Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bệnh Học Thực Hành: BIỆN CHỨNG TRONG NGOẠI KHOA ĐÔNG Y ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.58 KB, 11 trang )

BIỆN CHỨNG TRONG NGOẠI KHOA ĐÔNG Y
Biện chứng bệnh ngoại khoa cũng như nội khoa thông qua tứ chẩn thu thập tư liệu
lâm sàng rồi dựa theo lý luận của bát chứng, tạng phủ khí huyết kinh lạc mà phân
tích qui nạp thành những hội chứng bệnh lý hay thể bệnh là cơ sở để chẩn đoán,
lập pháp, định phương trong điều trị.
+ Âm Dương: Có thể tóm tắt theo bảng sau:
LOẠI DƯƠNG CHỨNG ÂM CHỨNG
Phát bệnh

Nhanh

Chậm

Sắc da Đỏ Không thay đổi, trắng
bệch

Nhiệt độ da Nóng Mát, không thay đổi
Độ sưng

Sưng

Không sưng, lõm

Phạm vi sưng

Chân nhọt thu lại

Chân nhọt tán ra

Độ cứng mềm


Cứng, mềm vừa

Rất cứng hoặc rất mềm

Cảm giác đau Rất đau, không thích
ấn
Không đau hoặc đau
âm ỉ
Nhọt loét

Ở da, cơ, mạch máu

Gân xương

Tính chất mủ, dịch

Mủ, dịch đặc

Mủ dịch loãng

Mầu nhọt loét

Đỏ nhuận

Tái nhạt hoặc tím thâm

Triệu chứng toàn
thân
Bắt đầu sốt, ớn lạnh,
khát, chán ăn, táo

bón, nước tiểu vàng,
bứt rứt

Bắt đầu không rõ, lúc
làm mủ thì hơi sốt nhẹ,
gò má đỏ, mồ hôi ra
Lưỡi Rêu trắng, vàng, khô,
chất lưỡi đỏ

Rêu trắng mỏng, trắng
nhầy, chất lưỡi nhạt

Mạch Huyền, Hoạt, Sác,
Hồng, Đại

Tế, Nhược, Trầm,
Hoãn, Vô lực

Thời gian bệnh

Ngắn

Dài

Tiên lượng Tốt, vết loét dễ liền
miệng

Xấu, khó tiêu, vết loét
khó liền miệng


2. Phân biệt chẩn đoán một số chứng ngoại khoa thường gặp.
a. Chứng Phù.
+ Phù Do Hoả (Hoả Thủng): tức do nhiệt, da sưng đỏ, da mỏng bóng nhuận, cảm
thấy nóng như lửa đốt và đau nhức: gặp trong loại nhọt làm mủ cấp tính.
+ Phù Do Hàn (Hàn Thủng): chứng phù cứng như gỗ, không đỏ, không nóng,
thường kèm theo đau nhức, sắc da trắng bệch (do hàn ngưng khí trệ) hoặc xanh tối
(do hàn ngưng huyết ứ) hoặc sắc da không thay đổi, gặp trong chứng thoát thư
(viêm tắc động mạch chi), đông sang (bỏng da do lạnh).
+ Phù Do Phong (Phong Thủng): phù sưng nông và mềm, hơi nóng và đau nhẹ,
phát bệnh cấp và lan nhanh hoặc di chuyển, gặp trong quai bị, phong chẩn…
+ Phù Do Thấp (Thấp Thủng): thường có 3 loại:
. Thuỷ thấp ứ trệ: ở da nổi các mụn nước trắng hoặc vàng, lúc vỡ chảy nước, gặp
trong các chứng thuỷ đậu, chàm nước
. Thuỷ thấp tích tụ thành bọc: da bóng như chứng bìu dái ứ nước (hydrocele).
. Nước thấm vào da thịt cẳng chân: sưng phù mềm ấn lõm như chứng chân voi gặp
trong bệnh giun chỉ.
+ Đờm Thủng: phù mềm (chứng bướu cổ địa phương) hoặc phù cứng như chứng
lao hạch (loa lịch), da không đỏ không nóng.
+ Khí Thủng: da căng nhưng mềm, không đỏ không nóng, to nhỏ theo sự thay đổi
tính tình người bệnh như khí anh (bướu cổ đơn thuần).
+ Uất Thủng: mầu da không đỏ không nóng, khối u cứng như đá, bề mặt nham
nhở, gặp trong các chứng như nhũ nham (ung thư vú), chứng thất vinh (ung thư
hạch cổ di căn).
+ Huyết thủng: thường gặp do té ngã, máu chảy dưới da, mầu da bầm tím.
+ Nùng thủng: do nhọt làm mủ, ngón tay ấn vào thấy bập bềnh, đau liên tục.
+ Hư Thủng: sưng phù do khí huyết hư (gặp trong chứng suy dinh dưỡng nặng,
protein máu quá thấp).
b. Chứng Đau: Theo YHCT, đau là do khí huyết ứ trệ, kinh mạch tắc nghẽn (thống
tắc bất không, thông tắc bất thống). Đau là dấu hiệu báo bệnh, và là cảm giác chủ
quan thường gặp trong các chứng ung nhọt ngoại khoa. Chứng đau thường tùy

