Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ                  ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.64 KB, 14 trang )

Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 

 

 

 

Chủ trương, biện pháp của Đảng, Chính phủ để giải quyết “giặc đói”, “giặc dốt”
và khó khăn về tài chính của Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
Trước tình hình đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, trong nước thì “giặc đói”, “giặc dốt”, khó
khăn về tài chính, nội phản hoạt động ráo riết với âm mưu lật đổ chính quyền, bên ngồi thì các thế
lực ngoại xâm từng bước lấn chiếm. Đảng, Chính phủ mới phải hết sức linh hoạt, khéo léo giải
quyết từng nhiệm vụ một để vừa giữ vững chính quyền, củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ
mới, vừa tránh một cuộc chiến tranh khốc liệt bùng nổ sớm, tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng
đủ sức đương đầu với một cuộc chiến tranh “không thể tránh khỏi của dân tộc ta.
Cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền, Đảng, Chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định nhiệm vụ bức thiết nhất lúc này là giải quyết những khó khăn do nạn đói, nạn
dốt gây ra, bởi vì dân có “ăn no thì mới đánh thắng”, dân có hiểu biết mới có thể tiếp thu được
những đường lối cũng như chủ trương, chính sách của Đảng. Giải quyết những vấn đề này trước sẽ
tranh thủ được lòng tin của nhân dân vào Nhà nước mới, chế độ mới, đây là điều kiện rất quan
trọng để chống giặc ngoại xâm. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định giặc đói và giặc dốt
chính là bạn đồng hành của giăc ngoại xâm, do đó muốn chống giặc ngoại xâm thì trước hết


phải giải quyết được giặc đói, giặc dốt, bởi vì đất nước được độc lập mà nhân dân không được
chăm lo, không được hưởng các quyền dân sinh, dân chủ thì nền độc lập đó khơng có ý nghĩa
gì.
Với tình hình đất nước hiện tại, chúng ta không thể ngay lập tức giải quyết triệt để khó
khăn của “giặc đói” và “giặc dốt”. Do vậy Đảng chủ trương giải quyết từng bước hai vấn nạn
này.
1. Giải quyết “giặc đói”
Để giải quyết “giặc đói”, trước tiên Chính phủ kêu gọi đồng bào cả nước phong trào


“Nhường cơm sẻ áo”, “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một
tấm gương trong phong trào chống giặc dốt, người kêu gọi và thực hiện “Cứ 10 ngày nhịn ăn
một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Với tinh
Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
truyền thống “lá lành đùm lá rách” , thương yêu đùm bọc lẫn nhau, các phong trào cứu đói đã
diễn ra rộng rãi và hiệu quả. Bên cạnh đó, chính phủ ban hành nhiều biện pháp hành chính để
cứu đói: Cấm dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu, cấm tích trữ gạo, thành lập Uỷ ban cứu
tế và tiếp tế để cứu đói, tích cực điều hồ thóc gạo giữa các địa phương trong toàn quốc, ra
sắc lệnh nghiêm trị những kẻ đầu cơ, tích trữ thóc gạo.
Những biện pháp trên chỉ là những biện pháp tạm thời, nếu duy trì lâu dài sẽ khơng
hiệu quả và khơng thực hiện được và không thể giải quyết vấn đề lương thực cho nhân dân.
Chính vì vậy, Đảng, chính phủ chủ trương thực hiện những biện pháp lâu dài để không chỉ giải
quyết nạn đói cho nhân dân mà cịn ổn định và phát triển ngành nơng nghiệp- ngành kinh tế
chính của nước ta. Biện pháp hàng đầu và lâu dài mà chính phủ đề ra là tăng gia sản xuất. Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “ Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí minh, phong trào thi đua sản xuất đã lan rộng khắp
cả nước với các khẩu hiệu “ Không một tấc đất tấc vàng”, “Không một tấc đât bỏ hoang”.
Bên cạnh đó, để thực hiện bồi dưỡng sức dân và nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển,
Chính phủ Cách mạng ra sắc lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vơ lí khác của chế độ cũ, ra
thơng tư giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian
chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công công bằng, dân chủ. Công tác đề điều, thủy lợi
cũng được nhà nước ta hết sức chăm lo.
Những chủ trương, biện pháp của Đảng, Chính phủ đưa ra được nhân dân hưởng ứng đã giúp
sản xuất nơng nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Đây là một thắng lợi lớn của chính quyền dân chủ nhân dân.
Đối với công nhân và các tầng lớp lao động khác, Chính phủ có chủ trương giải quyết các
quyền lợi thiết thực phù hợp với điều kiện cho phép như: Qui định ngày làm việc 8 giờ, giải
quyết việc làm cho người lao động, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân …



