Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

nghiên cứu một số giải pháp và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ nông thôn hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.77 MB, 135 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một bộ phận tất yếu và đóng
vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ở các nước phát triển, DNNVV
tồn tại xen lẫn giữa những “gã khổng lồ”, chiếm lĩnh những mảng thị trường
còn bỏ trống, đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của nền kinh tế, tạo sự ổn
định… Ở châu Âu, số lượng DNNVV chiếm tỷ trọng tới 99,8% tổng số doanh
nghiệp (F.Janssen, 2009). Tại các nước đang phát triển vai trò của DNNVV
càng được khẳng định trong việc huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư
phát triển nhằm cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận
đông đảo dân cư. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là nước có nền kinh tế
khá tiêu biểu với tỷ trọng DNNVV chiếm khoảng 90%.
Tại Việt Nam từ năm 1986, khi đất nước có bước chuyển đổi rất quan
trọng từ nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung sang định hướng kinh tế
thị trường với nhiều thành phần kinh tế vai trò của DNNVV mới được nhận
thức đúng. Tuy nhiên do nước ta xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậu nên
khi tiến hành cải cách dù số DNNVV phát triển mạnh về số lượng mà thiếu về
mặt ổn định và khả năng cạnh tranh. Năm 2000 cả nước có 38.883 DNNVV
thì đến nay số DNNVV đã chiếm tới tới 95% trong tổng số 496.101 DN trong
cả nước, với tổng vốn đăng ký gần 2.313 ngàn tỷ đồng (khoảng 121 tỷ USD).
Khối DNNVV chiếm trên 50% về tổng số lao động trong DN nói chung và
đóng góp khoảng trên 40% GDP. Các DNNVV mà đặc biệt là những doanh
nghiệp phục vụ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn do ít vốn, công nghệ kỹ
thuật lạc hậu, trình độ quản lý và sản xuất kém tính mùa vụ cao trong sản xuất
mà đặc biệt là môi trường pháp lý còn nhiêu vướng mắc khiến dẫn tới kinh
doanh thiếu ổn định, sức cạnh tranh yếu. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế
1
thế giới (WEF) nhìn chung năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên các cấp độ
(quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm) so với thế giới còn thấp kém và chậm
được cải thiện. Tóm lại, các DNNVV phục vụ phát triển nông thôn ở nước ta
phần lớn từ kinh tế hộ gia đình, hợp tác xã, đã trải qua một chặng đường


chuyển mình đầy gian nan, thử thách với không ít thất bại nhưng cũng có
nhiều thành công. Để DNNVV, đặc biệt là các DNNVV phục vụ phát triển
nông thôn phát huy hơn nữa vai trò của mình trong nền kinh tế các cơ quan
chức năng cần thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ trong tiếp cận vốn,
huy động các nguồn lực tài chính cho DNNVV; tháo gỡ khó khăn về mặt
bằng sản xuất; hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng và bảo vệ
thương hiệu; thực hiện cải cách hành chính, nhất là về thủ tục thuế, hải quan
và đăng ký thành lập…
Ở nước ta nói chung và ở Hải Phòng nói riêng các giải pháp, chính sách
hỗ trợ DNNVV đã có ngay từ khi có sự nhận thức mới về vai trò của loại hình
này nhưng chỉ khi Nghị định 90/2001/NĐ-CP, với rất nhiều chương trình hỗ
trợ khác nhau những giải pháp, chính sách này mới thực sự trở thành một hệ
thống. Trên cơ sở của Nghị định 90/2001/NĐ-CP, hàng năm Chính phủ đã chi
rất nhiều cho các chương trình xúc tiến thương mại, thông tin thị trường, đào
tạo cán bộ quản lý, thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng nhưng đáng tiếc là
phần lớn DNNVV nhất là các DNNVV phục vụ phát triển nông thôn đã
không tiếp cận những chương trình này một cách có hiệu quả. Đây là một
thực tế mà chính các cơ quan quản lý nhà nước cũng đã phải thừa nhận.
Rút kinh nghiệm từ việc thực hiện các giải pháp và chính sách hỗ trợ
DNNVV được quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP, một chương trình hỗ
trợ khá toàn diện và đầy đủ đã được xây dựng cụ thể tại Nghị định
56/2009/NĐ-CP, cũng như tại Nghị quyết số 22/NQ-CP về các biện pháp hỗ
trợ DNNVV. Tuy vậy, sau một năm ra đời, Nghị định 56/2009/NĐ-CP vẫn
2
chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Hải Phòng là một thành phố tập trung một số lượng lớn các DNNVV
(trên 10.000 doanh nghiệp) của Việt Nam. Sự phát triển của những DNNVV
đã đóng góp to lớn vào nền kinh tế địa phương. Trong đó vai trò của những
DNNVV phục vụ phát triển nông thôn, nhất là trong vấn đề phát triển đồng
đều các khu vực trong toàn thành phố và ổn định về kinh tế chính trị trong

