Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

bài tiểu luận pháp luật đại cương docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.29 KB, 11 trang )

Mục lục Trang
A. Mở đầu ……………………………………………………………………………2
B. Nội dung
I. Luật dân sự và đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự………………….3
1. Luật dân sự……………………………………………………………………….3
2. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự………………………………… 3
2.1. Quan hệ tài sản……………………………………………………………….3
2.2. Quan hệ thân nhân phi tài sản………………………………………………3
II. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật dân sự……………………………….3
1. Khái niệm phương pháp điều chỉnh của dân luật…………………………… 3
2. Đặc điểm………………………………………………………………………….4
2.1 Bình đẳng giữa các chủ thế về phương diện pháp lí……………….4
a) Thế nào là bình đẳng về phương diện pháp lí……………… 4
b) Biểu hiện bình đẳng về phương diện pháp lí…………………4
2.2 Quyền tự định đoạt của các chủ thể……………………………… 5
a) Thế nào là quyền tự định đoạt……………………………… 5
b) Biểu hiện quyền tự định đoạt………………………………….5
2.3 Trách nhiệm tài sản………………………………………………… 6
a) Thế nào là trách nhiệm tài sản……………………………… 6
b) Biểu hiện trách nhiệm tài sản…………………………………7
2.4 Tự thỏa thuận và hòa giải khi có tranh chấp……………………….7
2.5 Bảo vệ quyền lợi bị vi phạm bằng cách kiện tới tòa án……………. 8
C. Kết luận……………………………………………………………………………9
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………… 10
1
MỞ ĐẦU
Mỗi ngành luật trong một hệ thống pháp luật không những có đối tượng điều chỉnh
riêng biệt, mà còn có cả phương pháp điều chỉnh với những đặc trưng riêng. Phương pháp điều
chỉnh của một ngành luật cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để phân biệt ngành luật
này với các ngành luật khác. Phương pháp điều chỉnh trong một chừng mực nhất định có tính
chất chủ quan và phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. Tuy nhiên, trong các quan hệ dân sự, nhà


nước không thể tùy tiện đặt ra các phương pháp, cách thức tác động lên các quan hệ dân sự thế
nào cũng được.
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật phụ thuộc khách quan vào tính chất và đặc
điểm các quan hệ xã hội do ngành luật đó điều chỉnh. Với sự đa dạng về các quan hệ trong đối
tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của luật dân sự được lựa chọn trên cơ sở bản chất
và đặc điểm của các quan hệ tài sản và quan hệ thân nhân.Cơ sở để xác lập các quan hệ dân sự
là: tự nguyện, bình đẳng, giữa các chủ thể và quyền tự do, tự nguyệncam kết, thỏa thuận
của các chủ thể trong giao lưu dân sự. Các chủ thể của luật dân sự còn có quyền thỏa thuận
với nhau về cả những nội dung chưa (hoặc không) được quy định trực tiếp trong bộ luật dân
sự.
2
I. Luật dân sự và đối tượng điều chỉnh của luật dân sự:
1. Luật dân sự:
Luật dân sự là ngành luật điều chỉnh các quan hệ dân sự , thương mại , hôn nhân và gia
đình giữa công dân với các tổ chức trong nhà nước xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc các bên
bều bình đẳng với nhau về mặt pháp lí.
2. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự:
2.1 Quan hệ tài sản.
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người gắn liền với tài sản. Quan hệ tài sản
gồm có quan hệ sở hữu, quan hệ về mua bán hàng hóa, thuê mướn, tặng biếu, thừa kế….
Đặc điểm:
• Là quan hệ giữa người với người gắn liền với tài sản.
• Là quan hệ có ý chí
• Là quan hệ mang tính chất hàng hóa tiền tệ.
2.2 Quan hệ nhân thân phi tài sản.
Quan hệ nhân thân phi tài sản là quan hệ không mang tính chất tài sản và gắn liền với
nhân thân của một người cố định. Đó là quan hệ về danh dự, quan hệ về quyền nhân thân của
tác giả với tác phẩm, phát minh, sáng chế v.v…
Đặc điểm:
• Là quan hệ mà khách thể củ nó gắn liền với nhân thân của một người nhất định.

