nghề. Trong đó có 3
trường Cao đẳng nghề, 6 trường Trung cấp nghề, 26 trung tâm dạy
nghề, trung tâm giới thiệu việc làm và 16 doanh nghiệp có đăng ký dạy
nghề. Bình quân hàng năm các cơ sở dạy nghề đã đào tạo cho trên
10.000 lượt người. Số lao động được đào tạo tại các trường, các trung
tâm từ 5.000 – 6.000 lượt người.
Với lịch sử hình thành lâu đời, đất đai màu mỡ, nhân dân giàu kinh
nghiệm trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp như trồng cói ở Kim
Sơn, nuôi tôm ở Bình Minh, trồng dứa ở Yên Mô, nuôi cá chim trắng ở
Gia Viễn… các ngành tiểu thủ công nghiệp: đan cói se trên máy, đan
giỏ sách bằng mây, bèo bồng, thêu, đính cườm, sợi móc hộp… nên hiện
nay số lao động trong các ngành này vẫn chiếm tỉ trọng khá lớn, đặc
biệt là ở nông thôn, các huyện, xã nghèo.
Các hoạt động dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông,
bảo hiểm, tín dụng, du lịch đều đạt mức tăng trưởng bình quân trên
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 5
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

25%/ năm. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 49.800 người.
2.1.2. Tình hình lao động – việc làm của Ninh Bình hiện nay.
Mặc dù có nhiều sự cố gắng từ các cơ quan chức năng, ban ngành,

sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đặc biệt là Bộ lao động thương binh –
xã hội tỉnh. Hiệu quả công tác dạy nghề bước đầu được khăng định. Ý chí
phấn đấu, quyết tâm của người lao động, sự đa dạng, giàu có về tài
nguyên thiên nhiên nhưng Ninh Bình vẫn là một tỉnh nghèo, điểm xuất
phát thấp, kinh tế chậm phát triển, cơ cấu kinh tế lạc hậu, nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm
năng và thế mạnh của một tỉnh đồng bằng có điều kiện phát triển kinh tế
toàn diện.
Hiện nay, tổng số người trong độ tuổi lao động chiếm 60% dân số
tức là 545.500 người, với tỷ lệ tham gia lao động cao, dự báo năm 2020
độ tuổi này sẽ là 584.500 người. Đây sẽ là lực lượng sản xuất chính, đồng
thời là những người tạo ra thu nhập cho gia đình. Tuy cơ cấu lao động đã
có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng lao động trong các
ngành nông – lâm - ngư nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong ngành công
– nghiệp, xây dịch và dịch vụ nhưng phần lớn lao động vẫn đang hoạt
động trong nông nghiệp là chủ yếu, tốc độ diễn ra còn chậm và chưa theo
kịp sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong tỉnh, các ngành tiểu thủ công nghiệp vẫn thu hút và tạo việc
làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn. Hiện, có 46
doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề này, chưa kể các cơ sở nhỏ và
làm tại gia đã tạo việc làm cho hàng ngàn lao động. Tuy nhiên thu nhập
từ những ngành nghề này chỉ dao động từ 450 – 500 ngàn/ một tháng.
Với mức thu nhập này không đủ để trang trải cuộc sống gia đình. Do vậy,
đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Số hộ nghèo còn nhiều
nhưng đã giảm dần theo những năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo bình quân
mỗi năm giảm chỉ1,8% .
Mặc dù Ninh Bình có thế mạnh và tiềm năng để phát triển các
ngành dịch vụ, du lịch, xây dựng, công nghiệp chế biến, chế tạo nhưng
đến nay, cơ cấu những ngành này vẫn chiếm tỷ trọng thấp và tốc độ gia
tăng chậm.

