Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Hò giã gạo - Nét sinh hoạt văn hóa dân gian đậm chất ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.22 KB, 11 trang )

Hị giã gạo - Nét sinh hoạt văn hóa dân gian
đậm chất Huế
Thừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày
trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền
Trung, hị là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

Hị giã gạo là một hình thức sinh hoạt dân ca phổ rất biến ở nông thôn Thừa
Thiên Huế. Đây là loại hình dân ca được trình bày với bối cảnh cơng chúng
đơng đảo, có tiết tấu sôi nổi, cuốn hút, rất hấp dẫn với người diễn cũng như
người nghe. Trên một sân gạch rộng, quanh vài ba cây cối gạo, những nghệ
nhân (có thể trực tiếp cầm chày giã gạo hoặc khơng) hị theo nhịp chày.
Phần họ hò gọi là phần “xướng”, như:
Khoan khoan mời khoan lại hị... lờ
Hị hơ hố hơ...


Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chỉ sá, kiếm ngọn lá nọ về cho anh xông
Công chúng xung quanh hò theo, phần hò theo gọi là hò “xơ”.
Hị hơ hố hơ... hị...
Hị hơ hơ hị...
Nghệ nhân hị tiếp phần “xướng”:
Ở làm ri đây cho phải đạo vợ chồng
Đổ mồ hơi ra em chặm, ngọn gió lồng em che
Cơng chúng hị “xơ” tiếp:
Hị hơ hố hơ... hị...
Hị hơ...
Sức hút của hò giã gạo, một phần lớn đến từ sự gắn bó, giao lưu giữa người
hị và người nghe, hay nói cho đúng, tồn thể những ai tham gia cuộc hò đều
là người diễn xướng. Mở đầu là một làn điệu dân ca nhằm phục vụ một sinh
hoạt lao động nhất định (giã gạo) điệu hị đã dần thốt ly mục đích ban đầu


của nó để trở thành một hình thức sinh hoạt văn nghệ thuần tuý. Nhiều lúc ở
quê, đến lúc giã hết gạo mà vẫn còn mê hị, người ta bỏ trấu vào cối giã, cốt
có tiếng chày để làm nhịp.
Hị giã gạo - Loại hình văn nghệ đậm chất sân khấu


Hị giã gạo khơng chỉ dừng lại trong ý nghĩa lao động và sinh hoạt giải trí ở
nơng thơn mà còn bao hàm nhiều ý nghĩa thâm sâu. Trước hết đó là một sinh
hoạt văn nghệ dân gian truyền thống hàm chứa các khía cạnh âm nhạc, văn
chương, nghệ thuật trình diễn, một kịch bản có tính thẩm mĩ khơng đơn điệu
mà vừa trữ tình sâu lắng vừa hứng thú sơi nổi. Hị giã gạo cũng cịn là một
biểu hiện của nền văn minh nơng nghiệp trồng lúa nước; nó ghi lại những
dấu ấn lịch sử văn hoá của quá khứ; nó phản ánh tính hợp quần của dân tộc
trong lao động cũng như trong những mối quan hệ xã hội khác. Dưới cái
nhìn văn hố học, một buổi hị giã gạo hồn chỉnh có tính chất sân khấu
cũng cịn thể hiện một khía cạnh của quy luật phát triển văn học - nghệ thuật
của cộng đồng dân tộc.
Trong thời hiện đại, nghề nông cũng như nhiều nghề thủ công khác hầu như
đã cơ giới hố, từ đó dẫn đến một số hình thức văn nghệ liên quan với lao
động như trôi vào dĩ vãng. Do vậy, các nhà nghiên cứu cũng như mọi tầng
lớp nhân dân khơng những có ý thức bảo tồn mà còn phát triển những di sản
văn hố dân tộc khi cịn chưa q muộn.
Hị giã gạo có thể ra đời khá lâu, muộn nhất là vào thời văn hố Đơng Sơn
mà dấu vết là hình người chèo thuyền, giã gạo, thổi kèn được khắc hoạ trên
mặt trống đồng. Hò gắn với việc giã gạo bằng chày tay hoặc chày vồ nhưng
ít nghe giọng hị câu hát gắn với chày tay nhất là ở đồng bằng bởi loại chày
dài, động tác giã khó khăn, nhọc nhằn. Trái lại, giã gạo bằng chày vồ thì
thoải mái và tương đối nhẹ nhàng, thuận lợi cho việc hò hát. Vì vậy, cũng ở
trong thang âm ngũ cung, hị, xư, sang, xê, công của âm nhạc truyền thống
dân tộc, nhưng làn điệu của giọng hò câu hát chắc khoẻ, tươi mát, dồn dập

