Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cách nhận biết và phòng bệnh ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.39 KB, 6 trang )

Cách nhận biết và phòng bệnh
Thiếu máu dinh dưỡng là một trong những loại bệnh rất phổ biến trên thế
giới, nhất là ở những nước đang phát triển. Theo thống kê của Viện Dinh
dưỡng, hiện nay tỉ lệ thiếu máu ở nước ta còn rất cao, nhất là ở vùng nông
thôn, miền núi: ở phụ nữ có thai (30-45%), phụ nữ tuổi sinh đẻ (25-35%) và
trẻ em nhỏ (40-50%), trong đó chủ yếu là thiếu máu do thiếu sắt, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thể chất, trí tuệ ở trẻ em và nhiều biến
chứng nguy hiểm khác ở phụ nữ có thai.
Thiếu dinh dưỡng gây thiếu máu
Thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng
hemoglobin trong máu xuống thấp hơn ngưỡng quy định do thiếu một hay
nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu do bất kể lý do gì.
Thiếu máu dinh dưỡng chủ yếu do thiếu sắt là vì sắt cần thiết cho quá trình
tạo hemoglobin.

Hàm lượng hemoglobin thấp gây thiếu máu.
Nguyên nhân gây thiếu máu dinh dưỡng là do thiếu thực phẩm giàu sắt. Có
mặt nhiều chất ngăn cản hấp thu sắt. Thiếu các thành phần tăng cường hấp
thu sắt. Ăn bổ sung không đúng và không hợp lý: sớm quá hoặc muộn quá,
thực phẩm bổ sung quá nghèo nàn, thiếu các chất dinh dưỡng cần cho tạo
máu, đặc biệt là thiếu sắt. Tăng nhu cầu dinh dưỡng khi có thai, cơ thể trẻ
em, vị thành niên. Mất máu khi hành kinh, khi sinh đẻ. Nhiễm trùng, nhiễm
ký sinh trùng.
Những đối tượng dễ mắc
Những đối tượng có nguy cơ cao thiếu máu dinh dưỡng bao gồm: phụ nữ
mang thai, phụ nữ sau khi sinh, trẻ đẻ non, nhẹ cân hoặc không được nuôi
bằng sữa mẹ. Trẻ em bị suy dinh dưỡng. Trẻ em ở tuổi vị thành niên, nhất là
trẻ em gái. Những người già, nhất là những người nghèo.
Những người bị thiếu máu dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ có thai
chiếm tỷ lệ cao ở những vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, bữa ăn nghèo nàn, đơn


điệu, thiếu thức ăn giàu chất sắt như thịt, trứng, cá, thủy sản, đậu đỗ; hay
nhiễm ký sinh trùng nhất là nhiễm giun móc, sốt rét. Bên cạnh đó kiến thức
về dinh dưỡng hợp lý để đảm bảo cho sự tăng trưởng ở trẻ em và sức khỏe
cho phụ nữ có thai ở những vùng này còn hạn chế cũng là một trong những
nguyên nhân quan trọng gây thiếu máu dinh dưỡng. Điều đó giải thích
nguyên nhân tại sao các trường hợp thiếu máu gặp nhiều hơn ở vùng nông
thôn, miền núi và các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.

Cần bổ sung các loại thực phẩm giàu chất sắt.
Tác hại của thiếu máu
Thiếu máu gây nhiều tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe: Trẻ em bị thiếu
máu kém phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Học sinh bị thiếu máu trong lớp
hay ngủ gật, giảm trí nhớ, kết quả học tập kém. Thiếu nữ bị thiếu máu
thường mệt mỏi, sức khỏe yếu, dễ bị thiếu máu trầm trọng khi có thai. Phụ
nữ có thai bị thiếu máu dễ bị sảy thai, đẻ non dễ bị thiếu máu, người mẹ dễ
bị tăng huyết áp và các tai biến khác khi sinh đẻ.
Dấu hiệu nhận biết