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 6
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

Biểu đồ thể hiện số lao động trong các ngành kinh tế
DVT: nghìn người
Nguồn: Sở lao động – thương binh – xã hội Ninh Bình
Qua biểu đồ, ta thấy được sự chênh lệch khá lớn về sự phân bố lao
động trong các ngành hiện nay. Tuy có sự chuyển biến rõ rệt theo hướng
tích cực nhưng đa số lao động Ninh Bình đang hoạt động trong lĩnh vực
nông – lâm – ngư nghiệp là chủ yếu, số lao động trong ngành này chiếm
tới gần 2/3 số lao động trong các ngành kinh tế. Năm 2007, số lao động
trong ngành này những 314.6 nghìn người đến năm 2010 đã giảm xuống
còn 234.1 nghìn người, trong hai năm 2007 – 2008 chỉ giảm được 1.2
nghìn người, đến năm 2009 – 2010 tỷ lệ này đã giảm với tốc độ nhanh
hơn là 49 nghìn người. số lao động này đa phần là chuyển đổi cơ cấu
nghề nghiệp sang các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. hiện
nay, số lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng chỉ chiếm 173.2
nghìn người. đây đã là sự cố gắng và chuyển đổi tích cực vì năm 2007 chỉ
có 79.9 nghìn người, thế nhưng tỷ lệ này còn rất thấp so với điều kiện
thuận lợi của Ninh Bình. Tỷ lệ lao động thấp nhất trong các ngành là lao
động trong lĩnh vực dịch vụ, nó thấp hơn so với số lao động trong ngành
nông – lâm – ngư nghiệp những 25.58%. Đây chính là sự chênh lệch
không đáng có ở nơi có tiềm năng như Ninh Bình. Năm 2010 mới có 20.1
nghìn lao động đang lao động trong lĩnh vực này.
Hiện, số lao động đang làm việc ở khu vực ngoài Nhà nước chiếm
tỉ trọng lớn nhất với 84.5%, đây cũng là khu vực có sự đa dạng, phong
phú về việc làm cho lao động, đặc biệt là phù hợp với khả năng, trình độ
của người lao động.Tuy nhiên, khâu thu hút đầu tư nước ngoài còn gặp
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 7
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt


nhiều hạn chế nên số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
còn rất ít, đặc biệt là một số huyện, xã nghèo kinh tế chưa phát triển:
huyện Nho Quan, huyện Yên Mô… năm 2009 lao động làm việc ở khu
vực này chiếm 4.1% trong tổng các thành phần kinh tế. Khu vực Nhà
nước đang có sự phục hồi và phát triển với tỉ trọng 11.3%, tỷ trọng này
còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
82.5% 3.1% 13.3%
Nguồn: ninhbinh.gov.vn
Song song với chính sách về việc làm trong tỉnh, công tác xuất
khẩu lao động cũng được tỉnh chú trọng phát triển. tuy nhiên, toàn tỉnh
chỉ mới đưa được 1780 người làm việc ở nước ngoài trung bình mỗi năm,
số lao động này đi làm ở một số thị trường đang phát triển như:
Campuchia, Singgapo, Nubai…
Tuy công tác dạy nghề, hướng nghiệp rất được tỉnh chú trọng quan
tâm phát triển nhưng tỷ lệ lao động trên địa bàn qua đào tạo chiếm 35%,
trong đó qua đào tạo nghề chỉ chiếm 28% (trong đó công nhân kỹ thuật
có bằng chỉ chiếm 16,75%), Như vậy, số lượng lao động có tay nghề
chưa cao, phần lớn chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuât chưa đáp ứng
được yêu cầu về lượng so với thị trường lao động đưa ra. Điều đó ảnh
hưởng tới chất lượng sản phẩm, tiến độ công việc, thu nhập… đặc biệt là
lựa chọn việc làm cho phù hợp với trình độ của người lao động. hiện nay,
tỉnh đang đề ra mục tiêu tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đến năm 2020 là
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 8
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

55%, số lao động cần đào tạo trong 10 năm là 169.000 lượt người, bình
quân 16.900 người/năm. Cơ cấu đào tạo giai đoạn 2011- 2020 dự kiến ở
các trường Cao đẳng và Trung cấp nghề của Trung ương đóng tại địa
phương là 52.200 lượt, các trường trung cấp nghề của địa phương là

