Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Điều trị kháng sinh… chủ yếu theo kinh nghiệm! pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.62 KB, 5 trang )

Điều trị kháng sinh… chủ yếu
theo kinh nghiệm!
Trong miệng có hơn 500 vi khuẩn gây bệnh
Một số thường được phân lập trong nhiễm khuẩn do
răng và được xem là vi khuẩn gây bệnh như
S.viridans, staphylococcus, peptostreptococcus,
fusobacterium, prevotella…Theo nghiên cứu của
TS.BS. Nguyễn Thị Hồng, nhiễm khuẩn quanh chóp
răng hay mô nha chu tiến triển có thể lan vào trong
mô mềm vùng hốc miệng, mặt, cổ dẫn đến viêm mô
tế bào. Viêm mô tế bào xảy ra ở nam nhiều hơn nữ,
thường gặp nhất từ 20 - 40 tuổi (52,6%). Đa số răng
nguyên nhân ở hàm dưới (73,7%), vùng răng sau
(94,7%) phổ biến nhất của viêm mô tế bào (57,9%),
xảy ra ở răng bị chết tủy thường do sâu răng hoặc có
thể do chấn thương. Ngoài ra, viêm mô tế bào còn
do áp-xe quanh thân răng (42,1%), hầu hết ở răng 8
dưới do thường mọc lệch hay kẹt.

Ảnh minh họa
Việc điều trị kháng sinh đối với viêm mô tế bào do
răng và NKDR thường dựa theo kinh nghiệm, vì xét
nghiệm vi khuẩn và kháng sinh đồ phải chờ nhiều
ngày mới có kết quả. Việc điều trị kháng sinh chủ
yếu dựa theo kinh nghiệm đã dẫn đến nhiều loại
kháng sinh đã bị kháng. Cụ thể, hiệu quả điều trị của
thuốc metronidazole giảm 54%, spiramycin giảm
41,8%, azithromycin giảm 53,8% nếu sử dụng riêng
lẻ. Đáng chú ý là trực khuẩn kỵ khí thường kết hợp
với vi khuẩn hiếu khí đã đề kháng cao với
ampicillin, penecilin (hiệu quả giảm trên 71%). Theo


BS. Huỳnh Anh Lan, nguyên nhân khiến vi khuẩn
kháng thuốc kháng sinh là do người dân lạm dụng
kháng sinh, một số bác sĩ kê toa tùy tiện hoặc không
hợp lý…
Kháng sinh: cho dư còn hơn thiếu!
Theo BS. Huỳnh Anh Lan, kháng sinh là một nhóm
thuốc chủ lực trong ngành y tế nói chung và trong
thực hành răng hàm mặt đó là một vũ khí không thể
thiếu để điều trị nhiễm khuẩn răng miệng. Ghi toa
thuốc kháng sinh là công việc thường ngày của bác
sĩ răng hàm mặt. Tuy nhiên, những điều tra trên thế
giới và tại Việt Nam cho thấy việc này chưa hẳn
được thực hiện một cách đúng đắn. Trong những
năm gần đây trên thế giới đã có sự báo động một số
chủng vi khuẩn gây bệnh vùng miệng đã bớt nhạy
cảm với các kháng sinh thông dụng trong răng hàm
mặt và bên cạnh đó một số kháng sinh đã nhanh
chóng bị kháng thuốc mặc dù mới đưa vào điều trị.
Bác sĩ răng hàm mặt ghi toa thuốc kháng sinh trong
thực hành hàng ngày nhưng có khi chưa ý thức đúng
mức kháng sinh là một nhóm thuốc đặc biệt so với
những thuốc khác. BS. Anh Lan nói rõ, trong thực
hành răng hàm mặt, kháng sinh chỉ được sử dụng
trong 2 chỉ định là kháng sinh điều trị và kháng sinh
dự phòng. Có nghĩa là chỉ sử dụng kháng sinh khi có
nhiễm khuẩn hay thực sự có nguy cơ nhiễm khuẩn.
Không phải mọi trường hợp sốt hay viêm nhiễm đều
do vi khuẩn. Đối với nhiễm virút, cho đến nay vẫn
chưa có chứng cứ nào cho thấy kháng sinh có khả
năng ngăn ngừa nhiễm khuẩn thứ cấp. Mặt khác,

trong thực hành răng hàm mặt không phải trường
hợp nhiễm khuẩn nào cũng giải quyết bằng kháng
sinh mà cần nghĩ nhiều hơn đến vai trò rất quan
trọng của những thủ thuật mở tháo, dẫn lưu và sử
dụng những tác nhân kháng khuẩn tác dụng tại chỗ
(nước súc miệng, thuốc thoa, dung dịch bơm rửa,
thuốc đặt trong rãnh nướu…).
BS. Huỳnh Anh Lan cho rằng, trong trường hợp
kháng sinh điều trị, chọn lựa kháng sinh thích hợp
nhất cho từng trường hợp tùy thuộc rất nhiều yếu tố.
Nhưng có thể gộp lại thành 4 nhóm yếu tố: yếu tố
thuộc tác nhân gây bệnh, tác nhân thuộc cơ địa
người bệnh, yếu tố thuộc về thuốc kháng sinh và yếu
tố thuộc về môi sinh xã hội. Riêng về kháng sinh
phòng ngừa, BS. Anh Lan nói thẳng, các bác sĩ răng
hàm mặt thường lúng túng đối với việc ghi toa thuốc
kháng sinh phòng ngừa: chỉ định trong tình huống
nào, liều lượng, thời gian, loại kháng sinh nào… cho
nên có xu hướng cho dư còn hơn thiếu để “chắc ăn”.
Kháng sinh phòng ngừa khác với kháng sinh điều trị,
không phụ thuộc vào tác nhân gây nhiễm khuẩn và
không cần chọn lựa kháng sinh thích hợp mà chủ
yếu theo mô thức. Mô thức này được quy định do cơ
địa người bệnh và tính chất xâm lấn (hay gây chảy
máu) của can thiệp. Các mô thức của kháng sinh
phòng ngừa được chọn tùy theo 3 loại cơ địa: khỏe
mạnh, có nguy cơ nhiễm khuẩn tại chỗ và nguy cơ
nhiễm khuẩn ở xa. Các loại can thiệp được xem là
xâm lấn trong thực hành răng hàm mặt bao gồm: nhổ
răng, điều trị nha chu, đặt implant/tái cấy ghép răng,

thao tác nội nha quá chóp, đặt kháng sinh tại chỗ
dưới nước… BS. Lan cũng cho biết, hiện nay kháng
sinh phòng ngừa đang được xem xét lại về hiệu quả,
có thực sự bảo vệ người bệnh hay chỉ có tác dụng
làm cho thầy thuốc an tâm và ngược lại có khi trở
thành ỷ lại và bớt chú trọng đến các biện pháp chống
lây nhiễm khác

×