Những biện pháp trên đã kịp thời giải quyết những khó khăn về kinh tế và từng bước thúc
đẩy kinh tế phát triển, góp phần ổn định xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Đây là thắng lợi

Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
lớn của Chính quyền dân chủ nhân dân, tạo tiền đề để giải quyết những khó khăn khác trong
bối cảnh lúc bây giờ.
2. Diệt “giặc dốt”:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, bởi vì nếu dân tộc

đó khơng hiểu biết, khơng biết biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình sẽ không thể tham gia
vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trái lại sẽ bị kẻ thù lôi kéo, lợi dụng. Hậu quả của chính
sách đơ hộ “ngu dân” của đế quốc Pháp để lại cho nước ta quá nặng nề, chính vì vậy diệt “giặc
dốt” mà trước hết là xóa nạ mù chữ là vấn đề hết sức cấp bách.
Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập “Nha bình dân học vụ” - cơ
quan chuyên trách về chống "giặc dốt" và kêu gọi toàn dân tham gia xoá nạn mù chữ. Với
những khẩu hiệu “Những người biết chữ hãy dạy cho người không biết chữ. Những người chưa
biết chữ hãy gắng học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng dạy. Em chưa biết thì anh dạy…”. Bình
dân học vụ trở thành một phong trào sôi nổi trong cả nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia.
Trong một năm trên toàn quốc dã tổ chức hơn 70 000 lớp học và xóa mù chữ cho hơn
2,5 triệu người. Tiếng Việt được dùng giảng dạy trong các trường phổ thông và đại học. Trường
học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng để đào tạo nhân lực phục vụ Tổ quốc.
Để cổ vũ tinh thần học tập của các cháu học sinh trong thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư động viên tới học sinh trong toàn quốc khẳng định non sơng, đất nước ta có thể sánh
vai cùng năm châu hay khơng chính là nhờ phần lớn vào cơng học tập của các em.
Bên cạnh đó, cuộc vận động đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng được
đồng bào cả nước hưởng ứng, nhằm xây dựng cuộc sống mới, bài trừ tệ nạn xã hội. Nếp sống
văn hóa mới, văn học nghệ thuật, báo chí cách mạng… cùng với nội dung nêu cao tinh thần
yêu nước, dân chủ, tiến bộ phát triển mạnh.


Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      



Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 

 

 

 

Chiến thắng “giặc dốt” khơng chỉ góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân,
từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống mới, mà còn tạo điều kiện cho nhân
dân phát huy được quyền làm chủ.
3. Giải quyết vấn đề tài chính khan hiếm
Để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng mới cần có một nguồn tài chính hỗ
trợ, trong khi đó ngân sách Nhà nước trống rỗng. Nên giải quyết nạn tài chính khan hiếm cũng
là một nhiệm vụ cấp bách trong lúc này. Đảng và chính phủ đề ra các biện pháp lâu dài để
từng bước giải quyết những khó khăn về tài chính.
Để khắc phục tình trạng ngân sách trống rỗng, trước mắt, ngày 4/9/1945, Chính phủ
ban hành sắc lệnh về “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”, … nhằm động viên sự đóng góp của
đồng bào tồn quốc ủng hộ nền độc lập của đất nước. Chỉ trong thời gian ngắn nhân dân đã tự
nguyện góp được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào quỹ độc lập, 40 triệu đồng cho "Quỹ đảm phụ