Người bị thiếu máu thường mệt mỏi, hoa mắt chóng
mặt.
Những biểu hiện của thiếu máu dinh dưỡng thường có các triệu chứng
không rõ ràng. Người bị thiếu máu thường mệt mỏi, mất ngủ, kém tập trung,
hoa mắt, chóng mặt, khó thở khi lao động gắng sức, da xanh xao, niêm mạc
mắt, lợi và da lòng bàn tay nhợt nhạt Ở phụ nữ có thai có biểu hiện: da
xanh, niêm mạc nhợt, mệt mỏi, khi thiếu nặng thường có dấu hiệu chóng
mặt, tim đập mạnh. Đối với trẻ nhỏ, tùy theo mức độ bệnh có thể có các biểu
hiện: Mệt mỏi, quấy khóc, vật vã, ngủ ít. Biếng ăn, chậm tăng cân, gầy ốm.
Da xanh. Tóc gãy, dễ rụng, bạc màu. Móng tay móng chân dẹp, biến dạng.
Chậm biết ngồi, biết đứng, biết đi, bắp thịt nhão, bụng chướng, đau nhức
xương

Để chẩn đoán chính xác bệnh thiếu máu người bệnh cần đi khám và làm các
xét nghiệm huyết học.
Bệnh dễ phòng
Uống bổ sung viên sắt, a xít folic, vitamin B12, là biện pháp điều trị và
phòng chống bệnh thiếu máu dinh dưỡng.
Cải thiện bữa ăn: Lựa chọn thực phẩm giàu sắt cho bữa ăn gia đình. Những
thực phẩm giàu sắt bao gồm: các loại ốc; các loại thịt như thịt bò, lợn, gan
lợn, tiết lợn; cá ngừ; lòng đỏ trứng; các loại rau như dền, ngót, muống và
các loại đậu. Dùng thêm nước mắm, bánh có bổ sung chất sắt.
Chất sắt có nguồn gốc từ động vật dễ hấp thu hơn từ thực vật. Trong bữa ăn,
nếu có rau xanh hoặc sau bữa ăn dùng thêm trái cây tươi giàu vitamin C
(cam, chanh, bưởi, táo, sơ ri, đu đủ, chuối ) sẽ giúp cơ thể hấp thu sắt tốt
hơn. Không nên uống nước trà đặc quá gần bữa ăn mà chỉ uống cách sau bữa
ăn từ 2 giờ trở đi vì chất tanin trong trà sẽ hạn chế việc hấp thu sắt.
Uống bổ sung viên sắt:
Đối với phụ nữ có thai: bổ sung 1 viên sắt (60mg sắt nguyên tố + 0,4mg
folat) hàng ngày ngay khi phát hiện có thai đến sau đẻ 1 tháng. Đối với phụ
nữ lứa tuổi sinh đẻ: uống 1 tuần/1 viên trong 16 tuần liên tục trong 1 năm.
Đối với trẻ em, trẻ nhỏ dưới 2 tuổi, trẻ đẻ non việc bổ sung viên sắt cần theo
chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ.
Để phòng chống thiếu máu thiếu sắt cho trẻ em, trước hết cần phòng chống
thiếu máu cho người mẹ từ khi trẻ còn là bào thai trong bụng mẹ, bú sữa mẹ,
đến khi bắt đầu ăn bổ sung những thức ăn đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, giàu
chất sắt. Do đó cần đặc biệt chú ý đối với phụ nữ có thai phải có chế độ dinh
dưỡng đầy đủ, lao động, nghỉ ngơi hợp lý, uống bổ sung viên sắt và a xít
folic theo đúng hướng dẫn. Sau khi sinh cần cho con bú sớm và đầy đủ. Có
chế độ dinh dưỡng hợp lý, đầy đủ, giàu chất sắt từ khi trẻ bắt đầu ăn dặm.
Cần đảm bảo vệ sinh ăn uống tốt (ăn chín, uống sôi; rửa sạch rau, trái ), vệ
sinh cá nhân (rửa tay trước khi ăn và sau khi tiêu tiểu, khi chế biến thực
phẩm, không đi chân đất ); vệ sinh môi trường nhà ở. Đó cũng là cách

phòng tránh nhiễm ký sinh trùng như giun sán, sốt rét, gây bệnh thiếu máu.

×