bệnh mà khác nhau, có bệnh đau nhiều, có bệnh đau ít, có bệnh đau ngay từ lúc
mới mắc, cũng có bệnh vào giai đoạn giữa hoặc cuối mới đau, vì vậy phân biệt
chẩn đoán chứng đau rất cần trong ngoại khoa. Có mấy loại đau thường gặp:
. Nhiệt Thống: sắc da đỏ, đau, nóng như lửa đốt, gặp lạnh giảm đau, thường gặp
trong chứng nhọt làm mủ cấp tính.
. Hàn Thống: sắc da không đỏ, không nóng, đau nhức, gặp lạnh đau tăng, gặp trong
chứng thoát thư, đông sang.
. Phong Thống: vị trí đau không cố định, lúc đau chỗ này lúc đau chỗ khác; ít gặp
trong ngoại khoa.
. Khí Thống: đau thất thường, lúc vui thì nhẹ, lúc tức giận thì nặng lên, kiểu đau
liên sườn cơ năng.
. Nùng Thống: đau do nhọt sưng tấy làm mủ, đau liên tục, căng tức.
. Ứ Huyết Thống: đau do ứ huyết, cố định một chỗ, ấn vào đau, cũng gọi Huyết
thống, gặp trong trường hợp đau viêm ruột dư cấp.
. Hư Thống: tính chất đau hòa hoãn, không có cảm giác căng tức, xoa ấn dễ chịu, ít
gặp trong ngoại khoa.
. Thực Thống: đau nhiều kèm theo cảm giác căng tức, ấn đau tăng (cự án).
c Chứng Ngứa: Gặp nhiều ở bệnh ngoài da, là một triệu chứng chủ quan của người
bệnh, trong các chứng lở loét nhọt độc ít gặp nhưng cũng có. Ngứa là do các tà khí
phong, thấp, nhiệt, trùng gây nên, khí huyết không điều hoà tạo thành.
Do nguyên nhân gây ngứa khác nhau nên tính chất ngứa cũng khác.
. Ngứa Do Phong (Phong Dưỡng): tính di chuyển, dễ thay đổi, như ngứa do chứng
mề đay. Vì phong hướng lên trên nên ngứa phần trên đầu mặt nhiều, gãi dễ nổi
mẩn, hay tróc vảy, gặp trong chứng Diện du phong, Bạch điến phong.
. Ngứa Do Thấp (Thấp Dưỡng): thường nổi mụn phỏng nước (thủy bào), chảy
nước vàng có khi lan thành đám như thấp chẩn. Vì thấp hướng xuống dưới cho nên
thấp dưỡng thường gặp ở phần dưới cơ thể.
. Ngứa Do Nhiệt (Nhiệt Dưỡng): da đỏ, nóng, sẩn đỏ thành mảng, ngứa nhiều, gặp
nóng tăng thêm, gãi dễ chảy máu; gặp trong chứng huyết phong sang (dị ứng).
. Ngứa Do Trùng Thú Cắn (Trùng Dưỡng): ngứa rất khó chịu, như trùng bò trong