quốc phòng".
Mặt khác, về lâu dài để ổn định nền tài chính, Chính phủ đã phát hành tiền mới và tổ
chức thuế khoá. Cuối năm 1946 (23-11-1946) Quốc hội quyết định lưu hành tiền Việt Nam
trong cả nước (thay cho đồng Đông Dương cũ). Đây là thắng lợi hết sức to lớn của nhân dân ta
về mặt chính trị và tài chính.
Như vậy, để bước đầu xây dựng và củng cố chính quyền Cách mạng, Đảng, Chính phủ,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân nhân thực hiện thắng lợi nhiều biện pháp
cách mạng. Thắng lợi đó đã từng bước đẩy lùi khó khăn và tạo ra sức mạnh tổng hợp cho dân
tộc trong cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài.
4. Sách lược chống thù trong, giặc ngoài bảo vệ chính quyền cách mạng


Cùng với việc xây dựng chính quyền, ổn định kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nước
Việt Nam mới còn phải tiến hành ngày cuộc đấu tranh gay go, phức tạp và quyết liệt chống lại
các thế lực ngoại xâm. Trên đất nước nước ta lúc này có rất nhiều kẻ thù, phía Bắc là qn
Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
Tưởng và tay sai, phía Nam là quân Pháp được sự hậu thuẫn của quân Anh, trên đất nước còn
6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Chúng ta không thể cùng một lúc đương đầu với tất cả
quân xâm lược trên đất nước ta và chúng ta cũng không thể để bùng nổ một cuộc chiến tranh
trong hoàn cảnh đất nước cịn đang khó khăn.
Trong bối cảnh đó, Đảng, đã phân tích tình hình, kẻ thù và đề ra chủ trương phải tránh
cùng một lúc đương đầu với nhiều kẻ thù mà phải hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa hai phe
đồng minh Anh- Pháp và Tưởng-Mỹ. Đảng ta chỉ rõ rằng giữa hai khối có mâu thuẫn với nhau
về quyền lợi, nhưng thống nhất với nhau trong âm mưu chống phá Cách mạng Việt Nam. Lực
lượng kẻ thù đơng và mạnh. Trong đó thực dân Pháp đã chuẩn bị ráo riết từ trước và được sự
giúp đỡ của quân Anh, đã có nhiều hành động đánh phá cách mạng nên chúng là kẻ thù chủ
yếu. Do đó, trên cơ sở nắm vững nguyên tắc chiến lược, Đảng đã mềm dẻo trong sách lược,
phân hoá kẻ thù để đánh đổ chúng. Cách mạng nước ta trong thời kỳ này, chia làm giai đoạn:
- Từ tháng 9 năm 45 đến trước ngày 6- 3- 1946 thực hiện kháng chiến chống thực dân
Pháp ở miền Nam – Hoà với Trung Hoa quốc Dân đảng ở miền Bắc để có thời gian xây dựng,
củng cố chính quyền Cách mạng.
- Từ ngày 6- 3 1946 đến ngày 19- 12- 1946 tiến hành đàm phán ngoại giao với Pháp, thực
hiện sách lược “Hoà để tiến” để đuổi quân Trung Hoa Dân quốc khỏi nước ta, tranh thủ thời
gian hồ hỗn với Pháp để chuẩn bị tiến tới đánh Pháp, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài
chống thực dân Pháp.
a. Từ 2-9-1945 đến trước 6-3-1946 : Đánh Pháp ở miền Nam, hịa hỗn với qn
Tưởng ở miền Bắc
Chống Pháp ở miền Nam
- Với dã tâm xâm lược nước ta lần nữa, ngay sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng



minh, Chính phủ Pháp do Đờ Gôn đứng đầu đã thành lập một đạo quân viễn chinh ở Đông
Dương. Ngày 2- 9- 1945, khi nhân dân Sài Gịn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng "Ngày
độc lập", thực dân Pháp đã xả súng vào dân chúng làm 47 người bị chết, nhiều người bị
Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
thương. Rạng sáng ngày 23- 9- 1945, được sự trợ giúp của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng
đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cho quá
trình xâm lược nhân dân ta lần thứ II.

