Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vấn đề quốc ngữ hoá hệ thống phụ âm đầu trong các địa danh gốc Hán quan ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.82 KB, 6 trang )

Vấn đề quốc ngữ hoá hệ thống phụ âm đầu trong các địa danh gốc Hán quan
thoại Tây Nam ở Việt Nam
(phần 2)
2.3. Vấn đề quốc ngữ hoá dãy phụ âm ngạc trong tiếng Hán quan thoại Tây
Nam
Dãy phụ âm ngạc trong tiếng Hán gồm có các âm /tɕ, tɕh, ɕ, j, ɲ/. Nếu so sánh với
tiếng Việt thì trong dãy phụ âm này chỉ có âm /ɲ/ là có sự tương ứng với nhau. Do
vậy, con chữ (nh) sẽ được dung ghi lại âm đọc /ɲ/ trong các địa danh gốc Hán.
Đối với các phụ âm tắc xát /tɕ/ và phụ âm tắc xát, bật hơi /tɕh/ chọn giải pháp
tương tự như các phụ âm có cùng phương thức cấu âm, nhưng khác vị trí cấu âm
/ts/ và /ts
h
/. Phụ âm / tɕ/ do hai con chữ (ch), (tr) thể hiện, còn con chữ (s) sẽ dung
để ghi phụ âm /tɕh/. Còn phụ âm xát /ɕ/ lại không nhất quán trong việc chọn giữa
hai con chữ (x) và (s) để hiển thị. Chính điều này đã gây ra có sự lẫn lộn khi phiên
chuyển.
Trường hợp bán nguyên âm /j/ cũng tương tự như đối với trường hợp âm /w/. Mặc
dù không cho đây là các phụ âm, nhưng khi chuyển sang tiếng Việt thì hệ thống
chữ quốc ngữ đã phải dùng các con chữ phụ âm để ghi âm đọc này. Trong tư liệu
của chúng tôi, hai con chữ (d) và (gi) cùng đảm chiệm chức năng ghi các địa danh
gốc Hán có xuất hiện âm /j/.
Tương

ng

Chữ Hán Chữ Việt Con chữ thể hiện

Hán

Vi


t

/ɲ/ /ɲ/
牛場 /ɲiəu tshaŋ/
黄泥坡 /xuaŋ ɲi pho/

Nhi
ều Sáng /ɲieu ʂaŋ/
Hoàng Nhì Phố /hwaŋ ɲi fo/

nh
/tɕ/
/c/
/ʈ /
崖腳 /ŋai tɕyo/
馬傢 /ma tɕia/
Ng
ải Chồ /ŋaj co/
Má Tra /ma ʈa/
ch
tr
/tɕh/

/ʂ/ 大清唐 /ta tɕ
h
in thaŋ/

Tả Sìn Thàng /ta ʂin t
h
aŋ/

s
/ɕ/
/ʂ/
/s/
下鄉 /ɕia ɕiaŋ/
下寨 /ɕia tsai/
Sả Séng /ʂa ʂɛŋ/
Xà Chải /sa caj/
s
x
/j/ /z/
大銀崖 /ta jin ŋai/
楊傢 /jaŋ tɕia/
Tả Dín Ngài /ta zin ŋaj/
Giàng Tra /zaŋ ʈa/
d
gi
2.4. Vấn đề quốc ngữ hoá dãy phụ âm gốc lưỡi trong tiếng Hán quan thoại
Tây Nam
Dãy phụ âm gốc lưỡi trong tiếng Hán gồm có các âm / k, k
h
, x, ŋ/. Trong số các
phụ âm này có hai phụ âm /k/ và /ŋ/ có giá trị ngữ âm học tương ứng trong cả hai
ngôn ngữ. Chính vì vậy chúng không có sự thay đổi và ngoại lệ nào khi dung các
con chữ (c, k, q) và /ng/ để ghi lại các âm đọc theo tiếng Hán quan thoại Tây Nam.
Âm / k
h
/ trong tiếng Hán là một phụ âm tắc bật hơi và không có âm nào trong tiếng
Việt có đầy đủ giá trị ngữ âm giống phụ âm này. Vì vậy, giải pháp đã lựa chọn là
tìm âm gần nhất với những đặc trưng của phụ âm này. Trong tiếng Việt, âm xát, vô

