Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

TIẾNG HÁT CON TÀU VÀ TUYÊN NGÔN NGHỆ THUẬT CỦA CHẾ LAN VIÊN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.57 KB, 4 trang )

Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



Biên t

p viên: Tr

n H

i Tú




1


TIẾNG HÁT CON TÀU VÀ TUYÊN NGÔN NGHỆ THUẬT CỦA
CHẾ LAN VIÊN
Nguy
ễn Minh H
ùng

Cách m
ạng Tháng Tám v
à cu
ộc kháng chiến chống xâm lược đ
ã có nh
ững
t


ác động m
ãnh li
ệt đến khuynh hướng sáng tạo của văn nghệ sĩ Việt Nam h
ơn
n
ửa thế kỷ trước, làm “thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”. Với Chế Lan Vi
ên, “T

thung l
ũng đau thương ra cánh đồng vui” không hề l
à hành trình t
ư tư
ởng giản
đơn như ông từng viết, như ta từng nghĩ. Xin trở lại thuở ban đầu khi th
ơ ông
đang say sưa, hồn nhi
ên hát ca v
ề một lý tưởng nghệ thuật mới…

So với Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh và lớp nhà "Thơ mới" cùng th
ời, phần
thơ sau Cách mạng Tháng Tám của Chế lan Viên có bước phát triển hơn c
ả về số
lượng lẫn chất lượng. Thơ ông không phải đường biểu diễn đi xuống trên tr
ục toạ
độ sự kiện lịch sử và thời gian - ngược lại với con đường của nhiều tác giả th
ơ
Việt Nam hiện đại. Từ
Điêu tàn
(1938) thuở hoa niên, đến Á

nh sáng và phù sa
(1960) của tuổi bốn mươi; rồi
Hoa ngày thường, chim báo b
ão (1967), Nh
ững b
ài
thơ đánh giặc
(1972),
Đối thoại mới
(1973), Hái theo mùa và
Hoa trư
ớc lăng
Người
(1977), cho tới
Hoa trên đá
(1984), và đặc biệt với T
ừ thế chi ca
, Di c
ảo I,
II,III của những ngày sức yếu vì hoàng hôn c
ủa tuổi
và bệnh tật hiểm nghèo, m
ỗi
tập thơ đều để lại những ấn tượng, chứng tỏ một năng lượng sáng tạo dồi d
ào.
Ông có nẻo đi riêng của một phong cách, một dòng chảy thông suốt mà b
ất ngờ,
khó ai lặp bước.
Trong tất cả tập thơ Chế Lan Viên sáng tác từ sau 1945 và trong h
ầu hết

những bài thơ quan trọng của ông, dù viết về đề tài gì, nhằm mục đích n
ào,
người đọc có thể nhận ra một thao thức: Ngh
ệ sĩ
- ta là ai ?! Đấy là thông đi
ệp
thẩm mĩ của Chế Lan Viên. Trong cảm hứng ấy, Ti
ếng hát con t
àu là m
ột trong
bài thơ đầu tiên đặt dấu ấn về tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ vốn giàu ch
ất
suy tưởng này.
Nhân vật trữ tình trong Ti
ếng hát con t
àu có hai tư cách: một nhà thơ đ
ã
từng sống gắn bó với Tây Bắc trong những năm tháng kháng chiến khốc liệt,
anh
hùng đang nhớ lại
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
, và m
ột nghệ sĩ đang khao
khát trở về với nhân dân để sáng tạo nên những M
ặt hồng em trong suối lớn m
ùa
xuân. Trục cảm hứng của bài thơ được hình thành trên ba đối tượng liên tư
ởng:
Con tàu - Tây B
ắc

- Anh (Con tàu này lên Tây B
ắc anh đi chăng
?). Tây B
ắc
thì có
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