18.500 lượt, các trung tâm, cơ sở, doanh nghiệp và đơn vị khác có tham
gia dạy nghề là 98.300 lượt. để đạt được những mục tiêu trên không chỉ
cần sự quan tâm của cơ quan chức năng mà còn cần sự nỗ lực, cố gắng
của từng cá nhân, địa phương để có thể hoàn thành mục tiêu đã đề ra
thắng lợi và đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường lao
động.
2.3. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng lao động – việc làm hiện nay của
tỉnh Ninh Bình.
Công tác tuyên truyền, thu hút lao động, dạy nghề còn hạn chế,
các ngành nghề đào tạo chưa phong phú nên chưa thu hút được đông đảo
người dân tham gia học. Đồng thời các chính sách ưu đãi để thu hút đội
ngũ giáo viên dạy giỏi con ít. Dẫn đến việc lao động có tay nghề chưa
cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật còn kém, năng suất, chất lượng sản
phẩm chưa được đảm bảo.
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, đặc biệt là khâu giải phóng mặt bằng
còn chậm trễ, chưa triệt để nên khó thu hút đầu tư nước ngoài. Chỉ có
3.1% lao động đang làm việc trong khu vực này.
Chính sách hỗ trợ vay vốn để nông dân tăng gia sản xuất, xây dựng
mô hình VAC, VACR , xí nghiệp, doanh nghiệp còn nhiều bất cập. có khi
người thật sự cần giúp đỡ thì không được vay vốn, nhưng người khác
kinh tế khá hơn nhờ quen biết rộng mà lại được hưởng lợi ích đó.
Một số bộ phận người dân nhận thức chưa cao, họ không muốn
chuyển đổi hình thức lao động. tức là từ trước đến giờ làm nông thì vẫn
làm nông, không xây dựng mô hình trang trại để trách rủi ro, không muốn
làm ở công ty vì không có trình độ. Vì vậy nên họ ở nhà trồng hai vụ lúa
và một vụ đông.
Khâu thu hút nhân tài về quê hương công tác cũng còn hạn chế. Vì
vậy đại đa số những người có trình độ trên đại học, đại học, kỹ sư…thì
làm việc ở những thành phố lớn chứ ít về quê, và đa số lao động ở tỉnh là
lao động trẻ nên họ kh họ muốn tìm tòi cái mới và đến nơi nào có điều

kiện cho mình phát triển hơn. Cho nên lao động ở quê trình độ cò thấp là
vì vậy.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 9
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

Một số cán bộ địa phương đôi lúc còn xa dân, chưa quan tâm thiết
thực đến đời sống, nhu cầu của nhân dân nên chưa có những chính sách
cụ thể, hợp lý.
2.2. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH
HÌNH LAO ĐỘNG VIỆC LÀM HIỆN NAY CỦA NINH BÌNH.

2.2.1. Thuận lợi.
Trước hết, có thể khẳng định, con người Ninh Bình rất cần cù, chịu
thương chịu khó, sáng tạo học hỏi kinh nghiệm, tri thức để trau dồi khả
năng vốn có của mình. Đồng thời, cuộc sống khó khăn, lam lũ đã hình
thành nên tính cách của con người Ninh Bình họ rất trân trọng sức lao
động, cầu tiến nên hầu hết ai cũng tham gia hoạt động lao động, tăng gia
sản xuất, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
60% dân số tỉnh trong độ tuổi lao động, là lực lượng chính tạo ra
thu nhập giúp mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, ngoài
ra, điều kiện này đã cung cấp cho thị trường lao động lực lượng dồi dào,
trẻ, khỏe. Có khả năng tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến, là đội ngũ trẻ-
ham học hỏi, luôn có chí tiến thủ giúp cho tỷ lệ lao động qua đào tạo của
tỉnh ngày càng tăng.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới vấn đề giải quyết
việc làm và đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt Tỉnh đã tổ chức hội nghị
quán triệt Quyết định số 1956 ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động đến năm 2020 tới cán bộ chủ
chốt trên địa bàn nhằm tăng số lao động có việc làm và tuyên truyền các
dự án tới người dân tốt hơn. Năm 2010 tỉnh đã phân bổ 40,13 tỉ đồng cho