phát triển nông thôn là không thể phủ định. Tuy nhiên, khảo sát cho thấy
những DNNVV tại Hải Phòng nói chung đặc biệt là những DNNVV phục vụ
phát nông thôn còn gặp nhiều khó khăn trong SXKD trong đó có không ít
những khó khăn có thể khắc phục.
Trước hiện thực đó, câu hỏi đặt ra là:
1) Thành phố Hải Phòng đã vận dụng các chính sách, giải pháp này vào thực
tiễn như thế nào và có nét riêng gì?
2) Tác động của các chính sách, giải pháp hỗ trợ đến sự phát triển của
DNNVV phục vụ phát triển nông thôn của Hải Phòng?
3) Hệ thống chính sách, giải pháp hỗ trợ cho DNNVV phục vụ phát triển
nông thôn cần cải tiến theo hướng nào?
Để trả lời cho câu hỏi này tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu một số giải pháp và chính sách hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ nông thôn Hải Phòng
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Từ nghiên cứu đánh giá thực trạng các giải pháp, chính sách hỗ trợ
DNNVV phục vụ phát triển nông thôn thành phố Hải Phòng đề xuất định
hướng hoàn thiện.
3
1.2.3. Mục tiêu cụ thể
1) Góp phần hệ thống hóa các cơ sở lý luận về giải pháp và chính sách hỗ trợ
DNNVV làm rõ về DNNVV phát triển nông thôn.
2) Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng các giải pháp và chính sách hỗ trợ
phát triển DNNVV phục vụ nông thôn Hải Phòng.
3) Đề xuất một số định hướng giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giải pháp
và chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV phục vụ nông thôn ở Hải Phòng.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng vận dụng các giải pháp

và chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển hiệu quả và bền vững các
DNNVV phục vụ phát triển nông thôn Hải Phòng.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Đề tài tập trung nghiên cứu các DNNVV phục vụ phát triển nông thôn
tại quận Hồng Bàng, huyện An Dương và Huyện Thủy Nguyên là đại diện
cho ba khu vực chính của Thành phố Hải Phòng là khu vực nội thành, khu
vực thành phố có xu hướng chuyển dịch từ huyện thành quận và khu vực
huyện ngoại thành
- Về thời gian:
Các vấn đề được nghiên cứu và phân tích có tính hệ thống ở nông thôn
thành phố Hải Phòng từ năm 2006 - 2009 và đề xuất các định hướng chính
sách và giải pháp hỗ trợ các DNNVV phục vụ phát triển nông thôn.
- Về nội dung:
Các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV phục vụ nông thôn
thành phố Hải Phòng.
2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC
GIẢI PHÁP, CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA
4
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là những doanh nghiệp có quy
mô nhỏ bé về mặt lượng vốn đầu tư, số lượng lao động hay mức doanh thu.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa được chia thành ba loại căn cứ vào quy mô,
đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Trên thế giới, các nước khác nhau có đặc điểm về kinh tế xã hội khác
nhau, do đó họ sử dụng các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung là ba chỉ tiêu chính là vốn, lao động,

doanh thu được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp để phân loại DNNVV.
Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới, DN siêu nhỏ là DN có số lượng
lao động dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50
người, còn DN vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ra ngày 30/6/2009 của
Chính phủ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa
theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình
quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
5
Bảng 2.1 Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy mô
Quy mô


Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người trở

xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương
mại và dịch vụ

10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Trích: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ phát triển nông thôn
Trên cơ sở những khái niệm đã nêu, đề tài tập trung vào nghiên cứu các
DNNVV phục vụ phát triển nông thôn là những DN thỏa mãn các tiêu chí
của nghị định Nghị định số 56/2009/NĐ-CP và thỏa mãn một trong các tiêu
chí sau:
Một là, trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Đề tài nghiên cứu tất cả
các DNNVV trong khu vực này
Hai là, trong khu vực công nghiệp và xây dựng phục vụ cho các yêu cầu
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp yêu cầu xây dựng nông thôn mới và nâng cao
đời sống nông thôn. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp chế biến
nông, lâm, thủy sản. Đồng thời cũng chú trọng tới các doanh nghiệp trong các
6
làng nghề, các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Ba là, trong khu vực dịch vụ đề tài quan tâm tới các doanh nghiệp kinh
doanh các dịch vụ có tính thị trường trực tiếp góp phần nâng cao giá trị sản
phẩm, sức cạnh tranh hiệu quả kinh doanh của DN như cung ứng vật tư nông

