Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài đối với các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.53 KB, 72 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên của khóa luận này, em xin được gửi lời cảm ơn tới toàn thể các
thầy, các cô đã truyền đạt cho em những kiến thức và kinh nghiệm quý báu
trong suốt những năm học vừa qua tại ngôi trường đại học Đại học Luật Hà Nội
đầy tự hào.
Đặc biệt, qua đây em cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo T.S
Nguyễn Thái Mai – người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ rất nhiều em trong
suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng, là lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ở bên và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận này.
Lê Đồng Toàn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG KHÓA LUẬN
1
1. CTM : Community Trade Mark
2. CTMR : Community Trade Mark Regulation
3. EU : European Union - Liên minh Châu Âu
4. NH : Nhãn hiệu
5. OHIM : The Office of Harmonization for the Internal Market
6. SHCN : Sở hữu công nghiệp
7. SHTT : Sở hữu trí tuệ
8. TRIPs : Trade – Related Aspects of Intellectual Property Rights
- Hiệp định các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ quốc tế 1994
9. USPTO : United States Patent and Trademark Office - Văn
phòng sáng chế và nhãn hiệu Mỹ
10.WIPO : World Intellectual Property Organization - Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới
11.WTO: World Trade Organization – Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ ĐĂNG KÝ BẢO


HỘ NHÃN HIỆU 6
CHƯƠNG 2 QUY TRÌNH, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
TẠI NƯỚC NGOÀI 20
2.1. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ TRỰC TIẾP THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG
ƯỚC PARIS 20
2.1.1. Khái quát về Công ước Paris 20
2
2.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment- NT) 21
2.1.3. Quyền ưu tiên khi nộp đơn 21
2.2. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ THEO HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ
MADRID 23
2.2.1 Khái quát về hệ thống đăng ký quốc tế Madrid 23
2.2.2. Quyền nộp đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu 25
2.2.3. Đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu 26
2.2.4.Xử lý đơn đăng ký quốc tế 29
2.3. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU VÀO CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU
THEO THỂ THỨC NHÃN HIỆU CỘNG ĐỒNG (THE COMMUNITY
TRADE MARK- CTM) 33
2.3.1. Khái quát về Nhãn hiệu công đồng (CTM) 33
2.3.2 Điều kiện để đăng ký theo thể thức CTM 34
2.3.3. Nộp đơn, xét nghiệm đơn, phản đối đơn 36
2.3.4. Thời hạn bảo hộ và gia hạn hiệu lực 38
2.4. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẠI MỸ 38
2.4.1. Đăng ký trực tiếp 38
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẠI
NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
44
3.3.1.Về phía doanh nghiệp 54
3.3.2.Về phía nhà nước 61
KẾT LUẬN 66

3
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã và đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng với nền
kinh tế thế giới. Với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) vào tháng 11 năm 2006, đó được coi là một bước ngoặt rất
lớn đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. WTO tạo cho
doanh nghiệp Việt Nam sân chơi cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước
ngoài, điều này mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội để phát triển kinh tế, nhưng
cũng tiềm ẩn rất nhiều thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Một trong
những thách thức đó là vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong đó việc
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam tại trị trường nước
ngoài. Hiện nay việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trong nước ngày càng tăng lên
theo hàng năm tuy nhiên việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại thị trường nước
ngoài lại chưa được các doanh nghiệp Việt Nam thực sự quan tâm. Nguyên nhân
chính dẫn tời sự chủ quan trên là do nhận thức còn hạn chế của các doanh
nghiệp Việt Nam về vấn đề này. Thực tế cho thấy rằng các doanh nghiệp nhận
thức còn hạn chế là do đa phần các chủ doanh nghiệp không hiểu biết được đầy
đủ kiến thức cũng như các quy định của pháp luật về nhãn hiệu và bảo hộ nhãn
hiệu, đặc biệt là bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài. Bên cạnh đó trong những năm
gần đây đã có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam phải chịu những bài học đắt giá
cho việc xem nhẹ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài. Trước những thực
trạng như trên, thiết nghĩ cần phải kịp thời có những giải pháp để khắc phục
những hạn chế này của doanh nghiệp Việt Nam, và đây cũng là lý do để em
chọn “Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài đối với các doanh nghiệp
Việt Nam” làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhãn hiệu và tầm quan
trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài đối với doanh nghiệp.
4