công tác dạy nghề trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ 34,13 tỉ. Cùng
với đó, ngành Lao động, Thương binh và Xã hội đã tiến hành điều tra,
khảo sát nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn toàn
tỉnh đến năm 2020 để có thể nắm bắt rõ tình hình mà có chiến lược phù
hợp với từng thời kỳ, giai đoạn để có những chính sách giúp đỡ kịp thời
và sử dụng nguồn lao động hợp lý. Đây chính là động lực để người lao
động hăng say làm việc, yên tâm công tác và quan trọng là tin tưởng vào
các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Ngoài ra, tỉnh đã chú trọng công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
cơ sở hạ tầng đã được cải thiện và nâng cấp cho phù hợp với yêu cầu của
thị trường. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10; 12A; 12B và
đường sắt Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông
Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân tạo thành mạng
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 10
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu, học hỏi phát triển
kinh tế, kinh nghiệm trong sản xuất, lao động.
Ninh Bình, có hệ thống sông ngòi dày đặc, đặc biệt có sông Hồng
màu mỡ phù sa chảy qua, đã tạo điều kiện để nơi đây phát triển nền nông
nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước. Ngoài ra, đây còn là một tỉnh có nhiều
kinh nghiệm truyền thống quý báu về các ngành thủ công nghiệp như đan
cói xe, hộp bằng cói, bèo bồng, thêu ngoài ra, với diện tích nước lợ và
bờ biển khu vực Bình Minh (huyện Kim Sơn) tương đối lớn đã giúp tỉnh
phát triển ngành nuôi trồng thủy hải sản, trồng cói…,năng suất lên tới
hàng ngàn tấn mỗi năm. Vì chủ yếu lao động trong Không những thế,
Ninh Bình còn có diện tích rừng khá lớn: 10.400 ha, vì vậy đây là thế
mạnh để tỉnh phát triển các ngành nông – lâm – ngư nghiệp và giải quyết
vấn đề quan tâm hàng đầu là giải quyêt việc làm cho lao động.
Với hơn 20.000 ha diện tích núi đá vôi, đây là cơ sở để hàng chục

nhà máy sản xuất xi măng ra đời, ngành công nghiệp – xây dựng phát
triển, kéo theo đội ngũ công nhân tăng. Một số nhà máy xi măng lớn như:
nhà máy xi măng Tam Điệp, nhà máy xi măng Duyên Hà, với năng suất
hàng chục triệu tấn mỗi năm.
Là tỉnh có lịch sử lâu đời với những danh lam thắng cảnh nổi tiếng:
Tam Cốc Bích Động, vườn quốn gia Cúc Phương, khu du lịch sinh thái
Tràng An đã tạo điều kiện để tỉnh phát triển ngành du lịch, dịch vụ.
2.2.2. Khó khăn.
Những điều kiện trên của Ninh Bình rất thuận lợi để phát triển kinh
tế, việc làm cho lao động. bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn cần được
khắc phục, hạn chế để vấn đề lao động – việc làm không còn là bài toán
khó của Ninh Bình.
Thực tế cho thấy, số người trong độ tuổi lao động của Ninh Bình
chiếm hơn một nửa dân số, trong đó chủ yếu là lao động nông nghiệp và
phân bố ở nông thôn là chủ yếu. Số lao động này lên các thành phố lớn
lao động để lại khoảng trống việc làm ở nông thôn. Sự dịch chuyển này
làm cho số lao động qua đào tạo ở Ninh Bình giảm mạnh, số lao động có
trình độ chuyên môn cũng giảm theo. Ngoài ra, chủ yếu lao động đi nơi
khác làm việc là lao động trẻ nên số lao động ở lại địa phương đang có xu
hướng già hóa, do đó khả năng hỏi học kinh nghiệm, chuyên môn kỹ
thuật cũng bị hạn chế.
Những lao động đi nơi khác làm việc ở một số tỉnh như:Quảng
Ninh, Lạng Sơn đây là những địa điểm nóng của các tệ nạn xã hội
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 11
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

thường bị nghiện ngập, sa ngã chính những điều này làm họ mất ý chí,
tinh thần làm việc, họ mang bệnh tật về cho vợ con. Đó cũng ảnh hưởng
đến nguồn lực tương lai của đất nước.
Do số lao động trong nông nghiệp là chủ yếu mà diện tích đất nông