da, dễ lây lan như bệnh ghẻ.
. Hư Dưỡng: chứng ngứa do khí huyết hư, da dày khô, tróc vảy.
. Liễm Dưỡng: chứng nhọt lở lúc mủ độc đã hết, tổ chức hạt mới sinh sắp lành
miệng sinh ngứa do khí huyết lưu thông tốt kích thích lên da non.
Các mụn nhọt trước khi vỡ mà phát ngứa là phong và nhiệt phối hợp với nhau. Sau
khi đã vỡ mà phát ngứa là bình thường, khí huyết dần dần đầy đủ, bồi dưỡng cho
thịt mới da non nhưng cần phải như kiến bò mới tốt. Nếu có biến chứng mà phát
ngứa, bệnh nhẹ thì do nước mủ thấm ngầm, bệnh nặng do miệng nhọt bị cảm
phong phát ra. Mụn nhọt lồi ra hình như bột gạo mà ngứa, sau khi gãi chảy nước là
kinh Tỳ có thấp; Chảy máu tươi là kinh Tỳ bị táo quá. Ngoài ra, nếu ngoài da bị
ghẻ mà ngứa, thuộc về bệnh phong, lai (cùi hủi).
+ Chứng Mủ: Sinh mủ là một giai đoạn phát triển của nhọt. Nhọt có mủ là chính
khí đã chặn được độc tà để bài tiết ra ngoài. Thường nhọt đã làm mủ chín sẽ tự
chảy ra ngoài hoặc cần phải rạch da tháo mủ, tháo hết mủ mới có thể lành miệng,
Do đó, biện chứng mủ là một phần không thể thiếu trong ngoại khoa.
Biện chứng mủ có hay không:
. Có Mủ: nhọt mềm (nhọt nông dễ bể, chẩn đoán nhọt hay apxe sâu hơi khó, nhiều
khi phải chọc dò để chẩn đoán), ấn đau rõ, có cảm giác bập bềnh.
. Không Có Mủ: nhọt vẫn cứng, ấn hơi nóng, đau ít, ấn không có cảm giác bập
bềnh, chọc dò không có mủ.
Biện chứng mủ nông hay sâu:
Mủ Nông: da nóng đỏ tím, nhọt sưng cao bóng sáng, da mỏng, ấn nhẹ đã đau, bập
bềnh rõ.
Mủ Sâu: mầu da quanh nhọt không thay đổi, chính giữa hơi đỏ, bóng láng, ấn
mạnh đau, vùng da bệnh hơi nóng, cảm giác bập bềnh không rõ, có thể dùng chích
hút mủ.
Biện chứng tính chất, sắc thái, khí vị của Mủ:
. Mủ là do huyết nhục hóa thành cho nên thường đặc sệt. Nếu mủ đặc là khí huyết
đầy đủ, nếu mủ loãng là khí huyết hư. Các chứng dương như Ung nhọt, Nhọt độc
(Hữu đầu thư), Tiết (nhọt), Ápxe (lưu chú), Viêm tủy xương (Phụ cốt thư) thì mủ

thường đặc. Các loại âm chứng như Loét, Loa lịch (Lao hạch cổ), Lưu đờm (Lao
xương khớp), mủ thường loãng.
Nếu bắt đầu mủ vàng đặc, sau đó mủ vàng nước là triệu chứng thu miệng tốt. Nếu
mủ từ loãng chuyển thành đặc là cơ thể hồi phục, là dấu hiệu thu miệng. Nếu mủ từ
đặc chuyển thành loãng là cơ thể suy dần, thu miệng khó.
. Sắc Thái Của Mủ: nếu mủ vàng, trắng, đặc, sắc tươi sáng là khí huyết đầy đủ, dấu
hiệu tốt. Nếu mủ vàng đục, chất dính, sắc không trong là hỏa khí thịnh, thuộc
chứng thuận; Nếu mủ vàng, trắng, loãng, trong, khí huyết tuy hư nhưng chưa phải
là chứng bại. Nếu mủ sắc xanh đen, loãng, là chứng độc tụ lâu ngày, có khà năng
làm tổn thương gân cốt. Nếu trong mủ có ứ huyết, sắc tím thành cục là huyết lạc bị
tổn thương.
. Khí Vị Của Mủ: mủ thường có mùi tanh. Nếu tanh hôi thối, chất loãng, phần lớn
thuộc chứng nghịch, và thường là chứng ăn sâu vào xương.
. Biện Chứng Tê Dại: Tê dại là không còn cảm giác đau, ngứa, do khí huyết vận
hành trở ngại hoặc độc tà thịnh, trong ngoại khoa thường gặp ở những trường hợp
cá biệt. Như trong chứng đinh sang, nhọt độc có đầu, nhọt sưng cứng màu sẫm, tê
dại không biết đau, kèm thẹo triệu chứng toàn thân nặng là do độc tà thịnh, dễ gây
nhiễm độc toàn thân (đông y gọi là tẩu hoàng hoặc nội hãm). Còn chứng hủi (ma
phong), tắc mạch chi (thoát thư) lúc mới phát là do khí huyết ứ trệ phát triển có thể
gây loét, rất khó lành miệng.
. Biện Chứng Loét: Chứng nhọt đã vỡ loét gọi là hội dương. Do cơ thể khí huyết
thịnh suy, tính chất bệnh lý khác nhau mà chứng loét biểu hiện về màu sắc và hình
thái khác nhau, cách phòng trị và tiên lượng cũng khác.
. Hình Thái Loét: phân biệt về hình thái để hiểu tính chất của loét.
(Loét Mủ Độc: chân loét nhỏ miệng rộng, bờ nghiêng như Ung thư, Đinh, Nhọt
(Tiết, Sang).
(Loét Chứng Sang Lao (Âm Sang): bờ loét khoét sâu dưới da như chứng Lao hạch
(Loa lịch), Lưu đờm (Lao xương khớp).
(Loét Dinh Dưỡng: bờ loét trên dưới đều, thường sâu vào tận xương, tổ chức hạt
thường sắc tái nhợt, gặp ở chứng Loét hủi, Loét sâu quảng.