nghiệp: thuốc trừ sâu, diệt cỏ…cung ứng thông tin (thị trường, giá cả, văn bản
pháp qui… tư vấn đầu tư.
Giải pháp
Theo Vdict.com giải pháp là cách giải quyết một vấn đề khó khăn
Trang web Xahoihock33.pro. giải thích khái niệm giải pháp là phương
pháp giải quyết vấn đề được nhà nghiên cứu phát hiện, trên cơ sở đã nhận
thức được nguyên nhân của những vấn đề đó, phù hợp với quy luật vận động
của sự vật được nghiên cứu.
Trang web cho rằng giải pháp là phương
pháp “giải quyết vấn đề”. Khi đã có mục tiêu. Xác định giải pháp chính là xác
định con đường đi đến mục tiêu đó.
Trang web dieuduongviet.net lại quan niệm chi tiết hơn: Giải pháp là
phương pháp giải quyết vấn đề, là tập hợp nhiều hoạt động có cùng một mục
đích. Khi đã có mục tiêu, xác định giải pháp chính là xác định con đường đi
tới mục tiêu đó. Con đường đi tới mục tiêu càng ngắn, càng phù hợp với
người đi là con đường tốt, có hiệu quả. Để tìm được giải pháp tối ưu phải tìm
được nguyên nhân "gốc rễ" gây ra sự tồn tại của vấn đề. Một mục tiêu có thể
có một hay nhiều giải pháp. Giải pháp tối ưu là giải pháp có tính khả thi cao;
thích hợp; có hiệu lực và hiệu quả cao; chấp nhận được. Trong một số kế
hoạch lớn, mỗi giải pháp thực chất là một kế hoạch nhỏ.
Dựa trên những khái niệm trên đề tài coi Giải pháp là phương pháp
nhằm giải quyết vướng mắc (đạt tới mục tiêu) trên cơ sở đã nhận thức được
nguyên nhân của những vấn đề (những khó khăn và cơ hội trong quá trình thực
7
hiện mục tiêu).
1) Xuất phát từ quan điểm của đề tài thì nghiên cứu giải pháp hỗ trợ
DNNVV cần phải trải qua các bước:
2) Xác định mục tiêu của giải pháp
3) Xác định định những giải pháp đang được áp dụng và kết quả của
việc áp dụng các giải pháp đó.

4) Đánh giá những thành tựu đã đạt được những nguyên nhân thất bại
cần cải tiến.
5) Hoàn thiện các giải pháp và đề ra các giải pháp mới.
Chính sách
Chính sách hỗ trợ DNNVV được đề cập tới trong đề tài này là những
chính sách do chính phủ ban hành.
Theo Thomas R. Dye (1984): Chính sách là cái mà Chính phủ lựa chọn
làm hay không làm. Bên cạnh đó, có rất nhiều khái niệm về chính sách, có thể
liệt kê như sau:
- Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson 2003).
- Chính sách là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn
các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin 1978).
- Chính sách là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan Nhà nước
hay các quan chức Nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
- Chính sách bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin 1971).
- Chính sách là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng một
8
cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy Peter 1990)
- Theo Charles O. Jones (1984), chính sách là một tập hợp các yếu tố gồm:
1) Dự định mong muốn của chính quyền;
2) Mục tiêu dự định được tuyên bố và cụ thể hóa;
3) Đề xuất các cách thức để đạt được mục tiêu;
4) Các quyết định hay các lựa chọn);
5) Hiệu lực
Kraft và Furlong (2004) đưa ra một khái niệm tổng hợp hơn. Theo đó:

Chính sách là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền
để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu
chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và
thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình.
Tóm lại có thể nói: Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động
về phương diện nào đó của Chính phủ nó bao gồm các mục tiêu và chính phủ
muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu
này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã
hội - môi trường. Chính sách giúp các nhà quản lý xác định những chỉ dẫn
chung cho quá trình ra quyết định. Giúp họ thấy được phạm vi hay giới hạn
cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào
là có thể và những quyết định nào là không thể.
Phân tích chính sách
Có thể nói, chính sách công gắn chặt với bản chất Nhà nước, nền tảng
của chính sách công là các chức năng của Nhà nước, cụ thể là tính chính trị
với vai trò của các nhóm lợi ích, sự can thiệp của Nhà nước vào các thất bại
thị trường và sự thể hiện trong các quy định. Trên nền tảng đó, thiết kế chính
sách công thực chất là việc giải quyết vấn đề, dưới một loạt các ảnh hưởng,
điều kiện đã nêu trên. Chính sách thành công hay thất bại phụ thuộc vào việc
9
có giải quyết được vấn đề hay không. Nếu lấy việc giải quyết vấn đề làm
trung tâm, chúng ta đi vào logic giải quyết vấn đề gồm:
1) Thiết lập nội dung: xác định vấn đề, mục tiêu cụ thể
2) Đưa ra các lựa chọn
3) Dự đoán các kết quả
4) Đánh giá tác động
5) Đưa ra lựa chọn và kiểm soát việc thực thi
Khung phân tích trên dẫn chúng ta đến khái niệm về phân tích chính
sách. Theo Weimer và Vining (1992), mục tiêu của phân tích chính sách là
phân tích và trình bày về các lựa chọn được đặt ra trước các vai trò chính sách