nghiệp ngày càng bị thu hẹp, người nông dân phải chuyển sang tìm việc
trong các khu công nghiệp, nhà máy. Tuy nhiên do trình độ kỹ thuật và
kỹ năng nghề nghiệp còn hạn chế nên người lao động rất khó tìm việc
ngay trong chính địa phương của mình khi có một dự án công nghiệp mọc
lên. Nếu có thì công việc cũng bấp bênh, thu nhập không ổn định.
Trong nghiên cứu về tỉnh Ninh Bình, TS Dương Đình Giám – tổng
biên tập tạp chí Công nghiệp cho biết: “Trong tổng số hơn 14.000 lao
động bị mất việc làm do mất đất, chỉ có 17,6% có trình độ trung học
phổ thông, số còn lại (82,4%) trình độ từ trung học cơ sở trở xuống, chưa
qua đào tạo nghề và không đáp ứng được yêu cầu các khu công nghiệp.
Thế nên, mặc dù có 57 dự án đầu tư đã đi vào hoạt động ở tỉnh Ninh Bình
nhưng từ năm 2006 - 2009, các doanh nghiệp mới chỉ thu hút được 2.940
lao động địa phương vào làm (đạt 14,1% yêu cầu của chính quyền nơi
đây).
Bên cạnh những yếu tố chủ quan từ phía người lao động nói trên,
một nguyên nhân khiến lao động trong tỉnh khó tìm việc còn xuất phát từ
những yếu tố khách quan khác. Hệ thống thông tin tư vấn giới thiệu
việc làm còn thiếu, chưa phát triển đến các vùng nông thôn; đặc biệt thiếu
cơ sở đào tạo ở các xã, huyện nghèo (số cơ sở hiện có chỉ đáp ứng được
khoảng 10% so với nhu cầu ở những vùng khó khăn).
Mặc dù công tác dạy nghề, tao việc làm cho người lao động đang
được triển khai nhưng trên địa bàn tỉnh nhận thức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và người lao động trong công tác dạy nghề, tạo việc làm
còn hạn chế, một số huyện nhận thức chưa đầy đủ nên triển khai chậm so
với kế hoạch của tỉnh đề ra, công tác điều tra, khảo sát chậm tiến độ ảnh
hưởng đến tổng hơp chung của tỉnh. Bên cạnh đó, công tác triển khai,
tuyên truyền và các chính sách dạy nghề của Nhà nước đối với người dân
chưa sâu rộng Năng lực, chất lượng đào tạo của một số cơ sở dạy nghề
của tỉnh chưa cao: chưa gắn dạy nghề với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
việc làm, kinh phí đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu thực tế, cơ sở vật

chất của các cơ sở dạy nghề chưa được đầu tư đồng bộ Đây là những
khó khăn cần được giải quyết để dạy nghề thực sự là “cần câu” đối với
người lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn, tạo thu nhập, ổn định
đời sống, giúp người dân yên tâm phát triển kinh tế
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 12
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

Thực tế cho thấy, kết quả xuất khẩu lao động vẫn còn chưa tương
xứng với tiềm năng nguồn nhân lực của tỉnh. Việc xuất khẩu lao động
chủ yếu thông qua các đơn vị ở ngoài tỉnh nên luôn bị động về thị trường,
về số lượng dẫn đến chi phí xuất khẩu lao động còn cao, vượt quá
khả năng tài chính của số đông lao động. Công tác quản lý chỉ đạo, theo
dõi các đơn vị hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn chưa chặt
chẽ. Công tác tuyển chọn, đào tạo nghề, dạy tiếng và giáo dục định
hướng chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành,
các địa phương với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chưa được
thường xuyên, thiếu chặt chẽ trong chuẩn bị nguồn lao động. ngoài ra,
việc triển khai thực hiện Đề án xuất khẩu lao động còn chậm, thiếu đồng
bộ từ tỉnh đến cơ sở, hiệu quả còn hạn chế. Bên cạnh đó, thị trường lao
động xuất khẩu có nhiều biến động, một số tập thể cá nhân lợi dụng chủ
trương xuất khẩu lao động của Nhà nước để lừa đảo người lao động, làm
ảnh hưởng đến tâm lý của những người đang có nhu cầu xuất khẩu lao
động. Mặt khác, trình độ tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật của một số lao
động còn thấp nên dẫn đến tình trạng nhiều người phải về nước trước thời
hạn
2.3. Một số giải pháp khắc phục.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, những thực trạng còn tồn tại,
những hạn chế, nguyên nhân ảnh hưởng tới vấn đề lao động – việc làm
tỉnh Ninh Bình, một số giải pháp được đưa ra nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của lao động – việc làm đối với người lao động của tỉnh.