Như vậy, thực dân Pháp đã vi phạm trắng trợn độc lập chủ quyền của dân tộcbuộc chúng ta
cầm súng đứng lên chiến đấu.
- Từ ngày 23 - 9 - 1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, nhân dân Sài
Gòn - Chợ Lớn cùng nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đánh trả
địch bằng mọi hình thức, mọi thứ vũ khí, bao vây, tấn cơng địch ở trong thành phố, chặn đánh
địch ở chợ Bến Thành, lực lượng vũ trang của ta đã tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy
tàu chiến Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh kho tàng, phá nhà giam, bao vây địch từ bên
ngoài…,
Phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đấu tranh phá nguồn tiếp tế của
địch, không hợp tác với địch, dựng chướng ngại vật trên đường phố, các công sở, nhà máy, hiệu bn
đóng cửa, chợ khơng họp, tàu xe ngừng chạy, điện nước bị cắt ...
Cuộc chiến đấu của đồng bào Nam bộ gây cho thực dân Pháp nhiều khó khăn tổn thất, ta
đã kìm chân địch hơn một tháng trong thành phố, tạo điều kiện cho các tỉnh Nam Bộ, Nam
Trung bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến khi quân Pháp mở rộng phạm vi xâm lược.
Sau hơn 1 tháng đẩy mạnh xâm lược, với ưu thế về vũ khí, đến cuối tháng 10- 1945 có
thêm viện binh, quân Pháp phá vỡ vòng vây xung quanh Sài Gòn – Chợ Lớn đánh chiếm Nam
Bộ, Nam Trung Bộ, đồng thời chiếm một phần nông thôn của ta. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, ngày 25- 10- 1945, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng đã đề ra các biện pháp
nhằm củng cổ vào phát triển lực lượng chính trị, quân sự, phát triển chiến tranh du kích để tiếp
tục đánh địch.


Trung ương Đảng, Chính phủ đã kịp thời đề ra những chủ trương để lãnh đạo cuộc
kháng chiến miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương tinh thần chiến đấu của nhân dân

Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng | Nội dung môn  Lịch sử 
 
 
 

 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nam bộ, kêu gọi nhân dân cả nước ủng hộ, chi viện cho nhân dân Nam Bộ kháng chiến. Người
khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân của nước Việt Nam, sơng có thể cạn, núi có thể mịn
song chân lý đó khơng hề thay đổi”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, cả nước chi viện về mọi mặt cho miền Nam. Những
đồn qn "Nam tiến" từ thủ đơ Hà Nội, căn cứ Việt Bắc, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ đã tấp nập lên đường vào Nam đánh giặc, cứu nước.
Cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Nam Bộ có ý nghĩa to lớn: đã ngăn chặn từng
bước tiến công của địch, hạn chế âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng, giữ vững và
mở rộng lực lượng, tích luỹ được kinh nghiệm chiến đấu, góp phần bảo vệ củng cố chính quyền
Cách mạng, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến
toàn quốc về sau.
Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản Cách mạng ở miền Bắc:

Quân Trung Hoa Dân quốc vào nước ta dưới danh nghĩa Đồng Minh để giải giáp lực
lượng phát xít Nhật, nhưng trên thực tế là để thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng sản, lật
đổ chính quyền cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thành lập chính quyền phản
động và tay sai.Được sự che chở và giúp sức của Trung Hoa Dân quốc, bọn tay sai Việt quốc,
Việt cách dùng bạo động vũ trang cướp chính quyền ở một số nơi như Lào cai, Yên Bái, Móng
Cái…. gây rối loạn an ninh xã hội, gây sức ép về chính trị địi mở rộng thành phần chính phủ,
gạt những đảng viên cộng sản ra khỏi chính phủ, cho chúng vào Quốc hội khơng qua bầu cử.
Quân Tưởng vào nước ta là theo danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật,
nên chúng ta không thể đấu tranh vũ trang với chúng. Để đấu tranh với Tưởng, chúng ta chủ
trương nhân nhượng cho chúng một số một số quyền lợi, thực hiện quyết định của Đồng minh,
tránh một cuộc chiến tranh vũ trang, tập trung lực lượng đấu tranh chống Pháp ở miền Nam.