nhằm giải giải quyết các vấn đề công. Phân tích chính sách tập trung nêu ra
các mối quan hệ nhân quả như nếu có chính sách A thì sẽ có một kết quả B,
hay phức tạp hơn: chính sách A có thể thực thi tốt nhất bằng chiến lược B sẽ
cho ra một chi phí xã hội C và một lợi ích xã hội D. Khác với nghiên cứu
chính sách, phân tích chính sách tổng hợp các nghiên cứu và lý thuyết có sẵn
để đưa ra các ước đoán về kết quả và tác động của các lựa chọn quyết định
chính sách. Trong khi đó, nghiên cứu chính sách tập trung vào các biến số của
chính sách, dự báo tác động của việc thay đổi chúng. Sản phẩm của nghiên
cứu chính sách là một giả thuyết còn sản phẩm của phân tích chính sách là
một phần cơ sở của việc ra quyết định, một lời khuyên về nên làm như thế
nào. Tuy nhiên, giải quyết một vấn đề còn bị chi phối rất lớn bởi động cơ lợi
ích của chủ thể, mỗi nhóm lợi ích thường sẽ có những quan điểm khác nhau.
Phân tích chính sách hướng đến nhóm lợi ích nào sẽ có tầm nhìn giới hạn
trong phạm vi lợi ích của nhóm đó. Đây là yếu điểm chính của phân tích
chính sách. Các chính sách có thể là sản phẩm của sự thỏa hiệp giữa các nhóm
lợi ích-điều này khiến chính sách có vẻ giống như sự pha trộn giữa nghệ thuật
và khoa học. Một nhà phân tích chính sách không chỉ nắm những kỹ thuật
10
phân tích thuần túy mà còn phải hiểu biết về chính trị, hành vi tổ chức, động
thái của các nhóm lợi ích…
Phân tích chính sách có thể được hiểu thuần túy theo nghĩa kỹ thuật. Lê
Chi Mai (2001) đưa ra định nghĩa về phân tích chính sách theo dạng này:
“phân tích chính sách là quá trình sử dụng các kiến thức khoa học, các
phương pháp và kỹ thuật đa dạng để xử lý thông tin thực tế về chính sách và
trong quy trình chính sách, từ đó rút ra những điều cần sửa đổi, bổ sung để
nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Theo đó, phân tích chính sách
là một hoạt động có tính công khai và rộng rãi tạo điều kiện để mọi người
hiểu biết, mở ra tranh luận về chính sách. Tuy nhiên theo chúng tôi, cách hiểu
phân tích chính sách như quá trình thu thập và xử lý thông tin chỉ thừa nhận
vai trò của một chủ thể tiếp nhận thông tin đó. Trong một quy trình chính sách

được thiết kế còn nhiều nhược điểm, chủ thể này chưa chắc đã có động cơ xử
lý và phản ánh những thông tin này trong chính sách. Nếu vậy, phân tích
chính sách chỉ thuần túy mang tính hình thức.
2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số
vai trò tương đồng như sau:
1) Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh
nghiệp (Ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là
trên 95%). Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là
rất đáng kể.
2) Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự
11
điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có
được sự ổn định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm
sốc cho nền kinh tế.
3) Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô
nhỏ, nên dễ điều chỉnh hoạt động.
4) Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được
dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
5) Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt
cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và
vừa lại có mặt ở khắp các địa phương, có đóng góp quan trọng vào thu
ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Ở nước ta trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung các chủ trương
của Đảng và nhà nước đã bỏ qua vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong nền kinh tế làm cho sức sản xuất giảm sút không phát huy được hết nội

lực và tiềm năng thực tế. Trong thời kỳ đổi mới được sự quan tâm và khuyến
khích thỏa đáng loại hình doanh nghiệp này phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập, DNNVV
được hình thành rộng khắp từ thành thị tới nông thôn thu hút lượng lao
động lớn. Sự phát triển tích cực của DNNV đã góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp, ổn định lại tình hình kinh tế, an sinh xã hội trong những năm vừa
qua. Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam tận dụng khá tốt các ưu điểm của
mình như:
1) Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường.
2) Dễ phát huy bản chất hợp tác
3) Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định
thấp, duy trì sự tự do cạnh tranh
12
4) Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước
5) Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp
6) Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
Với vai trò ngày càng quan trọng trong cho nền kinh tế. Tuy nhiên
trong quá trình phát triển của mình các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
tồn tại những hạn chế nhất định như ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh
nghiệp nhỏ và vừa:
1) Khó khăn trong việc đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ
đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng tới năng suất lao động, chất lượng
hiệu quả, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2) Bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng cạnh tranh, tiếp thị,
khó khăn trong việc thiết lập mở rộng hợp tác với bên ngoài.
3) Dễ xảy ra tình trạng trốn lậu thuế, một số doanh nghiệp còn trốn
đăng ký hoặc kinh doanh không đúng như đăng ký, làm hàng giả
hàng, hàng kém chất lượng, hoạt động phân tán khó quản lý.
Các DNNVV phải đối mặt với nhiều khó khăn,nhưng tình hình vẫn còn
rất lạc quan. Bởi "Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có phản ứng tốt hơn trong

các cuộc khủng hoảng bởi họ linh động hơn, họ nhanh chóng bắt kịp với xu
thế của thị trường, trong khi các doanh nghiệp nhà nước còn chưa kịp thay
đổi gì nhiều."
1
Là một bộ phận của DNNVV các DNNVV phục vụ phát triển nông
thôn tại Hải Phòng có những đóng góp lớn phục vụ phát triển nông nghiệp
nông thôn như:
1) Cung cấp vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức
ăn chăn nuôi cho các cá nhân, hộ cá thể, đơn vị sản xuất nông, lâm,
thủy sản tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất ở khu vực nông
1
Vương Quân Hoàng (11/1998), Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng hơn trong khu vực
kinh tế tư nhân, Vietnam Investment Review
13
thôn tiếp cận với các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp.
2) Giải quyết vấn đề đầu ra và nâng cao giá trị cho sản phẩm nông nghiệp.
3) Tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn
Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Bình Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, hoạt
động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn đem lại hơn 20% tổng thu
ngân sách cho địa phương, góp phần quan trọng tạo việc làm, xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
Báo Nhân Dân (01/11/2009)
/>trien-doanh-nghiep-vua-v a-nho-o-nong-thon/3428462.epi
2.1.3 Nội dung của giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bản chất giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV
Theo từ điển Lạc Việt (Mtd9 EVA) hỗ trợ là sự hỗ trợ lẫn nhau tuy
nhiên hiện nay chúng ta có thể hiểu gải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
là tập hợp các chủ trương, cách thức hành động và các hành động của chính
phủ nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát huy được vai trò, tiềm
năng vốn có của chúng, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội mà nếu chỉ