Trước mắt, cần chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, tăng diện tích
cây công nghiệp, cây ăn quả…những loại cây có giá trị năng suất, thu
nhập cao. Muốn vậy, phải tiến hành dồn đất nông nghiệp, hỗ trợ nông dân
về kỹ thuật canh tác, giống, về thông tin thị trường. Ngoài ra, phải mở
rộng các chương trình vay vốn nông thôn, đặc biệt là các dự án lớn để
thành lập các trang trại, cơ sở tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nhằm tăng
nhanh năng suất lao động và lao động làm thuê ở nông thôn. Đồng thời,
tạo điều kiện, khuyến khích các hoạt động kinh doanh hàng xuất khẩu
như mây, cói đan, thêu ren…để tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao
động nông thôn.
Tiến hành quy hoạch, hỗ trợ các làng nghề truyền thống, kết hợp
các giá trị văn hóa truyền thống để biến làng nghề thành các điểm du lịch
thu hút khách trong nước và quốc tế.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 13
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

Tổ chức tuyên truyền, vận động, tư vấn đến từng xã, thôn bản,
người lao động về chủ trương, chính sách dạy nghề, tạo việc làm cho
người lao động của Đảng và Nhà nước, của tỉnh, địa phương để mọi
người hiểu và tự giác lựa chọn đi học nghề, chấp hành đầy đủ nội quy,
quy định của lớp học.
Căn cứ vào đặc điểm của từng địa phương, chính quyền và người
lao động cần lựa chọn được đúng nghề phù hợp để đưa vào dạy nghề, có
như vậy mới duy trì và phát triển được nghề. Lựa chọn được các cơ sở
dạy nghề có đủ năng lực để người lao động có việc làm sau khi học nghề.
Đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao trên địa bàn tỉnh. Những chính sách, chiến lược đào
tạo việc làm, dạy nghề cần gắn kết với các chính sách phát triển kinh tế
và đầu tư lớn với mục tiêu chủ yếu nhằm tạo thêm nhiều việc làm trong
các ngành có năng suất lao động cao, thúc đẩy chuyển dịch từ lao động

nông nghiệp sang công nghiệp và từ khu vực kinh tế phi chính thức sang
khu vực chính thức; hỗ trợ lao động nông thôn học nghề mới.
Cần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, nghề
trọng điểm của tỉnh: công nghiệp khai thác, các loại hình dịch vụ…đồng
thời công tác giải phóng, quy hoạch mặt bằng phải được được thực thi
nhanh chóng, có như vậy thì mới thu hút các chủ đầu tư.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 14
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
1. Kết luận
Vấn đề lao động – việc làm thực sự đang là vấn đề nhức nhối đáng
quan tâm hàng đầu của xã hội nói chung và của tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Một đất nước phát triển khi vấn đề lao động – việc làm được quan tâm
đúng mực, cụ thể. Để đạt được mục tiêu cụ thể để giải quyết lao động –
việc làm đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân người lao
động trong tiến trình này. Sẽ khó giải quyết được vấn đề nếu như nhận
thức của người lao động chưa được nâng cao, trình độ chuyên môn kỹ
thuật còn hạn chế, những điều kiện để phát triển khả năng cá nhân bị kìm
hãm, chưa có điều kiện để phát triển. Nó cũng khó có thể giải quyết được
nếu như Đảng và Nhà nước cùng các cơ quan chức năng, ban ngành chưa
có những chính sách ưu đãi, những hỗ trợ: dạy nghề, vay vốn cho người
lao động, sẽ không thu hút được đầu tư nước ngoài nếu như quá trình giải
phóng mặt bằng diễn ra chậm chạp, cơ sở hạ tầng còn kém.
Như vậy, Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng ban ngành, cùng
người lao động đều có trách nhiệm trong việc thúc đẩy giải quyết việc
làm cho người lao động. có như vậy, người lao động ngày càng có ý thức
hơn về vai trò của họ trong sự phát triển của địa phương, đất nước.
Thông qua quá trình nghiên cứu cho thấy vấn đề lao động – việc
làm của tỉnh Ninh Bình đã được quan tâm, giải quyết và đã đạt được