Một số biện pháp đấu tranh của chúng ta đối với Tưởng thời kỳ này:
Thực thi sách lược ngoại giao thân thiện: Khi quân Tưởng tiến vào miền Bắc làm nhiệm
vụ giải giáp quân Nhật, chính phủ huy động một lực lượng chính trị lớn đón tiếp với các khẩu
Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
hiệu tỏ rõ thiện chí của nước ta như “Hoa- Việt thân thiện”, đồng thời cũng có những khẩu hiệu
thể hiện quyết tâm giữ vững chính quyền đất nước như “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”.
Về kinh tế, tài chính chúng ta đồng ý cung cấp một phần lương thực, thực phẩm cho 20
vạn quân Trung Hoa Dân quốc, chấp nhận cho chúng lưu hành “Quan kim”, “Quốc tệ” mất giá
trên thị trường.
Về chính trị, Quốc hội khóa I đã đồng ý cho các đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong
Quốc hội, 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp, Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ
chức Phó Chủ tịch nước.
Để giảm bớt sức ép cơng kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong và ngồi nước,
ngày, Đảng Cộng sản Đơng Dương tun bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật,
tiếp tục lãnh đạo cách mạng.
Với bọn tay sai phản động, có những hành động phá hoại cách mạng, chúng ta kiên
quyết trừng trị theo pháp luật.
Chúng ta thực hiện nhiều sự nhân nhượng với Tưởng, nhưng mọi sự nhân nhượng đều
phải bảo đảm nguyên tắc Cách mạng, chính quyền phải được giữ vững, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phải đứng đầu Chính phủ, độc lập chủ quyền của đất nước phải được tơn trọng. Vì vậy, đối với
bọn phản động tay sai của quân Trung Hoa Dân quốc ra mặt chống phá Cách mạng thì kiên
quyết vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của chúng.
Chủ trương nhân nhượng với quân Trung hoa Dân quốc là cần thiết, đúng đắn và sáng suốt. Do vậy,
chúng ta đã tránh cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù, hạn chế và vơ hiệu hố đến mức thấp
nhất các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ
chính quyền Cách mạng của chúng, đồng thời tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian để củng cố

chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng non trẻ, tập trung tổ chức cuộc kháng chiến chống


Pháp ở miền Nam.

Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
b. Từ 6-3-1946 đến 19-12-1946 : Hịa hỗn với Pháp, đuổi quân Trung Hoa Quốc dân
Đảng
Trên cơ sở phân tích âm mưu của kẻ thù trên đất nước ta và so sánh tương quan lực lượng

giữa ta và địch, Đảng ta nhận định :
Cơng cuộc xây dựng chính quyền tuy đạt được một số thành tựu, song chính quyền cách
mạng còn non trẻ, lực lượng vũ trang còn yếu, kinh tế, chính trị gặp nhiều khó khăn, nhất là ở
miền Bắc 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách đang điên
cuồng chống phá cách mạng.
Ở miền Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân Nam bộ gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp
đánh rộng ra các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ và đang muốn đưa qn ra miền Bắc để hồn
thành q trình xâm lược nước ta lần thứ II.
Trước tình hình đó Đảng ta vẫn xác định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp.
Trong điều kiện hiện nay, ta cần thực thi sách lược phân hoá kẻ thù.
Hiệp ước Hoa - Pháp
Sau khi chiếm đóng các đơ thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế
hoạch tiến qn ra Bắc nhằm thơn tính cả nước ta. Nhưng đánh chiếm miền Bắc chúng phải
giải quyết hai trở ngại: một là, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc, hai là lực lượng Cách mạng
Việt Nam ở miền Bắc sẵn sàng tiêu diệt chúng. Hơn nữa, sau một thời gian dài dùng lực lượng
vũ trang xâm lược ở miền Nam, chúng không đạt được kết quả như ý muốn - không thể đánh
nhanh thắng nhanh được vì vậy, chúng muốn ra miền Bắc chỉ cịn con đường ngoại giao.
Tình hình nươc ta lúc này cũng đang làm cho quân Trung Hoa Dân quốc bối rối. Hợp
tác Quốc - Cộng khó có khả năng kéo dài vì chiến tranh thế giới II đã kết thúc, phát xít Nhật đã
thất bại. Ở trong nước, lực lượng cách mạng do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang


ngày càng lớn mạnh. Vì thế, lúc này chúng cần tập trung lực lượng đối phó với lực lượng cách
mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc. Trên thực tế, Việt Quốc, Việt Cách khơng có cơ sở chính

Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung môn  Lịch sử 
 
 
 
 

 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
trị, xã hội ở trong nước, không thể ở lại lâu dài ở Việt Nam, sau một thời gian, chúng khơng thể
bóp chết chính quyền cách mạng mới của ta. Tình hình đó, buộc Trung Hoa Dân quốc cần phải
tìm biện pháp chính trị giải quyết vấn đề trên.
Đầu 1946, thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch đã mưu tính kế hoạch đưa quân Pháp ra
miền Bắc ra miền Bắc thay thế quân Tưởng, sau khi bàn bạc, ngày 28- 2- 1946, Hiệp ước HoaPháp (Hiệp ước Trùng Khánh) đã được ký kết với nội dung:
- Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp
quân Nhật.
- Trung hoa Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất
Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phịng vào Hoa Nam khơng phải đóng
thuế.
Sự thỏa hiệp giữa thế lực thực dân vừa chà đạp thô bạo lên độc lập chủ quyền của dân
tộc Việt Nam vừa đặt nước ta trước hai sự lựa chọn hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân
Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc hoặc là hồ hỗn, nhân nhượng tạm thời với Pháp

để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, tranh thủ thời gian củng cố, phát
triển lực lượng Cách mạng.
Đảng ta đã phân tích tình hình và đưa ra nhận định: Nếu ta tiếp tục đánh Pháp ta phải đối
phó cùng một lúc với hai kẻ thù là Pháp và Trung Hoa Dân quốc vì chúng đã câu kết với nhau,
nếu hồ với Pháp ta đuổi được 20 vạn quân Tưởng về nước, tranh thủ củng cố lực lượng chuẩn
bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp mà ta biết là khơng thể tránh khỏi. Cịn
đối với thực dân Pháp, nếu để bùng nổ cuộc chiến tranh khi tiến qn ra Bắc sẽ tạo điều kiện
để Tưởng trì hỗn không thi hành Hiệp định Hoa- Pháp đã ký, đây là điều Pháp không mong
muốn.
Hiệp định sơ bộ

10 

Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 

 
 

 

 

 

Nhận thức đầy đủ tình hính mới, Đảng và chính phủ dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương đàm phán với Pháp với mục đích để quân Pháp ra miền
Bắc thay thế quân Tưởng, tức là ta sẽ đuổi được một kẻ thù mà không tốn một viên đạn nào, đồng
thời tranh thủ thời gian hịa hỗn, bảo tồn lực lượng để tiến lên đánh đuổi quân xâm lược.
Do đó, chiều 6 - 3 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ kí với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung:
- Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do
nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính
riêng.
- Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho 15000 quân Pháp được ra miền Bắc thay quân
Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm
quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.
- Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị
trí cũ, tạo khơng khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn các vấn đề về ngoại giao
của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hoá của người Pháp
ở Việt Nam.
Việc kí Hiệp định Sơ bộ là một chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng và Chính phủ
ta. Ta đã tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy
được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, có thêm thời gian hồ
bình để củng cố chính quyền Cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu
dài chống thực dân Pháp.

Về mặt Pháp lý, Chính phủ Pháp đã phải thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do
11 

khơng cịn là thuộc địa của Pháp.

Biên tập viên : Hồng Thị Hằng | Nội dung mơn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 

 

 

 