riêng các doanh lớn thì không giải quyết nổi.
Nội dung hỗ trợ
Chính phủ sẽ hỗ trợ những vấn đề thiết thực đối với DNNVV như:
1) Có quan điểm, chiến lược, chính sách cởi mở để khuyến khích
DNNVV phát triển
2) Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh: thông tin, cơ sở hạ tầng, thị
trường
3) Hỗ trợ các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, lao động, quản lý
4) Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan tới hàng hoá, dịch vụ
Phương pháp hỗ trợ
14
Kết hợp phương pháp trực tiếp và gián tiếp
- Phương pháp hỗ trợ trực tiếp: đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép; cấp
vốn trực tiếp, cung cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh; cung cấp thông tin, xây
dựng cơ sở hạ tầng
- Hỗ trợ gián tiếp: chủ yếu là hỗ trợ thông qua cơ chế, chính sách tác
động vào môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của DN: ổn định
môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động của DN như: ổn định chính
trị-xã hội, tạo lập thị trường, khuyến khích thành lập các hiệp hội, các trung
tâm hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực, miễn giảm thuế, hỗ trợ cho các DN mới
thành lập được vay vốn, tạo điều kiện để các DNNVV hợp tác liên doanh với
nước ngoài
Công cụ hỗ trợ
Thông qua công cụ quản lý Nhà nước như chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch, giải pháp, chính sách Để hỗ trợ DNNVV có kết quả tốt, nhất thiết
phải có một hệ thống cơ chế và mô hình hỗ trợ đồng bộ từ mục tiêu nội dung,
phương pháp, công cụ hỗ trợ.
Xét trong dài hạn, các chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc hỗ trợ các DNNVV. Chính sách tác động tới DNNVV bao gồm:
- Các giải pháp, chính sách kinh tế vĩ mô: (tiền tệ, tài chính, thương mại,):

tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các DNNVV;
- Các giải pháp, chính sách cụ thể hỗ trợ DNNVV: Tín dụng; Hỗ trợ kỹ
thuật, công nghệ, thiết bị; Đào tạo nguồn nhân lực; Chính sách thị trường;
Xúc tiến xuất khẩu; Phát triển cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV thường
có xu hướng:
1) Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh thay vì cho không, vì việc bao cấp
cho không thường gây ra tâm lý trông chờ, ỷ lại và đặc biệt là sử dụng các
15
nguồn lực kém hiệu quả. Chẳng hạn như: áp dụng cho vay vốn lãi suất thấp
hoặc trợ cấp lãi suất thay cho việc cấp vốn không lãi suất hoặc cấp vốn không
hoàn lại.
2) Hướng gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: nhằm tạo lập cho các DNNVV
cách ứng xử theo cơ chế thị trường.
3) Công khai và rõ ràng hơn;
4) Phân quyền cho chính quyền địa phương nhiều hơn là tập trung vào
Nhà nước trung ương. Tăng cường các tổ chức phi chính phủ (hội nghề
nghiệp, các công ty tư vấn tư nhân);
5) Bao quát toàn bộ nền kinh tế thay vì chính sách theo thành phần,
nhóm DN. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho DNNVV, nhưng đặt nó
trong tổng thể của nền kinh tế;
2.1.4 Cơ chế vận hành của giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV
Trước đây do nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chưa thiệt rõ ràng, dẫn tới sự phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mang tính tự phát, chưa có định hướng của Nhà nước gây ra sự
khó khăn cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Những giải pháp, chính
sách hỗ trợ của chính phủ dành cho DNNVV ngày càng được hoàn thiện.
Điều này được thể hiện rõ nét bằng sự ra đời của Nghị định 56/2009/NĐ-CP
ngày 30 tháng 6 năm 2009 Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
yêu cầu của Bộ Kế hoạch và đầu tư tới các ngành địa phương, soạn thảo các

định hướng chiến lược cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải
pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV được áp dụng thông qua 3 mảng chính:
1) Hệ thống các văn bản pháp luật và hướng dẫn thi hành tạo môi
trường chính sách cho doanh nghiệp
2) Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa :
3) Các cơ quan tham gia hỗ trợ DNNVV
16
Trong đó mảng thứ nhất và mảng thứ 2 có thể coi là 1 mảng với nội
dung: Hệ thống các giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV. Hệ thống này bao
được tiến hành trong khuôn khổ Khung pháp lý là yếu tố chỉ đường cho Các
hệ thống giải pháp, chính sách hỗ trợ được xây dựng dựa trên những yếu tố
có ảnh hưởng chủ yếu tới sự phát triển của DNNVV nói chung và DNNVV
phát triển nông thôn nói riêng. (Sơ đồ 2.1)
Sơ đồ 2.1 Chín yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu đến DNNVV
Trong sơ đồ này chúng ta có thể thấy càng là các yếu tố ở bên trên thì
ĐK KD
Thuế
VốnTD
NNL
Thị
trường
Hợp
tác
Thông
tin
CG CN
Đất đai
DN
NVV
17