• Là quan hệ không có giá trị kinh tế.
II. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật dân sự.
1 . Khái niệm phương pháp điều chỉnh của dân luật.
Phương pháp điều chỉnh của dân luật là những biện pháp mà Nhà nước dùng để tác
động đến cách cư xử của những người tham gia vào quan hệ dân sự (quan hệ tài sản và quan
3
hệ nhân thân) nhằm hướng cho các hành vi của họ tuâ thủ đúng các quy phạm dân luật.
Nhờ có sự sự tác động này, các quan hệ tài sản và quan hệ thân nhân đã phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt theo ý chí của chủ thể trên cơ sở ý chí của Nhà nước được thể hiện trong
các quy phạm pháp luật dân sự cụ thể hoặc theo một trật tự nhất định.
2.Đặc điểm:
Do tính chất đặc thù về đối tượng, phương pháp điều chỉnh của pháp dân sự có những
đặc điểm sau đây:
2.1. Bình đẳng giữa các chủ thể về phương diện pháp lý.
a) Thế nào là bình đẳng về phương diện pháp lí:
Bình đẳng về địa vị pháp lí tức là không có sự phân biệt nào về địa vị xã hội, tình trạng
tài sản, giới tính, dân tộc giữa các chủ thể….
b) Biểu hiện bình đẳng về phương diện pháp lí:
+ Điều kiện gắn liền là các chủ thể độc lập về tổ chức và tài sản
+ Không phân biệt thành ph`n xã hội, tình hình tài sản….
+ Không áp đặt quyền uy cho nhau.
Trong mọi quan hệ dân sự, yếu tố bình đẳng giữa các chủ thể về phương diện pháp lý là
một đặc điểm có tính chất đặc trưng.Trong giao lưu dân sự không có phân biệt: địa vị xã hội,
tình trạng tài sản, dân tộc, giới tính, tôn giáo… không bên nào được ra lệnh cho bên nào; chủ
thể trong các giao dịch dân sự cụ thể luôn độc lập với nhau và không phụ thuộc vào chủ thể
khác.
Ví dụ: Sẽ không có sự phân biệt nào giữa một người có chức danh giám đốc của một
công ty và bảo vệ của công ty đó cùng đi mua xe máy tại một cửa hàng bán xe máy. Vị tổng
giám đốc và người bảo vệ công ty có quyền và nghĩa vụ giống nhau (quyền và nghĩa vụ của
người mua hàng) và cửa hàng sẽ không có sự phân biệt nào.

Đồng thời, các bên đều độc lập về tổ chức và tài sản. Độc lập về tổ chức có nghĩa là
không có sự phụ thuộc vào quan hệ cấp trên – cấp dưới, các quan hệ hành chính khác. Còn độc
lập về tài sản tức là khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, các cá nhân, tổ chức hoàn toàn
độc lập với nhau. Không có sự nh`m lẫn hay đấnh đồng giữa tài sản của cá nhân, tổ chức.
4
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật dân sự. Điều 5 Bộ luật dân sự đã quy
định: “ Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lí do khác biệt về dân
tộc, giới tính, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau”.
Tính chất độc lập và bình đẳng giữa các chủ thể về tài sản và quyền tự định đoạt của
các chủ thể là yếu tố quan trọng. Bởi lẽ, các quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh luôn có
tính chất hàng – tiền tệ. Muốn thực hiện được việc “trao đổi ngang giá” và “đền bù tương”
trong các giao dịch có tính chất hàng hóa – tiền tệ, thì mỗi chủ thể phải thực sự bình đẳng, có
quyền tự định đoạt theo ý chí của mình trên cơ sở độc lập về tài sản.Không có sự bình đẳng,
độc lập về tài sản và chủ thể không có quyền tự định đoạt, thì cũng không thể thực hiện được
tính chất đền bù tương đương – ngang giá trị.
Ngoài ra, sự bình đẳng và độc lập về tài sản của các chủ thể trong giao lưu dân sự còn
được thể hiện ngay cả trong trường hợp khi mà giữa các chủ thể còn có mối liên hệ không có
tính chất bình đẳng (như trong quan hệ hành chính, lao động ….)Dù rằng có sự “phụ thuộc”
trong các quan hệ khác, nhưng đã thỏa thuận xác lập với nhau một giao dịch dân sự, thì các
chủ thể vẫn có quyền bình đẳng và độc lập.
Điều đó chứng tỏ rằng, yếu tố bình đẳng và độc lập của các chủ thể trong giao lưu dân
sự có tính chất tuyệt đối.Nếu không đảm bảo tính chất bình đẳng và độc lập giữa các chủ thể,
thì đó không phải là quan hệ dân sự; hoặc nếu có được xác lập, thì giao dịch dân sự đó cũng có
thể bị coi là vô hiệu.
2.2. Quyền tự định đoạt của các chủ thể
Quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia giao lưu dân sự luôn được bảo đảm.
a)Thế nào là quyền tự định đoạt?
Tự định đoạt có nghĩa tự do ý chí và thể hiện ý chí khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật dân sự.
b) Biểu hiện quyền tự định đoạt:

Các chủ thể có quyền tự do lựa chọn quan hệ họ muốn tham gia.
• Các chủ thể có toàn quyền thỏa thuận và quyết định việc lựa chọn biện pháp,
cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự trong các giao dịch dân sự cụ thể.
• Các chủ thể lựa chọn và thỏa thuận với nhau về các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, cách thức xử lí tài sản khi có sự vi phạm.
• Các chủ thể có quyền tự do lựa chọn chủ thể tham gia quan hệ dân sự với mình.
5
Có thể thấy rằng đây là sự thể hiện tiếp theo của tính chất bình đẳng giữa các chủ thể
trong giao lưu dân sự. Các quan hệ pháp luật dân sự suy cho cùng là việc việc thực hiện những
mục đích, động cơ theo ý chí và mong muốn của mỗi chủ thể trong giao dịch dân sự .Vì vậy,
việc tham gia vào các giao dịch cụ thể nhất định là do chủ thể tự quyết định căn cứ vào khả
năng, mục đích và nhu c`u của chủ thể đó. Nghĩa là, các chủ thể có quyền tự do lựa chọn
quan hệ họ muốn tham gia, tự do lựa chọn chủ thể tham gia quan hệ dân sự với mình.
Quyền tự định đoạt của chủ thể còn được thể hiện: các chủ thể có toàn quyền thỏa
thuận và quyết định việc lựa chọn biện pháp, cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự trong các giao dịch dân sự cụ thể. Pháp luật dân sự còn cho phép các chủ thể tự mình đặt
ra ( trong các trường hợp pháp luật chưa có quy định) biện pháp, cách thức thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự; thỏa thuận với các chủ thể khác nhau về các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ ( theo các quy định chung tại mục 5 chương XVII ph`n thứ ba của Bộ luật dân sự );
hình thức trách nhiệm pháp lí khi có sự vi phạm cách thức áp dụng trách nhiệm dân sự ….khi
một bên đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đ`y đủ nội dung các điều
khoản mà họ đã tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Quyền tự định đoạt của các chủ thể được dân sự tôn trọng và bảo vệ. Các chủ thể được thể
hiện quyền này theo sự tùy nghi và theo ý chí của mình, nhưng phải chú ý tới các yêu c`u của pháp
luật về giới hạn các quyền đối với từng loại chủ thể khác nhau. Về nguyên tắc, các chủ thể của luật dân
sự được quyền tự định đoạt, tự do lựa chọn cách thức biện pháp thực hiện quyền dân sự và nghĩa vụ
dân sự, nhưng quyền tự định đoạt đó không phải là hoàn toàn không bị một giới hạn nào. Giới hạn
quyền của chủ thể trong giao dịch dân sự chính là: “Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (theo Điều 10 Bộ luật dân sự). Trong giao
lưu dân sự, các chủ thể có quyền tự do cam kết thỏa thuận, nhưng “mục đích và nội dung của giao dịch