Hồ với Pháp ta đã tỏ rõ thiện chí hồ bình, đáp ứng được mong muốn của nhân dân
Pháp và nhân dân thế giới là hồ bình, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân
Pháp và nhân dân thế giới.
Thực tế lịch sử đã chứng tỏ Hiệp định sơ bộ là chủ trương sách lược đúng đắn, sáng tạo
của Bác Hồ, của Đảng và Chính phủ ta, nhờ đó mà Cách mạng nước ta, chính quyền non trẻ
của ta đã vượt qua những khó khăn chồng chất tưởng chừng không vượt nổi.
Tạm ước 14 - 9 - 1946
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 6 - 3 - 1946, ta đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao buộc Chính
phủ Pháp phải tiến hành đàm phán để đi đến ký kết hiệp định chính thức, cịn thực dân Pháp
với dã tâm cướp nước ta đã trì hỗn thi hành các điều khoản đã ký và luôn vi phạm hiệp định.
Phía ta tiếp tục đấu tranh kiên quyết, nên cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ
Việt Nam và Pháp được tiến hành tại Phông-ten-nơ-blô từ ngày 6 - 7 - 1946. Sau hai tháng,
cuộc đàm phán thất bại, do lập trường hai bên trái ngược nhau, thực dân Pháp ngoan cố không
chịu chấp nhận độc lập và thống nhất của nước ta.
Ở Đơng Dương, tình hình càng trở nên căng thẳng. Quân Pháp tăng cường khiêu khích,
phá hoại cuộc đình chiến, tiếp tục gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, dựng chính phủ bù nhìn,
xóa bỏ những điều đã ký kết ở Hiệp định Sơ bộ. Quan hệ Việt - Pháp căng thẳng, có nguy cơ
nổ ra chiến tranh.
Để kéo dài thêm thời gian hồ hỗn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, để tỏ rõ
thiện chí hồ bình của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tư cách là thượng khách đã kí với
đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14 - 9 - 1946, nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh
tế, văn hoá ở Việt Nam.
Nội dung Tạm ước 14- 9- 1946:

12 

Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng | Nội dung môn  Lịch sử 
 
 

 
 
 

      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 

 

 

 

- Việt Nam và Pháp cam kết tiếp tục chính sách hợp tác đàm phán chậm nhất vào tháng

1.1947 ; bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền lợi về kinh tế, văn hố cho người Pháp ở
Đơng Dương.
- Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tun truyền khơng thân thiện ; Pháp sẽ
đình chỉ xung đột ở Nam Bộ và nam Trung Bộ, đảm bảo các quyền tự do dân chủ cho nhân
dân.

- Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do 2 bên qui định về thời gian, cách thức.
Việc ký tạm ước ngày 14- 9- 1946, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với cách mạng nước
ta, với tạm ước này, ta đã đẩy lùi được cuộc chiến tranh trước mắt ở Đông Dương, bất lợi cho
ta, kéo thêm thời gian hồ hỗn để xây dựng củng cố lực lượng Cách mạng chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu lâu dài. Kí Tạm ước là ta đã làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ
thiện chí hồ bình của Việt Nam và dã tâm của thực dân Pháp qua đó tranh thủ được sự đồng
tình ủng hộ của nhân dân Pháp và thế giới.
Việc ký kết hiệp định Sơ bộ 6- 3 và Tạm ước 14- 9 là sự nhân nhượng có nguyên tắc,
chứng tỏ sự sáng suốt của Đảng ta, tránh cho nhân dân một cuộc chiến tranh khơng cân sức,
tạo điều kiện cho ta có thời gian chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp
một cách chủ động, giữ vững chính quyền cách mạng, đưa cách mạng thốt khỏi tình thế
“Ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền Cách mạng,
chúng ta đã giành được thắng lợi. Có được thắng lợi đó là do toàn thể nhân dân Việt Nam đã
đoàn kết chặt chẽ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối
chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, lúc thì tạm hồ
hỗn với qn Trung hoa Dân quốc để rảnh tay đối phó với Pháp, khi thì tạm hồ hỗn với
Pháp để đuổi qn Trung hoa Dân quốc và quét sạch bọn phản động tay sai của chúng.
13 

Lịch sử nước ta từ ngày 2- 9- 1945 đến tháng 12 năm 1946 đã diễn ra vơi những sự kiện
có ý nghĩa to lớn. Trong thời gian ngắn này, Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã xây dựng và

Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng | Nội dung môn  Lịch sử 
 
 
 
 
 


      


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
giữ vững chính quyền mới, giải quyết căn bản những khó khăn của đế quốc Pháp gây ra trong
suốt gần một thế kỷ. Giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, đứng
đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, từng bước
đánh bại âm mưu của kẻ thù và chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc kháng chiến lâu dài.

14 

Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng | Nội dung môn  Lịch sử 
 
 
 
 
 

      




×