chúng ta càng dễ tác động bằng các giải pháp hành chính, càng về phía dưới
càng đòi hỏi có sự phối hợp của các doanh nghiệp.
Các hệ thống giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV
a) Hệ thống giải pháp, chính sách hỗ trợ đăng ký kinh doanh
b) Hệ thống giải pháp, chính sách hỗ trợ về thuế
Thuế là yếu tố có tác động trực tiếp nhất ảnh hưởng đến sự phát triển
của DNNVV. Chính sách thuế không chỉ tác động vào doanh nghiệp về mặt
tài chính thông qua các khoản thu mà còn ảnh hưởng tới các hoạt động bình
thường của doanh nghiệp do vấn đề thủ tục và thời gian. Một chính sách thuế
tốt là một chính sách thuế vấn đảm bảo lợi ích của nhà nước mà tạo ra ảnh
hưởng nhỏ nhất tới các doanh nghiệp cũng như thực hiện tốt vai trò điều tiết
nền kinh tế vĩ mô. Hiện nay dù đã được cải tiến đáng kể nhưng những vấn đề
còn tồn tại trong chế độ thuế hiện hành vẫn bị coi là đối xử bất bình đẳng
trong quá trình thi hành và quy định về thuế phức tạp chồng chéo với quá
nhiều loại thuế hoặc quá nhiều trường hợp miễn trừ thuế. Một vấn đề là các
loại thuế suất khác nhau được áp dụng một cách phân biệt giữa các hoạt động
kinh doanh khác nhau điều này ây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp vừa và
nhỏ như:
Làm giảm ảnh hưởng xấu đến vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Tạo điều kiện ra những động cơ mạnh mẽ cho việc trốn lậu thuế, tham
nhũng.
Gây ảnh hưởng tới việc đầu tư phát triển mở rộng quy mô của doanh
nghiệp, việc chuyển giao công nghệ.
Trong các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp thì chính sách
thuế có ảnh hưởng trực tiếp và nhanh nhất tới hoạt động của doanh nghiệp.
c) Hệ thống giải pháp, chính sách hỗ trợ về đất đai
18
Chính sách đất đai là một trong các chính sách có ảnh hưởng mạnh tới
sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân và chịu sự quản lý của Nhà nước. Bởi
vậy quyền sử dụng đất chính không thay đổi.
Hiện nay với việc thực hiện các quyền sử dụng đất rất phức tạp và rắc
rồi không có hiệu quả kinh tế gây ảnh hưởng tới các doanh nghiệp. Các văn
bản pháp luật liên quan đến các quyền sử dụng đất cũng như thế chấp các
quyền này còn thiếu rõ ràng. Trong thực tế các quyền sử dụng đất dùng để thế
chấp rất khó khăn ở khu đô thị điều này cản trở doanh nghiệp có vốn để mở
rộng phát triển.
Giá thuê đất vẫn còn nhiều bất động hợp lý Chính phủ cho phép giá
thêu đất ở thành phố có thể thay đổi từ 0,5 đến 1,8 tuỳ thuộc vào khả năng
sinh lợi so với mức giá đưa ra với những miếng đất ở khu phố chính sách về
đất đai của Chính phủ hiện nay gây khó khăn cho việc đầu tư của doanh
nghiệp. Các điều kiện dùng đất thế chấp chưa được nới rộng làm cho các
doanh nghiệp không thể phát triển, làm cho các doanh nghiệp thực hiện thủ
tục quy định không rõ ràng đôi khi có những hoạt động bất hợp pháp.
Do đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. nó có
một vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp do vậy chính sách về
đất đai của nhà nước thoả đáng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng diện
tích, mặt bằng sản xuất và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền sử
dụng đất để thế chấp để tạo có vốn phát triển, hoặc thuê đất với mức giá ổn
định để phát triển.
Cũng như chính sách thuế hiệu quả của việc điều chỉnh chính sách đất
đai hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhưng có ảnh hưởng lớn tới
sự phát triển của DNNVV. Thiếu mặt bằng sản xuất hiện đang là một vấn đề
nan giải của nhiều doanh nghiệp nhỏ.
19
d) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ về vốn
Về mặt tổng quan, trong những trở ngại mà doanh nghiệp gặp phải thì
thiếu vốn cũng như ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất. Mặc
dù thời gian qua. Nhà nước đã cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận tín dụng