(Loét Ung Thư: loét lồi lõm, không đều, như đóa hoa, nham thạch, gặp trong
chứng nhũ nham (ung thư vú), ung thư hạch cồ (thất vinh).
. Loét Do Dị Vật: Ở miệng loét có thịt lồi lên kèm theo chảy mủ, gặp trong chứng
chín mé (giáp thư), viêm xương tủy (phụ cốt thư, vô đầu thư) cùng các loại dị vật
khác gây loét.
. Lỗ Dò: là nhọt có một hoặc nhiều lỗ nhỏ có mủ chảy, lâu ngày lỗ chỗ có lồi thịt,
da chung quanh lõm xuống hoặc sờ thấy những cục cứng. Có loại tiên thiên như dò
trước tai; Do nhọt làm mủ gây nên như dò vú, dò hậu môn; Do phẫu thuật nhiễm
khuẩn; Do dị vật không ra hết cũng gây dò.
Màu Sắc Của Loét:
. Loét mà sắc đỏ tươi màu như quả thạch lựu, tươi nhuận là khí huyết đầy đủ, loét
chóng lành.
. Loét sắc đỏ như máu là hỏa độc thịnh, huyết nhiệt.
. Loét mà thịt sắc xanh tối, da quanh loét mát, nước mủ loãng, lâu chưa lành miệng
là dương khí hư hàn hoặc do ngoại cảm phong hàn.
. Loét sắc thịt hồng nhạt là khí huyết bất túc, tổ chức hạt mọc chậm. Nếu loét mà tổ
chức hạt trắng bệch, bóng như gương, là khí huyết khô kiệt, tiên lượng xấu.
. Loét sắc tím thâm là độc khí thịnh hoặc khí huyết ứ trệ.
. Loét mà sắc đen cháy là da thịt hoại tử.
. Loét mà trên mặt phủ một lớp mủ vàng hoặc trắng là rêu mủ.
. Loét mà tổ chức hạt mọc cao hơn da mà không tự tiêu tức thịt lồi.
. Loét sắc đen lõm xuống, không có mủ, quanh da mầu đỏ sẫm, sưng to ra, là triệu
chứng đinh nhọt gây nhiễm trùng huyết.
Biện Chứng Lành Dữ Thuận Nghịch
Biện chứng lành dữ, thuận nghịch trong ngoại khoa Đông y là để tiên lượng bệnh.
Chứng lành là tiên lượng tốt, chứng dữ là tiên lượng xấu, chứng thuận là bệnh phát
triển bình thường, chứng nghịch là bệnh phát triển không bình thường. Lành dữ
thường biểu hiện tình trạng toàn thân; thuận nghịch chủ yếu là biểu hiện bệnh lý tại
chỗ. Phán đoán tiên lượng bệnh tốt xấu, một mặt phải xem tình hình bệnh lý thuận
nghịch tại chỗ, đồng thời phải kết hợp với tình hình lành dữ của toàn thân, mới có