Đồng thời phân tích điều kiện, cách thức, trình tự, thủ tục để đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu tại nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế và một số quốc gia
là thị trường xuất khẩu trọng điểm của doanh Việt Nam. Nhằm đưa đến cái nhìn
tổng quan về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài qua đó giúp cho doanh
nghiệp Việt Nam thay đổi nhận thức, và kịp thời có những chiến lược xây dựng
và bảo vệ nhãn hiệu của mình tại thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, khóa luận
còn đưa ra các giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc của doanh nghiệp qua
việc phân tích và rút ra bài học từ những vụ việc thực tiễn mà một số doanh
nghiệp Việt Nam đã phải trải qua.
Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này người viết chỉ đi nghiên cứu, phân tích các quy định về quy
trình, thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài theo điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên (chủ yếu là hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế nhãn
hiệu), và có một số nội dung chính về vấn đề này trong pháp luật của một số thị
trường xuất khẩu chính của các doanh nghiệp Việt Nam như Liên minh châu Âu
và Hoa kỳ. Bên cạnh đó khóa luận nêu ra những vụ việc thực tiễn để phân tích
nhằm tìm ra hạn chế, và nguyên nhân của các hạn chế đó đối với doanh nghiệp
Việt Nam trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài từ đó rút ra những
bài học và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó.
Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này tác giả có sử dụng các phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp để tìm ra những ưu điểm và nhược điểm của các cách thức tiến
hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài hiện nay, qua đó giúp doanh
nghiệp có thể chọn được cách thức tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước
ngoài đem lại hiệu quả nhất. Và các phương pháp này cũng được sử dụng để
phân tích những nguyên nhân, hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam trong
vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài, qua đó đưa ra những giải pháp
tối ưu nhất để khắc phục chúng.
Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát chung về nhãn hiệu và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
5
Chương 2: Quy trình, thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
tại nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ ĐĂNG KÝ
BẢO HỘ NHÃN HIỆU
1.1Khái quát chung về Nhãn hiệu
1.1.1 Khái niệm Nhãn hiệu
Nhãn hiệu (NH) là một trong những yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp cần
nghĩ tới khi chuẩn bị đưa sản phẩm mới ra thị trường và đăng ký NH là thủ tục
cần thiết nhằm xác lập quyền SHTT của chủ sở hữu đồi với Nhãn hiệu. Trên
thực tế có rất nhiều cách hiểu khác nhau về NH, nhưng bản chất thì không có sự
khác biệt lớn giữa các cách hiểu đó.
Trong thực tế, mỗi quốc gia trên thế giới đều có quy định khác nhau về
nhãn hiệu. Tuy vậy, khi thương mại quốc tế ngày càng phát triển, chu kỳ sống
của hàng hóa dịch vụ bị rút ngắn lại dẫn đến xuất hiện ngày càng nhiều những
hàng hóa dịch vụ mới với những chất lượng khác nhau thì những tranh chấp,
xung đột giữa các công ty liên quan đến những nhãn hiệu là điều khó tránh khỏi.
6
Để hạn chế những tranh chấp, xung đột đó cần phải có những quy định thống
nhất về nhãn hiệu trên phạm vi toàn cầu.
Theo quy định tại Mục 1(1)(a) của Luật Mẫu WIPO về Nhãn hiệu, tên
thương mại và cạnh trannh không lành mạnh cho các nước phát triển năm 1967
(gọi tắt là Luật Mẫu) thì Nhãn hiệu là: “Dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một
nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ,
số, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc

sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự
kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu hàng hóa chỉ được chấp nhận bảo
hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu
NH đó sử dụng hoặc NH đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm
lẫn với một NH khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm”.
Định nghĩa trên của WIPO đã được các nước của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) tiếp thu, kế thừa và thể hiện trong Hiệp định TRIPs- Hiệp định về
các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT, cụ thể tại khoản 1
Điều 15 Mục 2 Hiệp định TRIPs thì nhãn hiệu hàng hóa trong thương mại quốc
tế được coi là đối tượng có khả năng bảo hộ là : “bất kỳ một dấu hiệu, hoặc sự
kết hợp nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
của một doanh nghiệp này với hàng hóa hoặc dịch vụ của những doanh nghiệp
khác. Những dấu hiệu đó (có thể là những ký tự đặc biệt như tên người, chữ
cái, chữ số, yếu tố hình và sự kết hợp màu sắc cũng như sự kết hợp bất kỳ của
những dấu hiệu đó) có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”. Ta có
thể nhận thấy khái niệm trên mang tính khái quát chứ không sử dụng phương
thức liệt kê để nêu ra cụ thể các dấu hiệu có thể kết hợp được với nhau cấu tạo
nên nhãn hiệu để có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức
này với hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức khác. Do đó, nhãn hiệu hàng
hóa là bất kỳ sự kết hợp nào của những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa
hay dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hay dịch vụ của một doanh
7
nghiệp khác. Dấu hiệu có thể là chữ số, chữ cái, tên người, yếu tố hình và sự kết
hợp màu sắc. Đây cũng là một quy định mang tính mở bởi việc đăng kí bảo hộ
đối với một số yếu tố đặc biệt như mùi vị, âm thanh, …tuy đã được thừa nhận ở
một số quốc gia nhưng chưa thực sự phổ biến trên thế giới, đặc biệt là đối với
những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế chưa cao.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 (được sửa đổi bổ sung năm
2009), cụ thể tại Điều 4 đã quy định về Nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.