chan hoà với nhịp điệu của tiếng chày râm ran, phổ biến nhiều địa phương ở


miệt đồng bằng mà Thừa Thiên - Huế là một trong những địa chỉ điển hình.
Do tình hình cơng nghiệp hố, những thập niên của cuối thế kỉ XX, hị giã
gạo gần như tách rời khỏi môi trường sinh ra nó và đang trên đà trở thành
một loại hình dân ca sân khấu dân gian trong những dịp lễ hội ở nông thôn
và đô thị.
Hầu hết các làng xã ở Thừa Thiên Huế gọi tắt là Huế, cũng như các tỉnh Bắc
Trung Bộ, hị giã gạo thường đi đơi với công việc giã gạo diễn ra ở các điền
chủ hoặc ở những nhà của người bán hàng xáo. Cũng có những trường hợp
đến khi gạo hết, nhưng cuộc hò còn nhiều hứng thú, người ta cho trú (trấu)
vào cối thay thế gạo để cuộc hị được tiếp diễn đơi khi kéo dài đến thâu đêm.
Do cái sôi nổi, hào hứng của làn điệu và diễn xướng, do tính thẩm mĩ vừa
trữ tình vừa hài hước của lời hị, từ hị giã gạo gắn với lao động trong làng,
xã đã dẫn đến cơng diễn hị giã gạo ở huyện, tỉnh và đô thị Huế nhiều thập
niên với tư cách là một loại hình văn nghệ có tính chất sân khấu.
Hị giã gạo miền Trung, đặc biệt ở Huế đã hình thành nhiều thế kỉ và có thể
phát triển vào đầu thế kỉ XX cho nên có tính ổn định và phổ biến về làn điệu,
thể thức diễn xướng và kết cấu. Vì vậy, ngoại trừ một số trường hợp trình
diễn sân khấu có tính tổ chức, hầu hết hị giã gạo diễn ra trong lao động và
thực tiễn đời sống xã hội cho nên có tính tuỳ tiện. Trước hết, về thời điểm
tuy thường hò giã gạo lúc về đêm, nhưng khơng quy định về giờ, ngày,
tháng như các loại hình nghệ thuật sân khấu hoặc như hát quan họ, “đến hẹn
lại lên”, như các hình thức hát trong lễ hội mùa xuân ở miền Bắc, “Nhớ ngày
mồng 7 tháng ba, trở về hội Láng trở ra hội Thầy”. Về địa điểm cũng vậy, có
thể trong nhà, ngồi cươi (sân), nơi sân đình, ở góc chợ...


Hị giã gạo là một loại hình văn nghệ khơng chun nên khơng có ơng bầu

hay đạo diễn mà diễn viên là những nông phu, nông phụ, trai gái trong làng
tự nguyện làm thành viên cối hò lúc giã gạo cũng như lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi.
Đó là những người có năng khiếu văn nghệ, có giọng hị, câu hát, có tài ứng
đối điêu luyện mà trong mỗi làng, mỗi xã chỉ có chừng năm, ba người. Họ
trở thành danh ca dân gian không thông qua trường lớp mà do trường đời
đào tạo. Khán thính giả là những người cùng lao động, những người trong
xóm, trong làng tụ tập xung quanh cối hò ở dưới mái hiên, nơi bờ dậu, cạnh
hàng cau, khóm chuối và xa hơn nữa là dưới luỹ tre làng.
Hò giã gạo: Những đặc trưng về kết cấu
Hò giã gạo là điệu hò đối đáp. Mỗi cối gạo có 2, 4 hoặc 6 người. Mỗi buổi
hị giã gạo có ba phần: hị chào hỏi, hị vào cuộc, hị chia tay. Hị vào cuộc là
phần chính, linh hoạt, vui vẻ; những câu hị đối đáp khi thì ân cần, vồn vã,
khi thì hài hước, tinh nghịch, khi thì trữ tình thống thiết. Đặc biệt của hị giã
gạo là các nơng dân tham dự sinh hoạt có tài xuất khẩu thành chướng: xướng
họa, đối đáp tự nhiên, hầu như không suy nghĩ.
Dù diễn ra ở môi trường nào, một buổi hị giã gạo hồn chỉnh ở Huế vận
động theo một kết cấu ổn định và chặt chẽ về tổ chức diễn xướng cũng như
về thể thức trình diễn.
Về tổ chức diễn xướng: Một cối hị thường có 4 nghệ nhân (2 nam và 2 nữ)
hình thành hai đơi hị khác giới tính: một đơi nam nữ hị ân tình, một đơi
nam nữ hị đâm bắt. Đơi hị ân tình xoay quanh chủ đề trữ tình, họ như là
một đơi trai gái thổ lộ tình cảm, niềm thương nỗi nhớ trong quan hệ lứa đơi,
vợ chồng. Đơi hị đâm bắt, ở Nam Bộ gọi là quăng bắt thể hiện tiếng nói trêu


ghẹo, khiêu khích, châm chọc lẫn nhau trong quan hệ tình cảm lứa đơi. Lời
thơ hị giã gạo thường là những bài thơ dân gian (ca dao dân ca) truyền
thống hay ứng tác hoặc có thể phỏng theo các truyện Phạm Công Cúc Hoa,
Lâm Sanh Xuân Nương, Kiều, Lục Vân Tiên để hị hát. Mỗi đơi hị đối đáp
với nhau trong phạm vi chủ đề của mình khơng trực tiếp mà ln phiên xen

kẽ nhau theo cơng thức: Ân tình - Đâm bắt - Ân tình - Đâm bắt.