được sự phán đoán chính xác.
Năm Điểm Lành Bảy Điểm Dữ (theo sách ‘Dương Khoa Tuyển Túy’.
Là tổng kết kinh nghiệm của người xưa trong khi điều trị trên lâm sàng. Chủ yếu là
nắm vững biểu hiện của bệnh lúc đó để tiên lượng được sự lành dữ của ung nhọt.
Theo các nhà chuyên môn thì trong 5 điều lành, thấy có 3 điểm là tốt, bẩy điểm dữ
thấy có hai điểm là xấu.
* Năm Chứng Lành:
1- Tâm Lành (Tâm Thiện): Tinh thần tỉnh táo, khoan khoái, tiếng nói hòa nhã,
thông suốt, lưỡi nhuận không khô, mụn nhọt tuy đau mà không khát, không có hiện
tượng buồn bực, trằn trọc, ngủ bình thường.
2- Can Lành (Can Thiện): thân thể nhẹ nhàng, không tức giận, không sợ, móng tay
chân đỏ nhuận, nhị tiện thông lợi, khi nằm, thức dậy đều yên tĩnh.
3- Tỳ Lành (Tỳ Thiện): sắc môi tươi nhuận, ăn uống biết ngon, mủ vàng đặc mà
không hôi thối, đại tiện điều hòa. Môi miệng nhuận hoạt, ăn uống như thường, mủ
đặc vàng.
4- Phế Lành (Phế Thiện): tiếng nói sang sảng, không ho, không khó thở, hô hấp
điều hòa, sắc da tươi nhuận.
5- Thận Lành (Thận Thiện): không sốt về chiều, miệng và răng nhuận, tiểu tiện
trong, nhiều, đêm ngủ ngon giấc.
* Bảy Chứng Dữ:
(1) Tâm Dữ (Tâm Ác): thần chí hôn mê, tâm phiền, lưỡi khô, mầu nhạt, tím đen,
nói không rõ ràng, mụn nhọt mầu đen bầm.
(2) Can Dữ (Can Ác): cơ thể cứng đờ, mắt khó nhìn thẳng, nhọt chảy nước máu,
hồi hộp, co giật.
(3) Tỳ Dữ (Tỳ Ác): cơ thể gầy mòn, nhọt lõm, mủ hôi thối, không muốn ăn uống,
uống thuốc nôn ra.
(4) Phế Dữ (Phế Ác): da khô, đờm nhiều, nói nhỏ, thở khó, cánh mũi phập phồng.
(5) Thận Dữ (Thận Ác): khát đòi uống nước, sắc mặt xam đen, họng khô, bìu đái
co rút.
(6) Bại Tạng Phủ: cơ thể phù thũng, nôn mửa, nấc cụt, bụng sôi, tiêu chảy (Trường

minh tiết tả), miệng loét lan rộng.
(7) Khí Huyết Suy Kiệt (Dương Thoát): nhọt lõm, mầu tối, chảy nước bẩn, chân
tay lạnh, ra mồ hôi, thích nằm, nói nhỏ.
Biện chứng thuận chứng nghịch
Chứng thuận chứng nghịch là chỉ tình hình bệnh lý tại chỗ, phân làm 4 thời kỳ
bệnh.
+ Chứng Thuận
. Giai đoạn đầu: từ nhỏ to dần, nhọt sưng cao, nóng đỏ, đau, chân nhọt không lan
rộng.
. Làm mủ: đỉnh cao, gốc thu lại, da mỏng bóng, làm mủ dễ.
. Vỡ mủ: mủ trắng, vàng, đặc, sắc tươi, không thối, chất hoại tử dễ thoát ra, sưng
giảm đau giảm theo.
. Thu miệng: miệng nhọt đỏ tươi, nhuận, thịt non dễ sinh, miệng nhọt thu lại, cảm
giác bình thường.
+ Chứng Nghịch:
. Giai đoạn đầu: đỉnh nhọt bằng, chân nhọt tán ra, không đau, không nóng.
. Làm mủ: đỉnh nhọt mềm lõm, sưng cứng, tím tối, không làm mủ.
. Sau loét: da loét, thịt cứng, không có mủ, chảy nước, máu, sưng đau không giảm.
. Thu miệng: nước mủ loãng, chất thối thoát ra, thịt non không mọc, nhọt có mùi
thối, miệng nhọt lâu ngày không liền, không đau, không ngứa.
Xét Về Kinh lạc
Ung nhọt tuy mọc ở phần biểu của cơ thể nhưng lại có quan hệ với kinh lạc, tạng
phủ, vì vậy, nếu nắm được học thuyết kinh lạc thì mới có thể dựa trên đường vận
hành của kinh lạc mà suy đoán được vị trí phát bệnh thuộc kinh lạc nào từ đó mới
chia kinh để dùng thuốc. Thí dụ:
. Nhọt mọc ở đỉnh đầu liên hệ với mạch Đốc.
. Nhọt ở hai bên đầu liên hệ với kinh Bàng quang.
. Mọc ở môi thuộc kinh Tỳ.
. Mọc ở sau tai thuộc kinh Đởm
Dựa theo đặc tính khí, huyết nhiều ít của từng đường kinh để tiên liệu việc dễ hoặc