không trái pháp luật, đạo đức xã hội (khoản 1 điều 122 của Bộ luật dân sự ).
Sự định đoạt có hiệu lực của chủ thể có giá trị bắt buộc đối với tất cả các chủ thể trong quan hệ,
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Quyền tự định đoạt của chủ thể trong giao lưu dân sự cũng được
bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước cũng được quy định tại Điều 4 Bộ luật dân sự: “Mọi
cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân,
pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
Ngoài ra, khi xác lập quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự các chủ thể còn phải tuân theo
các căn cứ, cách thức, trình tự thủ tục do Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác quy
định.Giao dịch dân sự khi xác lập không được trái với các nguyên tắc cơ bản của bộ luật dân
sự khi xác lập, không được trái với các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự (Điều 127 Bộ
luật dân sự).
2.3. Trách nhiệm tài sản.
a) Thế nào là trách nhiệm tài sản
6
Trách nhiệm tài sản chính là trách nhiệm của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật
dân sự khi hành vi của họ đã gây ra thiệt hại (gồm cả cả những thiệt hại về vật chất và tinh
th`n) và có đủ các điều kiện theo yêu c`u của pháp luật dân sự.
b) Biểu hiện trách nhiệm tài sản
• Bồi thường bằng tiền
• Khắc phục những hậu quả về mặt vật chất như sửa chữa, đổi, thay thế, bằng các
tài sản cùng loại.
Trách nhiệm tài sản cũng là đặc trưng về trách nhiệm pháp lí trong phương pháp điều
chỉnh của luật dân sự. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự chủ yếu là các quan hệ tài sản có
tính chất hàng hóa – tiền tệ và những quan hệ nhân thân, nên sự vi phạm của một bên có thể
dẫn đến sự thiệt hại về tài sản hoặc tinh th`n cho cho phía bên kia. Người bị thiệt hại có quyền
yêu c`u người gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về vật chất. Trong việc bảo vệ quyền
thân nhân, luật cũng quy định : khi người có quyền nhân thân bị vi phạm họ cũng có quyền
yêu c`u bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh th`n (Điều 27 Bộ luật dân sự). Điều
302 của Bộ luật dân sự còn quy định: “Người có nghiã vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện
mà đúng nghĩa vụ, thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người có quyền”. Đây là những

tiền đề pháp lí để các bên có trách nhiệm với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tài
sản, vì vậy trách nhiệm dân sự cũng thường là trách nhiệm tài sản.
Trong luật dân sự, trách nhiệm pháp lí có thể do luật dân sự quy định hoặc do các chủ
thể tự cam kết, thỏa thuận với nhau khi xác lập giao dịch dân sự. Nhưng dù được hình thành từ
cơ sở nào, chúng đều có giá trị pháp lí ngang nhau trong quá trình áp dụng. Đây là đặc trưng
cơ bản chỉ có trong pháp luật dân sự. Trách nhiệm pháp lí do pháp luật quy định hoặc do chủ
thể cam kết, thỏa thuận trong các giao dịch dân sự cụ thể khi được áp dụng bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước đều có nội dung tài sản với mục đích nhằm: khôi phục lại tình trạng
ban đ`u (tình trạng trước khi có sự vi phạm) hoặc nhằm khắc phục những hậu quả xấu về tài
sản và tinh th`n cho các bên chủ thể bị vi phạm.
2.4. Tự thỏa thuận và hòa giải khi có tranh chấp.
+ Các chủ thể tự thỏa thuận để giải quyết tranh chấp;
Trong giao lưu dân sự các chủ thể có quyền bình đẳng, quyền tự định đoạt khi cam kết,
thỏa thuận xác lập giao dịch dân sự, nên đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp
dân sự là: tự thỏa thuận và hòa giải
+ Các chủ thể có thể giải quyết qua vai trò hòa giải của các cơ quan, tổ chức, cá nhân do
họ thỏa thuận hoặc theo qui định pháp luật (Ví dụ: hòa giải theo thủ tục tố tụng tại Tòa án);
Khi có tranh chấp, các bên không tự hòa giải và thỏa thuận với nhau được, thì các cơ
7
quan nhà nước có thẩm quyền vẫn tiếp tục hòa giải để các bên tự nguyện chấp hành
nghĩa vụ.
+ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế c`n thiết
theo trình tự, thủ tục luật định để giải quyết các tranh chấp dân sự mà các chủ thể không có
hoặc không thể thỏa thuận hoặc hòa giải.
Khi không thể hòa giải được nữa thì các cơ quan có thẩm quyền mới áp dụng đếnn các
biện pháp cưỡng chế. Pháp luật dân sự nghiêm cấm không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực trong trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự (Điều 12 Bộ luật dân sự). Việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhất thiết phải thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
thực hiện theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2.5. Bảo vệ quyền lợi bị vi phạm bằng cách kiện tới tòa án hoặc trọng tài.