Biên t

p viên: Tr

n H

i Tú




2
thật; Anh cũng coi như là thật rồi; còn con tàu là hoàn toàn tưởng tượng.
Tây B
ắc
là quê hương kháng chiến - X
ứ thi
êng liêng r
ừng núi đ
ã anh
hùng. Tây B

ắc
còn tượng trưng cho quá khứ anh hùng, cho ng
ọn nguồn kháng
chiến, cho cuộc sống ở nơi tiêu biểu nhất, đáng sống nhất. Nhưng, Tây B
ắc
ư ?
Có riêng gì Tây B
ắc
,
Đất Tây Bắc tháng ng
ày không có l
ịch
. Đó còn là cu
ộc sống
của
Đất nước m
ênh mông chứ không phải nơi
đời anh nhỏ hẹp
. Đó là ng
ọn nguồn
của cảm hứng sáng tác - Tây B
ắc ơi, người l
à m
ẹ của hồn thơ
Chế Lan Vi
ên cho
rằng, ngư
ời nghệ sĩ sáng tạo của thời đại mới phải đi, phải phản ánh, phải bộc lộ
cảm hứng trước cuộc sống ở bề sâu, tầm cao của nó. Đó là cuộc sống


ời năm
qua như ngọn lửa
- N
gàn năm sau, c
òn
đủ sức soi đường
. Nhiều lần Chế lan Vi
ên
đã bộc lộ quan niệm này:
Cuộc đời quyết định "một nửa" tác phẩm:
Bài thơ anh, anh làm một nửa m
à thôi,
Còn m
ột nửa cho m
ùa thu làm l
ấy.

(Sổ tay thơ)
Cuộc sống phải được thâm nhập trong nhiều chiều kích của nó:
Ra đi, chạm v
ào nh
ững cơn b
ão, ng
ọn gió bất ngờ thổi v
ào b
ốn
b
ức tường quen thuộc

Nhìn cu

ộc đời phía dưới phía trên, phía sau phía trước

(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ )
Một trong những đoạn thơ giàu cảm xúc nhất của Ti
ếng hát con
tàu

đoạn hồi tưởng của tác giả về nhân dân Tây Bắc: Con g
ặp lại nhân dân nh
ư nai
v
ề suối cũ
Và quan điểm nhân dân được tập trung thể hiện:
M
ắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng

Mùa nhân dân giăng lúa chín r
ì rào
R
ẽ người mà đi vịn tay mà đến

M
ặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhưng chất chứa bên trong còn là khát vọng
được trở về, được ra đi
v
ới
tư cách
người nghệ sĩ

. Thôi thúc trở về, ra đi là để tìm g
ặp chính m
ình - m
ột cái
tôi nghệ sĩ trên hành trình t
ừ thung lũng đau thương ra cánh đồng v
ui (Ch
ế lan
Viên): Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép - Tâm h
ồn anh chờ gặp anh tr
ên
kia. Khi Ngh
ĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ
về quá trình sáng tạo, nh
à thơ luôn có
một trăn trở ra đi:
Đi ra, lấy cuộc đời dân l
àm cu
ộc đời m
ình
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



Biên t

p viên: Tr

n H


i Tú




3
Cơn nắng cơn mưa làm điều
suy ngh
ĩ

M
ột tiếng chim g
ù c
ũng phải đến nơi rừng lạ để m
à nghe
( )
Trong Ti
ếng hát con t
àu, Anh - Ta - Con là những đại từ nhân xưng v
ừa
cụ thể vừa trừu tượng; khi thì đứng riêng đơn lẻ, bé nhỏ, khi thì hoà nhập, có t
ư
cách đại diện cho người nghệ sĩ tìm đến với nhân dân. Hai từ anh trong Tâm h
ồn
anh ch
ờ gặp anh tr
ên kia chính là hai phía đối lập và có vẻ thống nhất ấy.
Từ đó, hình tượng con tàu trở thành biểu tượng hành trình của ngư
ời
nghệ sĩ. Thế nên, con tàu bỗng khao khát thi vị: Ngoài c