khó trị:
Nhọt mọc ở những đường kinh nhiều huyết, ít khí (Can, Tâm bào, Tiểu trường,
Bàng quang) và những kinh nhiều huyết nhiều khí (Vị, Đại trường) thì dễ trị hơn.
Nhọt mọc ở những đường kinh nhiều khí, ít huyết (Đởm, Thận, Tâm, Phế, Tỳ) thì
khó trị hơn.
Xét Về Mạch
Theo quá trình của ung nhọt thì trước khi vỡ mủ, mạch nên hữu dư, sau khi đã vỡ
mủ mạch nên bất túc. Nhọt chưa vỡ mà mạch hữu dư là dấu hiệu độc khí đang
thịnh; khi vỡ rồi mạch nên bất túc là dấu hiệu chính khí đã hư, đều là hiện tượng
bình thương của mạch và chứng thích hợp với nhau. Nếu nhọt chưa vỡ mà thấy
mạch bất túc là dấu hiệu chính khí suy mà độc khí hãm lại. Hoặc khi nhọt đã vỡ mà
vẫn thấy mạch hữu du đó là chính khí bị trệ mà độc khí thịnh đều là dấu hiệu khác
thường của mạch và chứng không tương hợp với nhau.
Phân Loại Các Bệnh Chủ Yếu Thường Gặp Trong Ngoại Khoa
Phạm vi bệnh ngoại khoa, đa số đều lấy ung nhọt làm chủ. Trong bài tổng luận
sách ‘Dương Khoa Tuyển Túy’ viết: “Chứng bệnh của Dương khoa không gì quan
trọng bằng chứng ung nhọt”. Vì vậy các sách vở thời nhà Minh, Thanh đều chú
trọng về lý luận của bệnh ung nhọt.
+ UNG: có hình thể cứng, mọc ở khoảng giữa bắp thịt. Mới phát thì ở ngoài da,
chưa có đầu làm mủ, chỉ sưng đỏ, cao, nóng, đau, chung quanh viền chưa rõ. Khi
chưa thành mủ thì dễ tiêu. Khi đã thành mủ thì dễ vỡ, vỡ rồi cũng dễ thu miệng.
Thí dụ mụn ở cổ, ở vú, ở mông
+ NHỌT (từ chuyên môn xưa gọi là Thư), có hai loại:
. Một loại phát ở khoảng giữa bắp thịt, khi mới phát đã có đầu mủ, hình như hạt
lúa, rất dễ lở loét, lan rộng ra chung quanh, có nhiều đầu giống như tổ ong. Thí dụ:
Não thư, Bối thư. Lại có loại ngoài da không có đầu mủ, bằng phẳng và sưng lan
tỏa ra, mầu da bình thường, không đỏ, không nóng. Chưa thành mủ thì khó tiêu, đã
thành mủ thì khó vỡ, khi vỡ rồi thì khó liền miệng và thường gây tổn hại đến gân
xương. Thí dụ loại Phụ cốt thư, Hoãn thư
+ ĐINH NHỌT: đa số mọc ơ đầu, mặt, chân tay.

