Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tổn thương da do tác dụng phụ của thuốc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.87 KB, 5 trang )

Tổn thương da do tác dụng
phụ của thuốc
Tất cả các loại thuốc chữa bệnh đều có thể gây những tác
dụng phụ làm tổn hại một hoặc nhiều cơ quan của cơ thể.
Có thể gặp ở người này hoặc người khác với nhiều mức
độ khác nhau. Tổn thương da là biểu hiện của dị ứng
thuốc mà người bệnh dễ dàng nhận biết.
Ban đỏ (Exanthems): là dạng ban sẩn hoặc ban dạng sởi,
nhỏ như đầu đinh ghim ở thân mình và có thể liên kết lại
với nhau tạo thành mảng, người bệnh thường ngứa, thời
gian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng một tuần và
tồn tại đến một vài tuần. Những thuốc hay gây dị ứng
dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazole,
carbamazepine, cefaclor, những thuốc bôi ngoài da,
những thuốc có khả năng khuếch tán trong môi trường
(các mỡ kháng sinh, chống viêm, bảo vệ da, tiếp xúc trực
tiếp với thuốc trong công nghệ sản xuất thuốc, khí dung
kháng sinh ).
Viêm da bong vảy là dạng ít gặp với biểu hiện đỏ da bong
vảy và ngứa toàn thân. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và
có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Dạng này
thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại
trong 3 – 4 tuần. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là:
allopurinol, thuốc chống sốt rét, giảm đau, hạ nhiệt,
carbamazepine, penicillin, streptomycin,
chloramphenicol, tetracyclin và sulfonamide.
Mày đay thường là biểu hiện lâm sàng nhẹ và ban đầu của
phần lớn các trường hợp dị ứng thuốc. Các loại thuốc đều
có thể gây mày đay, hay gặp hơn là kháng sinh, vaccin,
huyết thanh, thuốc chống viêm giảm đau, hạ sốt Sau khi
dùng thuốc (nhanh từ 5-10 phút, chậm có thể vài ngày),


người bệnh cảm thấy nóng bừng, ngứa, trên da nổi ban
cùng sẩn phù, có thể kết hợp với phù mạch, phù nề mi
mắt, môi. Trường hợp nặng có thể có khó thở, đau bụng,
đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, mệt mỏi, sốt
cao

Tổn thương da do thuốc.
Mày đay cấp thường biểu hiện tăng sẩn phù, mất đi nhanh
và xuất hiện lại cũng nhanh, diễn biến trong thời gian
dưới 3 tuần. Mày đay diễn biến hằng ngày, kéo dài hơn 3
tuần là đã chuyển thành mạn tính.
Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: kháng sinh, đặc
biệt là penicillin, thuốc khác: captopril và các thuốc ức
chế men chuyển khác, thuốc chống viêm giảm đau không
steroid (NSAIDs) bao gồm cả aspirin và các thuốc
quinine.
Phù Quincke là tình trạng phù cục bộ, có thể do kháng
sinh, vaccin, huyết thanh, các thuốc chống viêm không
steroid Phù thường xuất hiện nhanh sau khi dùng thuốc
ở những vùng da mỏng, môi, cổ, quanh mắt, bụng, các
chi, bộ phận sinh dục Kích thước phù Quincke thường
to, có khi bằng bàn tay, nếu ở gần mắt làm cho mắt híp
lại, ở môi làm môi sưng to, biến dạng. Màu da vùng phù
bình thường hoặc hơi hồng nhạt, đôi khi phối hợp với
mày đay. Trường hợp phù Quincke ở họng, thanh quản,
người bệnh có thể bị nghẹt thở; ở ruột, dạ dày gây đau
bụng; ở não gây đau đầu
Da nhạy cảm ánh sáng: Bình thường da không nhạy cảm
với ánh sáng. Khi dùng một số loại thuốc thường là các
loại như: ức chế men chuyển, NSAIDs, quinolone,

nalidixic acid, phenothiazine, tetracycline, griseofulvin,
amiodarone, sulfonamide và thiazide thì da trở nên tăng
nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống
bị phỏng, sạm da, đen da hoặc mất sắc tố da… Vị trí ở các
vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay, mu bàn chân. Mức
độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời
gian tiếp xúc với ánh nắng.
Hồng ban đa dạng: Bệnh bắt đầu sau một vài ngày dùng
thuốc với những biểu hiện: sốt nhẹ, mệt mỏi, đau khớp,
sưng hạch, có cảm giác nóng bỏng toàn thân. Tổn thương
là các hồng ban hình bia bắn điển hình có ba vòng tròn
đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ
phù nề, ở giữa là mụn nước nhỏ hoặc vỡ, trợt, hoại tử.
Bệnh có thể kèm theo tổn thương niêm mạc các hốc tự
nhiên, tổn thương nội tạng (tim, gan, thận ), tái phát
nhiều đợt; trường hợp nặng có thể gây tử vong.
Nguyên nhân do thuốc gây hồng ban đa dạng chỉ chiếm
khoảng 10%, các thuốc thường gây hồng ban đa dạng là:
ức chế men chuyển, allopurinol, carbamazepine,
phenytoin, NSAIDs, penicillins, sulfonamide và
tetracyclin.
Viêm mao mạch là tình trạng viêm hoại tử các mao mạch
ngoài da do các thuốc như: ức chế men chuyển, NSAIDs,
allopurinol, penicillins, sulfonamides và thiazides lợi tiểu.
Biểu hiện ngoài da là các ban xuất huyết sờ thấy được
trên mặt da. Ngoài ra, thuốc còn có thể gây viêm mạch
nội tạng và gây nguy hiểm hơn cho người bệnh.
Ban dạng lichen: Gọi tên này bởi vì tổn thương ngoài da
giống lichen phẳng: là các sẩn màu hơi tím, phẳng, trên
đó có các rãnh, khía tổn thương có thể liên kết thành

mảng lớn. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: thuốc
chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chống sốt rét,
furosemide, thiazides, chlorpropamide, methyldopa,
phenothiazine và quinidine.
Hồng ban cố định nhiễm sắc là dạng dị ứng thuốc biểu
hiện ở vị trí cố định trên da, thường là các vị trí liên kết da
- niêm mạc. Tổn thương là các dát sẫm màu ranh giới rất
rõ với da lành, số lượng thường chỉ 1 hoặc vài tổn thương.
Xuất hiện lại tại đúng vị trí lần trước, sau khi uống thuốc
khoảng 30 phút đến 8 giờ kèm theo cảm giác nóng rát
hoặc châm chích tại vị trí tổn thương. Các thuốc thường
gây dị ứng loại này là: tetracycline, sulfonamide,
NSAIDs, paracetamol, phenolphthalein và barbiturat

×