Khi các bên không thể thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau được, thì bên có có quyền bị
xâm hại (bao gồm quyền tài sản và các quyền nhân thân) có quyền khởi kiện bằng đơn kiện
theo quy định của luật tố tụng dân sự để yêu c`u Tòa án bảo vệ. Cơ quan bảo vệ quyền lợi bị
vi phạm của các bên đương sự trong quan hệ dân sự là tòa án hoặc trọng tài.
Trong đơn khởi kiện để yêu c`u Tòa án bảo vệ, người có quyền bị xâm hại phải nêu rõ
sự vi phạm của người kia và các yêu c`u của mình; người khởi kiện có trách nhiệm cung cấp
những chứng cứ c`n thiết liên quan đến việc khởi kiện nhằm tạo thuận lợi cho quá trình chứng
minh khi giải quyết tranh chấp. Trong tố tụng dân sự, chứng minh là nghĩa vụ của các đương
sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nếu quan hệ đó đúng thẩm quyền giải quyết,
Tòa án sẽ thụ lí và giải quyết để khôi phục lại các quyền đã bị xâm phạm, khắc phục những
hậu quả xấu về tài sản. Người bị khiếu nại có các quyền đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp
của quyết định hoặc việc làm bị khiếu nại, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét lại quyết định của cơ quan đã giải quyết. Người bị khiếu nại có nghĩa vụ xem lại quyết
định hoặc việc làm bị khiếu nại của mình và trả lời cho người khiếu nại bằng văn bản , chấp
hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại.
Quyền khởi kiện theo trình tự tố tụng dân sự tại tòa án là quyền tố tụng có ý nghĩa thực
tế của mỗi công dân, tổ chức. Đây là phương tiện pháp lí quan trọng bảo đảm cho các chủ thể
của pháp luật dân sự sử dụng trong những trường hợp c`n thiết để bảo vệ các quyền, lợi ích
của mình khi bị xâm phạm.
8
Kết luận
Trên đây là những nghiên cứu của tôi về đề tài phương pháp điều chỉnh của ngành luật
dân sự. Bài tiểu luận đã làm rõ được các vấn đề liên quan. Phương pháp điều chỉnh của ngành
luật dân sự được lựa chon dựa trên cơ sở bản chất và đặc điểm của các quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân phi tài sản. Phương pháp điều chỉnh của dân luật đã hướng cho các hành vi của
các chủ thể tham gia quan hệ dân sự tuân thủ đúng các quy phạm Dân luật. Nó có vai trò quan
trọng giúp Nhà nước thế hiện ý chí của mình.
Vì thời gian có hạn cũng như năng lực cá nhân hạn chế nên bài tiểu luận không thể
tránh khỏi những sai sót nên mong các bạn góp ý kiến để tôi có thể hoàn thiện bài tiêu luận của
mình.

9
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật dân sự năm 2005.
2. GS.TS.NGND. Nguyễn Thị Mơ ; PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết. Giáo trình pháp lí
đại cương . Nhà xuất bản Giáo Dục năm 2008 trang 52, 53, 54, 55.
3. TS. Đinh Văn Thanh; TS Phạm Văn Tuyết. Viện đại học mở Hà Nội khoa luật.
Giáo trình luật dân sự tập I. Nhà xuất bản Tư Pháp năm 2004 ttrang 20, 21, 22,
23, 24, 25.
4. forum.ueh.vn/forums/144-Pháp-Luật-Đại-Cương
10

×