Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.17 KB, 5 trang )

Về phản ứng phụ của
bisphosphonates liên quan
đến hoại tử xương hàm và
rung nhĩ
Gần đây có một số báo cáo khoa học liên quan đến phản
ứng phụ (nhưng nghiêm trọng) của các thuốc
bisphosphonates như hoại tử xương hàm (osteonecrosis of
the jaw – ONJ) và rung nhĩ (atrial fibrillation). Những
ảnh hưởng này cộng với một số thông tin không mấy
chính xác trên các kênh thông tin phổ thông đã gây ra
một số hiểu lầm và hoang mang trong công chúng về hiệu
quả và tác động của thuốc bisphosphonates. Bài viết này
sẽ trình bày một vài phát hiện mới nhất liên quan đến hai
phản ứng phụ của bisphosphonates để làm sáng tỏ vấn
đề.
Loãng xương là một bệnh với đặc điểm chất khoáng trong
xương bị suy giảm và dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy
xương. Lượng chất khoáng trong xương bị suy giảm là hệ
quả của sự thiếu cân đối trong qui trình chuyển hóa của
xương (bone remodelling), mà trong đó các tế bào hủy
xương (osteoclasts) lấn áp các tế bào tạo xương
(osteoblasts). Do đó, một trong những biện pháp để điều
trị loãng xương là ức chế các tế bào hủy xương. Khoảng
bốn thập niên trước, các nhà khoa học phát hiện rằng
bisphosphonates có hiệu năng ức chế các tế bào hủy
xương, và nghiên cứu sử dụng thuốc này cho việc việc
điều trị loãng xương và phòng chống gãy xương.
Các tế bào ung thư trong xương (đặc biệt là tế bào ung thư
vú và ung thư myeloma) có thể sản sinh và kích hoạt các
tế bào hủy xương dẫn đến sự phóng thích các yếu tố
cytokines và hệ quả là di căn xương. Vì sự thật này cho


nên bisphosphonates còn được chỉ định cho việc điều trị
bệnh nhân ung thư bị di căn xương với gia tăng calcium
hay không gia tăng calcium trong máu.
Dựa vào cấu trúc hóa học, có thể chia các thuốc
bisphosphonates thành 2 nhóm: nhóm có chứa nitrogen
(như alendronate, risedronate, ibandronate, olpadronate,
pamidronate, zoledronate) và nhóm không chứa nitrogen
(etidronate, clodronate, và tiludronate). Cơ chế sinh học
chủ yếu là khi uống hay tiêm, bisphosphonates chuyển
hóa bằng cách “xâm lấn” vào các tế bào hủy xương làm
cho các tế bào này phát động quá trình apoptosis (tức là
quá trình “tế bào tự tử”) và do đó “tiêu diệt” các tế bào
hủy xương [1].
Bisphosphonates được sử dụng điều trị loãng
xương và ung thư di căn từ hơn 10 năm qua. Qua rất
nhiều nghiên cứu lâm sàng, có thể nói rằng các thuốc như
alendronate (thuơng hiệu Fosamax), risedronate
(Actonel), zoledronate (Zometa) có hiệu quả rất khả quan
trong việc phòng chống loãng xương. Các thuốc này tuy
chỉ tăng mật độ chất khoáng trong xương khoảng 5-7%,
nhưng có khả năng giảm nguy cơ gãy xương đốt sống và
xương hông đến 50%. Một số nghiên cứu gần đây còn
cho thấy zoledronate có hiệu quả giảm nguy cơ gãy
xương lên đến 70% và thậm chí làm giảm nguy cơ tử
vong ở những bệnh nhân gãy xương hông [2]. Vì những
hiệu quả rất đáng kể này, cho đến nay bisphosphonates đã
trở thành một liệu pháp hàng đầu được sử dụng rộng rãi
để điều trị bệnh nhân loãng xương.
Vài ảnh hưởng thứ phát
Cũng như bất cứ liệu pháp dược phẩm nào,

bisphosphonates cũng có vài ảnh hưởng thứ phát (adverse
events). Nhưng nhìn chung, bisphosphonates là thuốc
tương đối an toàn. Trong vài trường hợp hiếm hoi, viêm
thực quản (esophagitis) đã được báo cáo sau khi bệnh
nhân uống alendronate và pamidronate. Do nguy cơ viêm
thực quản, alendronate được xem là chống chỉ định đối
với những bệnh nhân với rối loạn thực quản như chứng co
thắt tâm vị (achalasia). Cả hai thuốc alendonate và
risedronate cũng chống chỉ định cho những bệnh nhân
không có khả năng ngồi hay đứng thẳng người tối thiểu
30 phút sau khi uống thuốc.
Số liệu từ các công trình nghiên cứu lâm sàng cho thấy tỉ
lệ phát sinh (incidence) GI không khác nhau giữa nhóm
được điều trị bằng alendronate và nhóm placebo, nhưng
trong thực hành lâm sàng, một số bệnh nhân phải ngưng
sử dụng bisphosphonates vì ảnh hưởng phụ trên GI.
Uống alendronate mỗi tuần một lần có vẻ an toàn hơn
uống hàng ngày [3]. Ngoài ra, bệnh nhân ngưng sử dụng
alendronate do ảnh hưởng GI cũng có thể sử dụng
risedronate mỗi tuần một lần với độ an toàn có thể chấp
nhận được [4]. Trong một nghiên cứu 2 tuần so sánh an
toàn giữa alendronate và risedronate, các nhà nghiên cứu
ghi nhận rằng bệnh nhân uống risedronate nói chung có ít
ảnh hưởng phụ (loét dạ dày) hơn bệnh nhân alendronate.
Tuy nhiên, không có khác biệt đáng kể giữa hai nhóm cho
các ảnh hưởng phụ như esophageal viêm thực quản [5].
Một nghiên cứu khác theo dõi bệnh nhân trong 12 tháng
so sánh alendronate và risedronate, tỉ lệ bệnh nhân với GI
trong nhóm alendronate tương đương với nhóm
risedronate [6].

Một số phản ứng phụ (như sốt, cảm thấy khó chịu, đau cơ
bắp) cũng xảy ra và tỉ lệ có thể cao đến 10% hay 20% ở
những bệnh nhân được tiêm pamidronate hoặc zoledronic
[7]. Giảm lượng calcium trong máu (hypocalcemia) có
thể xảy ra, nhưng thường nhẹ và không biểu hiện triệu
chứng. Để ngăn ngừa tình trạng thiếu calcium trong máu,
điều quan trọng là cần phải đảm bảo bệnh nhân có đầy đủ
lượng vitamin D. Bisphosphonates được bài tiết qua
đường thận và vì thế, thuốc không nên sử dụng cho những
bệnh nhân suy thận nghiêm trọng (như creatinine
clearance thấp hơn 35 ml/phút).

×