cho doanh nghiệp bằng cách mở rộng các loại tài sản có thể dùng để thế chấp,
tuy nhiên, điều này cũng chưa giải quyết được cơ bản tình trạng thiếu vốn,
thiếu nguồn tín dụng từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tình trạng phổ biến là có khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp
hồ sơ vay vốn thường xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị từ chối. Số
doanh nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số
cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng
lên mức 26,5%. Ngoài ra, số doanh nghiệp thuộc nhóm không nộp hồ sơ một
phần cũng gặp trở ngại như thiếu tài sản thế chấp thích hợp, nhận thức quá
trình vay vốn quá khó khăn hoặc do tỷ lệ lãi suất quá cao.
Về tín dụng phi chính thức, theo đánh giá thị trường này đang khá phát
triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện mới có khoảng 50% doanh nghiệp gặp trở
ngại tín dụng thông thường tiếp cận với các các khoản vay phi chính thức.
Theo các chuyên gia, việc khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cả trên
thị trường chính thức và phi chính thức tiếp tục sẽ là trở ngại lớn của doanh
nghiệp nếu Chính phủ chậm tiến hành các giải pháp đồng bộ để thiết lập một
môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy tín dụng chính thức cho sự phát triển của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
e) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ về chuyển giao khoa học công nghệ
Để tham gia vào thị trường quốc tế, điều quan trọng các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đó là phải có công nghệ hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh
về chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam
sử dụng công ghệ lạc hậu so với trung bình của thế giới 3 đến 4 thế hệ do vậy
20
các doanh nghiệp cần phải đổi mới, điều này chịu ảnh hưởng rất lớn của chính
sách của nhà nước.
Trình độ kiến thức quản lý kỹ năng chuyên môn của người lao động ở
Việt Nam chưa đủ cao, chưa đủ trình độ làm chủ công nghệ gây ra tình trạng
là có được công nghệ hiện đại mà không sử dụng hết công suất của thiết bị nó
gây ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp.

f) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
Một trong những nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển
của doanh nghiệp đó là trình độ của nhà quản lý. Ở nước ta hiện này chất
lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ DN,
giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ
năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên
môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ DN và
giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý,
còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là
yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các
DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến
thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển
thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ DN mở
công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến
thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Bên cạnh trình độ của chủ doanh nghiệp thì trình độ của lao động làm
thuê cho danh nghiệp cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao
động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng suất lao động thấp, chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các
DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc,
21
Thái Lan, Malaysia, Philipines, thì các sản phẩm sản xuất của các DN Việt
Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao
động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực. Di vậy nhà nước cần có
những chính sách hợp lý để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và
nguồn nhân lực phục vụ cho doanh nghiệp trong nông nghiệp nói riêng.
g) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ về thông tin
Trong thời đại hiện nay thông tin chính là lợi nhuận, các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần tuân thủ pháp luật và nắm bắt nhanh

nhât những thay đổi của thể chế pháp luật, của thị trường để có thể kịp thời
đưa ra những quyết định chính xác cho các hoạt động của mình. Để đáp ứng
nhu cầu này nhà nước cần cung cấp thông tin về các văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, các chính sách, chương trình hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và các thông tin khác hỗ trợ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp một cách nhanh nhất, công khai nhất tới từng doanh
nghiệp thông qua cácin khác nhau, chúng ta cũng cần khuyến khích sự hoạt
động của các tổ chức trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ tư vấn cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách này cần kết hợp với công tác tuyên
truyền hữa hiệu để các doanh nghiệp động hơn trong tiếp cận thông tin.
h) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ về thị trường
Nhu cầu xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp là rất lớn, không
chỉ trong lĩnh vực xuất khẩu mà còn cả tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong
nước, đưa hàng về nông thôn… Công tác xúc tiến thương mại ảnh hưởng lớn
đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tự tổ chức lấy một số
hoạt động xúc tiến thương mại. Xong để giảm cho phí cũng như về mặt thủ
tục nhiều trường hợp đồi hỏi có sự đứng ra của cơ quan nhà nước liên iến
hành tổ chức các hoạt động này. Trong vài năm trở lại đây hoạt động này đã
được cải tiến một các mạnh mẽ và mang lại hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên tại một
22
số hoạt động chung, năng lực cung cấp các dịch vụ của một số tổ chức xúc
tiến thương mại thì lại hạn chế. Theo nhận định của ông Cao Sỹ Kiêm (Chủ
tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam), có những cơ quan xúc
tiến thương mại hiện mới chỉ có khả năng đưa tin cơ hội giao thương nhưng
không có năng lực thẩm định đối tác kinh doanh, cung cấp thông tin mang
tính đại trà, thay vì thông tin theo yêu cầu. Ngoài ra, nhiều tổ chức xúc tiến
thương mại mới chỉ có khả năng tổ chức hoặc tham gia các hội chợ triển lãm
nhưng việc kết nối các đối tác và tổ chức tiếp xúc tại hội chợ triển lãm lại hạn
chế, nhiều đoàn khảo sát thị trường chỉ mang tính chất du lịch hơn là việc tìm
kiếm cơ hội kinh doanh thực sự. Chính sách này đòi hỏi có sự hợp tác chặt

