Đề bài: Phân tích hình tư ợ ng xà nu trong truyệ n “Rừ ng xà nu” củ a
Nguyễ n Trung Thành.
Hư ớ ng dẫ n:
Dễ thấ y, hình tư ợ ng cây xà nu trong tác phẩ m Rừ ng xà nu là hình ả nh
mang tính biể u tư ợ ng: biể u tư ợ ng cho nỗ i đau và sứ c số ng mãnh liệ t củ a ngư ờ i
dân làng Xô man. Trong quá trình giả i quyế t vấ n đề củ a đề bài, ngư ờ i họ c có thể
triể n khai theo 2 hư ớ ng:
Hư ớ ng 1: Phân tích hế t các lớ p nghĩa thự c củ a h ình ả nh cây xà nu đư ợ c
miêu tả trong tác phẩ m rồ i mớ i đi v ào tìm căn cứ , chỉ ra lớ p nghĩa biể u t ư ợ ng
củ a hình ả nh.
Hư ớ ng 2: Phân tích lớ p nghĩa thự c 1 - chỉ ra lớ p nghĩ a biể u t ư ợ ng 1; phân
tích đế n lớ p nghĩa thự c 2 - chỉ ra lớ p nghĩa biể u t ư ợ ng 2…
Sau đây, hoc360.vn sư u tầ m, biên soạ n van giớ i thiệ u vớ i bạ n đọ c 2 bài
viế t theo 2 hư ớ ng phân tích trên.
Bài viế t 1
“Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn
học thời chống Mĩ. Trong tác phẩm, với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã
làm nổi bật khuynh hướng sửthi và cảm hứng lãng mạn, một đặc điểm cơ bản của văn
học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Khuynh hướng này đã chi phối sựsáng tạo nghệ
thuật của các nhà văn trong giai đoạn văn học này.
Tác phẩm “Rừng xà nu” là một bản anh hùng ca vềcuộc đời anh dũng, đau
thương, bất khuất của Tnú cũng như của tất cảdân làng Xô-man. Câu chuyện ấy được
kểtrên nền tảng chính của hình tượng cây xà nu – một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý
nghĩa tượng trưng và khái quát. Những cây xà nu, rừng xà nu vừa là nhân chứng, vừa
tham gia bản anh hùng ca, chịu đựng mọi vất vả, đau thương dưới tầm đạn kẻ thù.
Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức sống, vẫn vươn mình lên cường
tráng vượt lên mọi thương đau. Cây xà nu là một hình ảnh mang tính chất tượng trưng
cho khát vọng tựdo, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống tiềm
tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.
Mởđầu câu chuyện là hình ảnh “cảrừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là
“những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm
hùng, một bản đàn dạo, là cái “phông” cho cảmột câu chuyện khiến thiên truyện càng
mang đậm tính sửthi và lãng mạn hơn. Rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho
con người Xô-man.
Với hình ảnh nhân hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tảcây xà nu như những
con người, chúng cũng có “vết thương”, biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra
che chởcho làng”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻthù chịu đựng biết
bao tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách kìm
kẹp của giặc. “Cảrừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bịthương”. “Cây bị
chặt đứt ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề”… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc
quện thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên lòng căm thù và kết tụmột ý chí phản
kháng.
Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻcủa rừng xà nu bạt ngàn.
“Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình
nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc
như những mũi lê” “nó phóng lên rất nhanh đểtiếp lấy ánh sáng”. Thếmới biết sức trẻ
của cây xà nu mãnh liệt đến nhường nào! Sức trẻấy còn mang tính tượng trưng cho thế
hệtrẻcủa làng Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng, những con người luôn gắn bó
với cách mạng, bất khuất từtuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng thành trong đau
thương và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.
Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng
vạn cây ởnhững đồi xà nu nối tiếp nhau tới chân trời ởtấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che
chởcho làng. Đó là những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được
cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủlông mao, lông vũ. Đạn
đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một
thân thể cường tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thếnhững cây đã ngã”, một cây
ngã xuống tức thì bốn năm cây con lại mọc lên cứthếtrởthành cảmột rừng cây xà nu
nối tiếp đến chân trời. Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man
kiên cường chống giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến
hết thếhệnày đến thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh B rơi…
mà tiêu biểu là hình ảnh cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ
là người hiểu rất rõ sựgắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức
mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng xà nu cũng như của dân làng Xô-man. Chính cụMết
đã nói với Tnú “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “cây mẹ chết cây con lại
mọc lên”.
Cây xà nu còn là người chứng kiến sựgiác ngộ, sựhi sinh thầm lặng, lòng dũng
cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn,
cảvùng Xô-man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời
căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuẩn bịdao, mác, vụ, rựa, tên, ná… Sẽ
có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú:
“Không có gì đượm bằng nhựa cây xà nu… Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc…
máu anh mặn chát ở đầu lưỡi…”.
Giọng điệu sửthi của “Rừng xà nu” bắt đầu từcâu chuyện kểcủa cụMết dưới ánh
lửa xà nu, một câu chuyện phảng phất phong vịanh hùng ca. Và cây xà nu không chỉ
gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời
sống văn hóa của người Xô-man, của các dân tộc Tây Nguyên.
Hình tượng cây xà nu thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của
Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó
những ý nghĩa mới- những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tảcủa tác
giả. Qua hình tượng này người đọc không chỉthấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt
của dân làng Xô-man, của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt
Nam nói chung trong những tháng năm chống Mĩ.
Bài viế t 2
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên.
Hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho
Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng
cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong
kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc - nổi tiếng cùng
“Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt l à những năm
1965- khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì
Nguyễn Trung Thành ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là
một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ
đại. Và hình ảnh nổi bật trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Rừng x à nu”
của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta bắt gặp những cánh rừng x à nu
nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc
sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình,
khói xà nu nhuộm bảng đen cho con trẻ học chữ, đuốc x à nu rọi sáng sân nhà Ưng trong
những đêm lễ hội ”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều
có sự góp mặt của cây xà nu. Sựsống của dân làng Xô Man đều gắn liền với những cánh
rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng
nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và
xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những
ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời
đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt giữa sự sống v à cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy,
Nguyễn Trung Thành đã đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu x à nu. Cũng như
bao loài cây khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít có loài
cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy ít có loài cây nào ham ánh sáng đến thế” cũng có
nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, cũng nh ư bao cánh rừng
khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ
ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh
nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”.
Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá huỷdiệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên
với một sức sống mãnh liệt “cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn
xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây
xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu
đất ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh,
hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau, rừng x à nu ưỡn
tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung Th ành đã dựng lên thật
thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu. Không dừng lại ở đó, Nguyễn
Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong quan hệ đối chiếu sóng đôi với con
người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì
người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn
cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom,
khói lửa thì những người dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ
thù gây ra. Bao nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa
thân mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng
cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung Thành
đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những
thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn
ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng lên. Ánh sáng của niềm tin
“Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối cho những bước chân đến với cách
mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết,
đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có T'Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên
đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc ki ên
cường, để giữ làng, giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói
chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu hiện lên sừng sững,
đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man. Gắn bó với cánh rừng anh
dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được tiếp thêm sức mạnh để đứng lên
chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân tình, thuỷ chung, trung dũng như thế,
cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng họ để họ có cuộc sống bình yên hơn.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu cho phẩm chất, số
phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử
thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng
một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả,
những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ,
giọng văn miêu tả trong tác phẩm rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm nhận hết vẻ đẹp hình
tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một “Rừng xà nu” trọn vẹn, mang
đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Th ành đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn
học dân tộc.