Đinh mọc ở đầu mặt thì lúc đầu nhỏ như hạt lúa, chân đinh sâu mà cứng, tê, ngứa,
hoặc lúc đầu ngứa rồi sau đó đau, chung quanh sưng và nóng. Nếu nặng quá thì
kèm nóng lạnh, gây biến chứng nhiễm trùng máu, rất nguy hiểm (Đông y gọi là
Tẩu hoàng).
Đinh nhọt mọc ở chân tay đa số sưng đỏ nhưng không có đầu rõ rệt. Nếu có tia đỏ
chạy lên thì gọi là Hồng ty đinh.
MỤN NHỌT: là một loại nhọt ở ngoài da. Có thể chia thành hai loại: có đầu và
không có đầu. Chân mụn rất nông, sưng đỏ, đau, ấn vào không thấy cứng, chỗ sưng
có giới hạn, ngang dọc khoảng vài cm, vì vậy, tương đối nhẹ và dễ trị.
TRÀNG NHẠC: Là một loại bệnh mạn tính, thường mọc ở cổ và gáy, cũng có khi
lan xuống đến ngực, nách.mới mọc có hình dạng giống hột đậu, mầu da không thay
đổi, dần dần to lên, hoặc dài hoặc tròn hoặc chỉ mọc một mụn, hoặc nổi chùm như
chuỗi hạt, lấy tay day vào thì thấy di động, ấn vào đau, lâu ngày không khỏi thì vỡ
ra, khi vỡ thì khó thu miệng lại được, gây nên vết sẹo lớn.
BƯỚU CỔ (Anh Lựu): Anh thuộc về dương chứng, hình dáng giống như cái giải
mũ, sắc đỏ mà nhô cao lên, da phẳng, cuống nhỏ mà thòng xuống, ấn vào hơi mềm,
không bao giờ vỡ ra. Lựu thuộc về âm chứng, chỗ sưng có giới hạn, da non mà
sáng bóng, đầu nhỏ mà chân lớn, ấn vào thấy hơi cứng.
BƯỚU ĐỘC (Nham): Khi mới mọc hình dạng giống như hạch kết lại, sau đó thì
cứng như đá, không đau. Vài năm sau mới bắt đầu vỡ ra nhưng chỉ chảy máu mà
không có mủ, lúc đó lại rất đau, chỗ bị đau nứt, loét ra, chỗ vết thương sần sùi, lồi
lõm như nham thạch, vì vậy người xưa gọi là Nham. Thí dụ như Nhũ nham
Thường rất khó trị.
NHỌT DI CHUYỂN (Lưu chú): Phát ra không nhất định, chứng trạng chính là
sưng lan man không có đầu, mầu da không thay đổi. Chứng này rất dễ chạy quanh,
thường chỗ này chưa khỏi chỗ khác đã sinh, không ở nơi nhất định vì vậy mới
được gọi là Lưu Chú.
TRĨ: Trong các lỗ hổng có miếng thịt lồi ra đều gọi là trĩ như trĩ tai, trĩ mũi và trĩ
hậu môn. Có loại đầu to chân nhỏ, có loại đầu rộng chân nhỏ giống như cái nấm,
như quả cà, không nhất định. Bệnh trĩ ở hậu môn lại có thể chia làm hai loại: mọc

ở phía ngoài hậu môn gọi là Ngoại Trĩ, mọc ở bên trong hậu môn gọi là Nội Trĩ.
LỖ DÒ (Lậu): Các loại nhọt ở ngoài vỡ đã lâu mà không thu miệng, miệng nhọt
lõm sâu, nước mủ chảy ra dầm dề, gọi là dò (lậu). Thí dụ: Nhãn lậu, Tề lậu, Hậu
môn lậu trên lâm sàng thường gặp chứng rò hậu môn nhiều hơn.
ĐƠN ĐỘC: một loại phát sinh ngoài da. Có hai loại:
. Can tính: mầu đỏ, hình dáng giống như đám mây lượn, chạy không nhất định,
trên mặt nổi mụn như hạt lúa, nóng, ngứa.
. Thấp tính: nổi mụn, phồng lên, mầu vàng hoặc trắng, chảy nước đến đau thì loét
đến đó, đau nhức nhiều hơn.
NHỌT NỘI TẠNG (Nội Ung): Là loại mụn nhọt phát triển trong nội tạng. Thí dụ:
Phế ung (áp xe phổi), Can ung (áp xe gan), Trường ung (Ruột dư viêm)

×