thanh /X/
(1)
(kh) nhiều khi được biết đến một biến thể khác là một âm tắc, bật hơi
/k
h
/. Nhìn chung vị trí cấu âm của hai âm này trong tiếng Việt và tiếng Hán là
giống nhau. Chính vì vậy phụ âm /X/ của tiếng Việt đã đảm nhiệm việc phiên
chuyển phụ âm/ k
h
/ của tiếng Hán.
Trong tiếng Hán, phụ âm xát, hữu thanh /x/ có vị trí cấu âm sâu hơn so với phụ âm
/X/ trong tiếng Việt. Do vậy, việc lựa chọn phụ âm /h/ trong tiếng Việt để biểu thị
âm /x/ trong tiếng Hán được xem như là một giải pháp thích hợp nhất.
Tương

ng

Ch


Hán

Ch


Vi

t

Con ch



th


hi

n

Hán

Vi

t

/k/ /k/
大水溝 /ta suei kəu/ Tả Suối Câu /ta ʂuoj kɤˇu/

c
q
冬瓜 /toŋ kua/
Tông Qua /toŋ kwa/
/ŋ/ /ŋ/
崖脚 /ŋai tɕyo/
Ng
ải Chồ /ŋaj co/
ng
平安 /phin ŋan/
Phìn Ngan /fin ŋan/
/k

h
/ /X/
老口 /nau k
h
əu/ Làu Khấu /lau Xɤˇu/
kh
大丫口 /ta ja khəu/ Tả Gia Khâu /ta za Xɤˇu/
/x/ /h/
干河 /kan xo/
Cán Hồ /kan ho/
h
老猴崇 /nau xəu ts
h
oŋ/

La Hờ Súng /la hɤ ʂuŋ/
3. Kết luận
Qua việc khảo sát quá trình quốc ngữ hoá hệ thống phụ âm đầu trong các địa danh
gốc Hán quan thoại Tây Nam ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, chúng tôi rút
ra một vài kết luận sơ bộ như sau:
Ban đầu đây là những địa danh hoàn toàn theo âm đọc Hán và để có những địa
danh ghi bằng chữ quốc ngữ như hiện nay thì những địa danh này đã phải trải qua
một quá trình quốc ngữ hoá (dùng chữ quốc ngữ để ghi lại các địa danh theo âm
đọc Hán). Về những mốc thời gian cụ thể xuất hiện những địa danh dưới dạng chữ
quốc ngữ cần phải nghiên cứu thêm. Nhưng chúng ta dễ nhận thấy quá trình quốc
ngữ hoá xảy ra do nhu cầu cần ghi chép lại những địa danh này phục vụ công tác
bản đồ, phân chia địa giới hành chính, hay trên các loại văn bản khác nhau. Với
những mục đích và thời gian phiên chuyển khác nhau, nên có khá nhiều địa danh
tồn tại với những biến thể con chữ không đồng nhất
Nhìn chung, khi phiên chuyển sang chữ quốc ngữ, các phụ âm đầu trong các địa

danh gốc Hán thường lựa chọn một con chữ biểu thị một âm tương ứng trong tiếng
Việt. Nếu trường hợp không có sự tương ứng thì có xu hướng lựa chọn một hoặc
con chữ biểu thị một phụ âm có đặc trưng tương cận nhất. Xét toàn bộ hệ thống
phụ âm đầu của tiếng Hán quan thoại Tây Nam, ngoại trừ phụ âm /z/ chưa thấy có
trong tư liệu của chúng tôi, còn lại các trường hợp khác đều xuất hiện. Chúng tôi
có thể tổng kết quy luật chuyển đổi từ những phụ âm gốc Hán sang chữ quốc ngữ
như sau:
p
(p)

p
h

(ph)

m
(m)

f
(ph)

v
(v)

w
(v)

t
(t)


t
h

(th)

n
(n, l)







ts
( ch, tr)

ts
h

(s)

s
(s)








tɕ (ch, tr)


h
(s)

ɳ (nh)

 (s, x)

j
(d,gi)


k
(c,q)

k
h

(kh)

ŋ

(ng)

x
(h)






Ø
( )











Việc xem xét vấn đề quốc ngữ hoá các địa danh gốc Hán sẽ là một hướng nghiên
cứu gợi mở. Kết quả nghiên cứu một mặt sẽ cho chúng ta thấy quy luật phiên
chuyển từ âm đọc Hán sang chữ quốc ngữ, mặt khác sẽ góp phần trực tiếp vào việc
chuẩn hoá địa danh gốc Hán quan thoại Tây Nam ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt
Nam.
____________
(1)
Trong tiếng Việt âm tắc bật hơi /X/ phân biệt với âm xát, hữu thanh /x/ trong
tiếng Hán.


×