Về thể thức và trình tự diễn xướng: Làn điệu hị giã gạo ở trong hệ thống
thang âm điệu thức âm nhạc truyền thống dân tộc. Trong q trình diễn
xướng khơng có âm nhạc phụ hoạ chỉ có những tiếng trống khen tặng, những
câu hị đối ứng hấp dẫn, lí thú. Loại hị này trình diễn theo hình thức đồng
diễn đa xướng gồm hai vế xướng và xô. Vế xướng do một cá nhân đảm trách
nhưng khơng cố định hố mà những thành viên trong cối hò luân phiên tham
gia diễn xướng theo thể thức đối đáp từng đôi một. Vế xô cho tập thể đáp
ứng bằng những tiếng đệm “hồ hô hơ hồ”, nét đặc trưng về âm điệu của hị
giã gạo. Trình tự một buổi hị giã gạo hồn chỉnh diễn tiến theo ba chặng
liên quan với nhau là hò mời chào, hò vào cuộc, hò từ tạ.


Hị mời chào: Hị mời chào cũng có thể gọi là phần hò mở đầu, lời hò hàm
chứa nội dung mời gọi và chào hỏi khán thính giả. Chặng hị này có tính
chất nghi thức thay cho lời thưa gởi, khai mở buổi hò cho nên lời hò mở đầu
thường dành cho người lớn tuổi hay nghệ nhân đã có danh tiếng trong giới
hị. Lời hị giã gạo trong đó có hị chào hỏi ít hoa mĩ, chải chuốt mà nôm na,
mộc mạc nhưng vẫn hào hứng, tươi mát, trữ tình bởi đó là tiếng lịng của
cộng đồng làng xóm, họ hàng ở nơng thơn.
Hị vào cuộc: Sau hị chào hỏi thì kế tục là chặng hị chính thức, trọng tâm
của buổi hò. Mỗi thành viên của cối hò theo chủ đề của mình luân phiên diễn
xướng đối đáp với nhau mà các nghệ nhân đã quy ước, trong đó có: Đơi hị
ân tình và Đơi hị đâm bắt.
Đơi hị ân tình hị đối đáp với nhau trong quan hệ tình cảm tương hợp, trong
nhịp lịng đồng điệu, hồ quyện vào nhau mà khơng xung khắc, đối chọi. Đó
là những tâm trạng bâng khuâng, vui buồn, những niềm thương nỗi nhớ trao
gởi cho nhau để cùng nhau san sẻ. Nội dung đối đáp như một chuyện tình
lứa đơi trong đời thường được thi vị hoá như một kịch bản ở dạng lời ca

giọng hị.
Cũng trong chủ đề ân tình, nghệ nhân có thể chuyển qua hị tuồng, hị
truyện. Trong trường hợp này, đơi hị ân tình đóng vai các nhân vật trong
truyện để đối đáp tình cảm với nhau.
Đơi hị đâm bắt xen kẽ với đơi hị ân tình, diễn xướng đối đáp nhau trong
quan hệ tương khắc. Nội dung lời hị hàm chứa ý nghĩa khiêu khích, châm
biếm, thách đố lẫn nhau qua các hình thức đối đáp, đố đáp. Đơi hị này như
thể hiện cái hài bên cạnh cái “bi” (tạm gọi) của chuyện tình lứa đơi.


Hò từ tạ: Sự gặp gỡ nào rồi cũng phải chia tay, buổi hò giã gạo cũng vậy,
nhưng lúc chia tay bao giờ cũng dùng dằng, lưu luyến. Hò từ tạ vừa phản
ánh tâm trạng ấy, vừa hi vọng ngày tái ngộ trong những buổi sinh hoạt hò
hát và trên những nẻo đường đời.
Một cuộc hò giã gạo thường được tổ chức theo trình tự sau:
Hị mời, hị chào: Đây là phần hò lúc mở cuộc. Người trong sân mời gọi
những người cịn ngập ngừng bên ngồi. Lời mời có khi bộc trực, bông đùa:
Vô đây, mời bạn vô đây
Vô đây bàn đặt ghế xây sẳn sàng
Tội chi đứng xá ngồi đàng
Sương sa muỗi cắn, cảm thương hàn ai ni?
Có khi tình tứ nhẳn gởi:
Ngó vơ trong cối gạo này
Cả trai lực sĩ, cả gái thuyền quyên
Chắc tui nho nhỏ vô duyên
Không ai vô cầm chày giã gạo để kết nguyền trăm năm?
Khi đã tề tựu đông đủ, người ta chào, thắt chặt tình thân trước khi vào cuộc.
Nếu là nữ thì lời chào thường nhỏ nhẹ, ý tứ:
Em mở lời chào, chào nam, chào bắc, chưa chắc chào ai



