Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dùng thuốc tăng cường miễn dịch thế nào? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.8 KB, 5 trang )

Dùng thuốc tăng cường miễn
dịch thế nào?
Miễn dịch là khả năng phản ứng của cơ thể chống lại tác
nhân gây bệnh. Khi đáp ứng miễn dịch bị suy giảm như
do già yếu, dinh dưỡng kém, bệnh tật cần dùng thuốc
tăng cường miễn dịch.
Hệ miễn dịch gồm các yếu tố miễn dịch cytokin,
interleukin điều tiết tế bào miễn dịch (qua sự kích hoạt,
ức chế). Cơ thể đáp ứng miễn dịch bằng cách: tiết ra
kháng thể đặc hiệu trung hòa khả năng gây nhiễm khi vi
sinh chưa thâm nhập vào tế bào hoặc tiết ra kháng thể đặc
hiệu tiêu diệt vi sinh khi mới sơ nhiễm.

Các thuốc tăng cường miễn dịch

Vaccin chủ động tạo ra miễn dịch
- Vaccin phòng vi sinh: là vi sinh được giảm hoạt lực hay
gen kháng nguyên chiết từ vi sinh khi tiêm vào cơ thể, hệ
thống miễn dịch sẽ nhận diện, ghi nhớ kháng nguyên và
sản xuất ra kháng thể đặc hiệu. Đây là cách chủ động tạo
ra miễn dịch.
- Vacin chống ung thư: tổng hợp ra một phân tử, rồi gắn
vào bề mặt chất chỉ điểm đặc hiệu của một loại tế bào ung
thư nhất định làm cho bề mặt phân tử ấy có hình thái
giống với bề mặt tế bào ung thư. Dùng nó như một kháng
nguyên nhân tạo để điều chế vaccin. Ví dụ, vaccin chống
ung thư phổi (Cima Vax EGF- Cuba, 2007), vaccin chống
ung thư nguyên bào xốp đa hình thái (GMB - Mỹ, 1998)
đều làm tăng miễn dịch bằng cách tạo ra các kháng thể
đặc hiệu chống ung thư (làm chậm sự tiến triển, nâng cao
chất lượng, kéo dài thời gian sống cho người bệnh).



Vaccin tạo miễn dịch phòng
chống ung thư.
Thuốc tăng cường miễn dịch
Các thuốc này có tác dụng tăng cường miễn dịch bằng
cách tăng các chức năng hoạt động chung của cơ thể, làm
cho cơ thể mạnh lên, từ đó tăng đáp ứng miễn dịch hoặc
hoạt hóa các cytokin, interleukin làm cho tế bào miễn
dịch tiết ra nhiều kháng thể.
- Interferon: là cytokin tự nhiên, điều tiết miễn dịch bằng
cách tăng hoạt tính đại thực bào, tăng tính độc hại tế bào
đặc thù của tế bào miễn dịch đối với các tế bào đích và
chống virut, chống ung thư bằng cách ức chế sự sao chép
virut, ngăn chặn sự nhân đôi, chống tăng sinh tế bào. Các
interferon sinh tổng hợp giống như interferon tự nhiên,
dùng để tăng miễn dịch chống virut (như trong điều trị
viêm gan B mạn, viêm gan C mạn); ngăn cản sự phát triển
ung thư (như trong điều trị bệnh bạch cầu mạn dòng tủy,
bệnh đa u tủy xương…).
- Một số vitamin: Có 80 bệnh liên quan đến gốc tự do và
100 loại hóa chất tích tụ trong mỡ làm suy giảm miễn
dịch. Một số vitamin E, C, beta-caroten có tính năng
chống gốc tự do nên tăng cường miễn dịch. Vitamin C
tan trong nước, khử gốc tự do ngay khi chúng ở tại dịch
ngoài tế bào.Vitamin E, beta-caroten tan trong dầu, khử
gốc tự do tại màng lipid của tế bào. Mỗi loại còn có cơ
chế riêng: beta-caroten trực tiếp làm tăng tế bào T của hệ
miễn dịch nên tăng sự sản xuất kháng thể. Vitamin C có
chức năng tạo miễn dịch, đồng thời tham gia vào nhiều
chức năng hoạt động (sinh năng lượng, trung hòa chất

độc, tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh, tăng hấp thu
canxi, sắt ) làm cơ thể mạnh lên, tăng đáp ứng miễn
dich.
- Một số nguyên tố vi lượng: có vai trò tăng cường miễn
dịch, ví dụ: kẽm có trong thành phần của 80 loại enzym
trong cơ thể, giúp tăng trưởng, làm cơ thể mạnh lên, từ đó
tăng đáp ứng miễn dịch. Kẽm cùng với vitamin A, B
6
, E
giúp tuyến ức (thymus) tăng khả năng miễn dịch. Khi
thiếu kẽm (dưới 70mcg/100ml máu) trẻ sẽ bị thấp, nhẹ
cân, dễ bị bệnh, cần bổ sung kẽm đến ngưỡng. Hay selen
cũng là vi chất tham gia vào nhiều quá trình sinh học,
trong đó có quá trình điều khiển tổng hợp globulin miễn
dịch, chống gốc tự do. Thiếu selen sẽ suy giảm miễn
dịch, dễ bị bệnh.
- Dược thảo có tác dụng tăng cường miễn dịch: các loại
thực phẩm như tỏi, hành, kinh giới rất giàu chất
flavonoid và giúp ngăn ngừa sự phát triển của các siêu vi
trong cơ thể và sự tạo các gốc tự do. Tỏi đã được sử dụng
như một gia vị và “thuốc” có khả năng kháng khuẩn,
kháng nấm, kháng siêu vi trùng và ký sinh trùng cùng với
tác dụng tăng sức đề kháng, rất hiệu quả trong các bệnh
cảm cúm, viêm nhiễm đường hô hấp, ho gà và đã được
chứng minh là có tác dụng tăng số lượng tế bào miễn dịch
T- killer tự nhiên. Kinh giới đã được nhân dân ta sử dụng
từ bao đời nay làm thuốc giải cảm, giảm sốt, chống dị
ứng.
Dùng thuốc như thế nào?
Đối với các vitamin và khoáng chất nên bổ sung bằng

thực phẩm: ăn nhiều rau xanh, hoa quả…). Chỉ bổ sung
bằng thuốc cho những cơ thể bị thiếu các chất này. Vì nếu
bổ sung thừa sẽ gây nên các hậu quả do thừa các chất đó
hoặc sẽ gây rối loạn trong cơ thể. Ví dụ, thừa canxi thai
nhi sẽ bị cốt hóa, canxi đọng ở thận gây sỏi thận, đọng ở
mạch máu góp phần gây xơ vữa mạch máu và nguy cơ
tăng huyết áp; đọng ở vỏ não (ở người già trên 70 tuổi)
góp phần gây nguy cơ mắc hội chứng Alzheimer.
Đối với các interferon chỉ dùng khi thật cần thiết, dùng
đúng thời điểm. Ví dụ, chỉ dùng interferon khi virut viêm
gan B đang sinh sôi, có dấu hiệu lâm sàng; chứ không
dùng khi cơ thể đã có đủ miễn dịch tự nhiên, khống chế
làm cho virut nằm im, không sinh sôi, không có triệu
chứng lâm sàng

×