ửa ô ? Tàu đói nh
ững
vành trăng
. Con tàu bỗng vang tiếng gọi thiết tha: Tàu g
ọi anh đi sao chửa ra đi
?
Con tàu có khả năng cất cánh: Tàu hãy v
ỗ giùm ta đôi cánh vội

Câu thơ được xem như một châm ngôn: Khi ta
ở chỉ là nơi đất ở
-
Khi ta đi
đất đ
ã hoá tâm h
ồn
cần được cảm thấu trong quan niệm
ra đi
ấy. Trong
ánh sáng
và phù sa, ông cũng đã từng "thu hoạch" về một chuyến
Đi thực tế
:
Su
ốt một đời ăn hạt gạo nhân dân

L
ần thứ nhất nhà văn đi học cấy

B

ỗng hối tiếc ngh
ìn câu th
ơ nước chảy

Ch
ửa v
ì ng
ười bằng một bữa cơm ăn.

Nhưng ông cũng quan niệm thật sâu sắc về chuyện "đi thực tế" của ngư
ời
nghệ sĩ:
Nơi nào anh chưa đến
- Thì lòng anh
đến thay

Khép lại bài thơ, hình tượng con tàu và ta bỗng chuyển hoá, nương t
ựa
vào nhau say đắm:
L
ấy cả những cơn mơ. Ai bảo co
n tàu không m
ộng tưởng ?

M
ỗi đ
êm khuya không u
ống một vầng trăng ?

Lòng ta c

ũng như tàu, ta cũng uống

M
ặt hồng em trong suối lớn m
ùa xuân.
Đó có phải là tiếng reo vui của người nghệ sĩ khi xác định cho m
ình con
đường sáng tạo - con đường về với nhân dân?! Ti
ếng hát con t
àu chính là m
ột
tuyên ngôn nghệ thuật bằng thơ và bằng cách nói của thơ. M
ối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc sống được Chế Lan Viên tri âm trên đôi cánh của hình tư
ợng
thơ. Phải chăng, ở đây, ta bắt gặp một lần nữa kiểu "Đôi mắt" của Nam Cao?!
Suốt đời Chế Lan Viên luôn đau đau về mối quan hệ vừa đơn gi
ản vừa
phức tạp ấy. Hình như ông vẫn còn cái cảm giác
chưa xong
v
ới những thao thức
của chính mình ?! Trong một bài thơ viết trước khi mất, ông đã m
ột lần nữa
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



Biên t


p viên: Tr

n H

i Tú




4
khẳng định giá tr
ị đích thực t
ình yêu cu
ộc sống
đối với người viết:
Thiêu xong anh
v
ề các trời khác cũng đầy hoa
- Ch
ỉ tiếc không có t
ình yêu
ở đó
Nhưng r
ồi, cũng
trước lúc phiêu du các tr
ời khác
(hy vọng đẹp hơn bầu trời ông từng sống)
, ông
lại vẫn thắc thỏm về những gì mình đã sống, đã nghĩ suy như trong bài Rìu - m
ột

trong những bài thơ có thể khắc trên mộ chí của tác giả
Điêu tàn
:
V
ạn năm sau t
ìm
đến khu di chỉ

Nh
ặt lấy một chiếc r
ìu hoá
đá thuở ta y
êu
Ta đ
ã ch
ặt cả khu rừng t
ình ái b
ằng chiếc r
ìu thô l
ỗ ấy

Để đổi lấy mùi hương trầm đến chết chẳng mang theo.

Quả là thái độ sống của thi nhân khi nhìn lại, nghĩ lại những "tuy
ên ngôn"
của chính mình. Và như vậy, có thể nói, chưa có tuyên ngôn nghệ thuật cuối c
ùng
đối với Chế lan Viên.
Nguy
ễn Minh H

ùng

×