Chào người cân lứa, chào kẻ vừa vai
Ai có ân thâm nghĩa trọng thì lắng tai nghe chào.
Lời chào bên nam thường nghịch ngợm hơn:
Tôi tới đây xin mở lời chào anh em trai quân tử
Chào chị em gái thục nữ thuyền quyên
Chào rồi lại hỏi thăm riêng
Em ham vui tới nhởi, hay băng miền tìm ai?
Sau phần chào mời, hỏi han, đến phần thứ hai của buổi hò: hò đố, hị đối.
Đây là phần thử thách trí tuệ. Lúc này bên cối giã gạo đã hình thành hai
“phe”: bên nam và bên nữ. Họ bắt đầu đố nhau, thông thường bên nữ giữ vai
trò chủ khảo, bên nam là thí sinh, và phần thưởng của cuộc thi được hứa hẹn
thật hấp dẫn:
Em đố anh một trăm cái hố, cái hố chi không nước
Một trăm cái thước, cái thước chi không cây
Một trăm cái cây, cây chi không trái
Một trăm con gái, gái chi không chồng
Trai nam nhi giải đặng, gái má hồng xin dâng.
-Em ơi em một trăm cái hố, cái hố khoan không nước


Một trăm cái thước, thước thợ mã không cây
Một trăm cái cây, cây đờn không trái
Một trăm gái, gái tố nữ không chồng
Trai nam nhi giải được má hồng em đâu?
…….
Phần cuối cùng, và cũng là phần hấp dẫn nhất, cuốn hút nhất của đêm hò giã
gạo là hò nhân ngãi (cịn gọi là hị ân tình). Tính chất giao duên của hò giã
gạo đậm nét nhất là ở phần này. Đây cũng là lúc gạo đã lần giã hết, trăng lên
viên mãn giữa đỉnh trời, trai gái bây giờ đã biết tài nhau và đã quen hơi bén

tiếng... Lời hị nhân ngãi thường trữ tình và lãng mạn, bộc bạch được mơ
ước tình yêu của thanh niên nam nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
-Hỏi em có nhớ hay không
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay
-Hỏi anh có nhớ hay quên
Thương anh từ thuở vịn phên đi lần.
-Em thương anh vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.
-Anh thương em tự nón đến quai
Thương trong lớp lá, thương ngoài đường may


Hai ta ơn trượng nghĩa dày
Dù xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngày mới xa.
Nếu ở phần hò đâm bắt, hai bên nam nữ đùa cợt có lúc suồng sã, tìm cách hạ
nhau, dìm nhau để gây cười, thì đến phần hị ân tình, họ lại dành cho nhau
những lời lẽ trân trọng nhất, thăng hoa nhất. Có lẽ đó mới là những tình cảm
sâu sắc nhất trong lịng họ, những chàng trai, cơ gái lãng mạn, đa tài, đã góp
phần khơng nhỏ vào việc sáng tác hàng trăm ngàn câu ca dao tuyệt vời về
tình u đơi lứa thơng qua làn điệu hị giã gạo.
Trong hị ân tình, người ta có thể hiện hị nhiều lối, ví dụ: lối Kim Kiều (bên
nam đóng vai Kim Trọng, bên nữ đóng vai Thuý Kiều), lối xa cách (hai bên
nam nữ thủ vai đơi tình nhân xa nhau hát về nỗi buồn khi xa cách), lối đi
Tây (thủ vai người chồng đi mộ phu cho Tây và người vợ ở nhà), ...
Hò giã gạo là một điệu hò vui tươi, linh hoạt.Cũng như các thể loại khác, hò
giã gạo ở Thừa Thiên Huế sẽ có những bước thăng trầm, phát triển, chuyển
đổi chức năng sinh hoạt như nó đã từng trải qua những năm tháng trước
đây. Khi Huế được công nhận là di sản văn hóa của nhân loại, khi lịng
người Thừa Thiên Huế vẫn u thích văn nghệ truyền thống thì chúng ta có
cơ sở và điều kiện để hy vọng dù thời gian có thay đổi, các làn điệu hị đầy

dân tộc tính cịn có cơ hội để phục sinh.



×