chẽ giữa các doanh nghiệp với nhau và với chính quyền.
i) Hệ thống giải pháp chính sách hỗ trợ tăng cường hợp tác
Sự giao lưu giữa các DNNVV là hết sức quan trọng nó giúp doanh
nghiệp có cơ hội tìm kiếm đối tác, tiếp thu những công nghệ mới… nhằm
hoằn thiện hệ thống sản xuất kinh doanh của mình. Đối với chính sách này
chính quyền chỉ đóng vai trò là người tạo ra các cơ hội, là cầu nối để các
doanh nghiệp tiếp xúc, trao đổi hợp tác làm ăn.
Các cơ quan tham gia hỗ trợ DNNVV
Các cơ quan này chia làm hai hệ thống cơ quan chủ yếu là:
Hệ thống tham mưu, lập kế hoạch và chính sách phát triển DNNVV ở
trung ương: có nhiệm vụ tham mưu trong soạn thảo, sửa đổi và ban hành các
giải pháp cũng như chính sách.
Hệ thống các cơ sở thực hiện hỗ trợ DNNVV: là những đơn vị trực tiếp
triển khai thực thi các giải pháp, thực thi các gải pháp, chính sách hỗ trợ
DNNVV.
2.2. Thực tiễn giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV
2.2.1. Kinh nghiệm giải pháp, chính sách hỗ trợ DNNVV trong khu vực APEC
23
Không riêng ở Việt Nam, nhìn chung các DNNVV ở các nước trên thế
giới đều gặp phải một số khó khăn tương tự nhau về mặt môi trường chính
sách, nguồn nhân lực, công nghệ, nguồn lực tài chính, thị trường và tiếp cận
thông tin Mặc dù vậy, DNNVV vẫn luôn khẳng định vai trò ngày càng quan
trọng trong nền kinh tế quốc gia và quốc tế. Ngày nay, trong khi vẫn thừa
nhận vai trò của các công ty xuyên quốc gia như là một yếu tố quan trọng của
quá trình toàn cầu hoá, người ta ngày càng ý thức rõ ràng hơn vai trò ngày
càng tăng của DNNVV trong quá trình này.
Phải thừa nhận rằng Việt Nam là một nước đi sau. Tuy vậy sẽ không chỉ
hoàn toàn là bất lợi nếu chúng ta biết tận dụng lợi thế của nước đi sau trong
việc học hỏi kinh nghiệm và những bài học thành công cũng như thất bại của
những nước đi trước, và từ đó rút ra bài học cho riêng mình. Trong quá trình

nghiên cứu và tham khảo tài liệu về các DNNVV trên thế giới dưới đây một số
kinh nghiệm về phát triển DNNVV trong khuôn khổ các nước APEC.
Về cơ chế chính sách
APEC hướng tới việc xây dựng khuôn khổ pháp lý bảo đảm tạo ra
trong mỗi nền kinh tế thành viên và trên phạm vi khu vực một môi trường
kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp
lý này cần cụ thể, rõ ràng, công khai và cho phép giải quyết các tranh chấp,
bảo vệ quyền sở hữu, bảo đảm sự cạnh tranh công bằng. Bên cạnh đó, Nhà
nước còn có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nói chung và các DNNVV
nói riêng thông qua việc đào tạo và tăng cường những tiền đề cần thiết cho
hoạt động doanh nghiệp như cấp đất xây dựng xí nghiệp; xây các cơ sở hạ
tầng về giao thông, thông tin và cả những khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
vực phi thuế, công viên công nghệ, các điều kiện về khoa học và kỹ thuật, các
thủ tục hành chính hiệu quả
Về phát triển nguồn nhân lực
24
Các biện pháp được áp dụng chủ yếu bao gồm:
1) Lập quỹ hỗ trợ cho việc đào tạo nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn cho
người lao động;
2) Thành lập và tăng cường các cơ sở đào tạo nghề và đào tạo chuyên ngành,
đào tạo quản lý doanh nghiệp;
3) Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển của các DNNVV, đặc biệt là các nghiên
cứu áp dụng công nghệ cao, công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến.
Về lĩnh vực công nghệ
Nhiều biện pháp và chính sách quan trọng được áp dụng như:
1) Tạo ra và tăng cường ý thức phát triển công nghệ trong DNNVV;
2) Khuyến khích và hỗ trợ tài chính, kỹ thuật đối với việc áp dụng công nghệ
mới, công nghệ cao;
3) Khuyến khích và hỗ trợ cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến của DNNVV;
4) Thành lập các trung tâm đào tạo nhằm cung cấp một đội ngũ cán bộ kỹ thuật

có thể giúp các DNNVV ra các quyết định liên quan đến vấn đề công nghệ.
Về lĩnh vực này, các biện pháp cụ thể được áp dụng ở mỗi nước APEC
rất phong phú. Chẳng hạn như ở Philíppin, Nhà nước hỗ trợ việc lập và phát
triển các phòng thí nghiệm về công nghệ, các trung tâm nghiên cứu về bảo
đảm chất lượng, hỗ trợ đào tạo kỹ năng và phát triển nhân lực phục vụ cho
việc tiếp nhận công nghệ, lập mạng lưới thông tin về công nghệ và thị trường
công nghệ, bảo đảm cung cấp dịch vụ tư vấn về công nghệ.
Về lĩnh vực tài chính
Nhằm giải quyết các khó khăn liên quan đến nguồn tài chính và việc
tiếp cận các nguồn tài chính của các DNNVV, các biện pháp chính sách chủ
yếu được áp dụng bao gồm:
1) Lập các tổ chức tài chính hỗ trợ DNNVV, chẳng hạn như các quỹ chung
cũng như quỹ hỗ trợ chuyên ngành hoặc lĩnh vực hoạt động cụ thể;
25

×