những kết quả đáng ghi nhận. Hầu hết, người dân đều tham gia vào hoạt
động lao động để tạo ra thu nhập. Họ nhận thức rõ ràng về vai trò của
việc làm, hiểu được ý nghĩa của lao động từ đó họ đều cố gắng thực hiện
tốt vai trò của mình để kinh tế địa phương ngày một đi lên, góp phần
nâng cao đời sống của cá nhân, gia đình.
Đánh giá đúng mực về thực trạng thực lao động – việc làm của
Ninh Bình có mối quan hệ mật thiết với điều kiện thực tế của tỉnh. Qua
những con số, dẫn chứng cụ thể đã chứng minh được vấn đề lao động –
việc làm đang có đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tích cực và
theo xu hướng phát triển nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, số lượng chưa có
trình độ chuyên môn kỹ thuât còn nhiều, cơ cấu lao động trong khu vực
đầu tư nước ngoài ocnf hạn chế. Trong một chừng mực nhất định đề tài
đã có cái nhìn tổng quan về vấn đề lao động – việc làm của tỉnh Ninh
Bình.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 15
GVDH: Th.S PHẠM THANH HẢI Môn: Xã hội học chuyên biệt

Mặc dù còn một số hạn chế, tồn tại xong để khắc phục nó cần phải
có những biện pháp, chủ trương đúng đắn, lâu dài, phù hợp và có sự đóng
góp giải pháp của nhiều cơ quan chức năng, ban ngành để vấn đề lao
động - việc làm không còn là “bài toán” khó của tỉnh. Đồng thời có sự
ủng họ, cố gắng của người lao động.
2. Khuyến nghị.
- Đối với Đảng và Nhà nước: tiếp tục triển khai các chương trình,
dự án hỗ trợ tỉnh Ninh Bình với mục đích giải quyết vấn đề lao động –
việc làm hiện nay của tỉnh. Đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo của
địa phương. Đồng thời có những chính sách vay vốn dành cho nông dân
để họ tăng gia sản xuất, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
- Đối với UBND tỉnh Ninh Bình: Cần phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan chức năng để thu hút những chính sách, dự án, đầu tư nuớc ngoài.
Quan tâm tới công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân,
thu hút sự tham gia của nhân dân trong các chương trình, dự án hỗ trợ
việc làm của Đảng, Nhà nước, các chính sách đãi ngộ thu hút giáo viên
dạy giỏi về dạy nghề trên địa bàn tỉnh.
Cán bộ, lãnh đạo địa phương cần có nhận thức đúng đắn về vấn đề
lao động – việc làm, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của mình, thường
xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân trên tinh thần dân chủ,
khách quan.
- Đối với người lao động: Cần có nhận thức rõ ràng về quyền, vai
trò của mình đối với sự phát triển kinh tế, ủng hộ chính quyền trong quá
trình triển khai những chính sách dạy nghề, chuyển đổi cơ cấu nghề
nghiệp.
Có thái độ làm việc nghiêm túc, khoa học hơn nữa, nhất là trong
các doanh nghiệp, khu vực có đầu tư nước ngoài.
Thường xuyên trau dồi kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.
Thường xuyên nghe ngóng, tiếp nhận thông tin về những chính
sách, chương trình, dự án của Đảng, Nhà nước, của tỉnh về hỗ trợ vay
vốn, dạy nghề để lựa chọn cho mình nghề phù hợp với khả năng nhất.
SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 16

×