Đây là khái niệm chung, theo đó các dấu hiệu chỉ cần có “khả năng phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” đều có thể đăng ký là
Nhãn hiệu, vì vậy nó đã kích thích khả năng sáng tạo ở các chủ thể này. Có thể
nói, đây là một khái niệm khá phù hợp với quy định về nhãn hiệu trong Hiệp
định TRIPs.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào cũng được đăng kí bảo hộ là
nhãn hiệu mà dấu hiệu đó phải đáp ứng yêu cầu bảo hộ theo quy định của pháp
luật. Cụ thể tại Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng
các điều kiện sau đây:
“ 1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một
hoặc nhiều mầu sắc;
1. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”
Như vậy, các điều kiện trên đã bổ sung cho khái niệm nhãn hiệu, đã giải
thích và làm rõ các dấu hiệu có thể được bảo hộ là nhãn hiệu theo quy định của
pháp luật Việt Nam
1.1.2 Đặc điểm của Nhãn hiệu
Tuy có nhiều khái niệm về Nhãn hiệu, nhưng từ các quy định đó có thể
nhận thấy nhãn hiệu có những đặc điểm chung như sau:
8
- Thứ nhất, nhãn hiệu có đặc điểm quan trọng nhất là có khả năng phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của cá nhân,
tổ chức khác. Nhãn hiệu thể hiện thông tin, chức năng hay yếu tố độc đáo của
từng hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau mà người tiêu dùng có thể dễ
dàng nhìn vào đó có thể nhận biết đươc nguồn gốc xuất phát của chúng với hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của chủ thể khác. Vì vậy, có thể khẳng định được giá trị
thực sự của một nhãn hiệu thông qua khả năng phân biệt. Khả năng phân biệt là
yêu cầu quan trọng, đầu tiên để một nhãn hiệu thỏa mãn yêu cầu bảo hộ.
- Thứ hai, nhãn hiệu là những dấu hiệu nhìn thấy được hoặc không nhìn thấy

được cụ thể là các dấu hiệu sau đây :
+ Dấu hiệu về chữ bao gồm chữ cái, chữ số, từ ngữ. Các nhãn hiệu chữ
cái, con số có thể bao gồm một hay nhiều chữ cái, một hay nhiều số, hay là sự
kết hợp giữa chúng. Riêng chữ cái, con số đứng riêng lẻ và không được cách
điệu hóa thường được xem là không có tính phân biệt vì thế không có khả năng
đăng ký nhãn hiệu tại một số nước và điều ước quốc tế.
+ Dấu hiệu hình: bao gồm các hình vẽ trang trí, các nét vẽ, biểu tượng
hoặc hình họa hai chiều và ba chiều của hàng hóa hay bao bì. Hầu hết pháp luật
các nước đều công nhận các hình vẽ, biểu tượng có tính phân biệt và có khả
năng đăng ký bảo hộ cao.
+ Dấu hiệu màu sắc
+ Dấu hiệu kết hợp là sự kết hợp của bất kỳ các yếu tố nào kể trên.
+ Dấu hiệu không nhìn thấy được như mùi vị, âm thanh (tuy nhiên các
dấu hiệu này không được áp dụng trong pháp luật Việt Nam).
1.1.3 Chức năng của Nhãn hiệu
Chức năng chính của một nhãn hiệu là giúp người tiêu dùng xác định một
sản phẩm (là một hàng hóa hoặc dịch vụ) của các cơ cơ sở sản xuất kinh doanh
cụ thể nhằm phân biệt sản phẩm đó với các sản phẩm giống hoặc tương tự do
các cơ sở sản xuất kinh doanh khác cung cấp.
9
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và phong phú.
Ngườu tiêu dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các dấu
hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản
phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị trường. Vì vậy, nhãn hiệu cần phân
biệt được dễ dàng trong số các sản phẩm giống hoặc tương tự. Bằng việc giúp
người tiêu dung phân biệt công ty và sản phẩm của họ với sản phẩm của các
công ty khác, nhãn hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược nhãn hiệu
và tiếp thị của các công ty, góp phần xây dựng hình ảnh và danh tiếng sản phẩm
của công ty trong con mắt người tiêu dùng. Hình ảnh và danh tiếng của sản
phẩm tạo niềm tin, làm cơ sở để hình thành những khách hàng trung thành và

nâng cao danh tiếng của công ty. Người tiêu dùng thường hình thành một sự gắn
kết tình cảm với một số nhãn hiệu nhất định, dựa trên một số phẩm chất hoặc
đặc điểm, mà họ mong muốn, của sản phẩm mang những nhãn hiệu đó.
Ngoài ra, Nhãn hiệu cũng tạo ra một động lực khuyến khích các công ty
đầu tư vào việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đảm
bảo rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu của họ có một danh tiếng tốt.
1.1.4 Phân loại nhãn hiệu
Nhãn hiệu gồm nhiều loại khác nhau và có thể phân thành từng loại như
sau:
• Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
Trong thương mại hiện đại, người tiêu dùng không chỉ đối mặt với thực tế
phải quyết định lựa chọn hàng hóa mình cần trong vô vàn hàng hóa cạnh tranh
khác, nhu cầu phân biệt và xác định loại hình dịch vụ cũng nảy sinh đối với
người tiêu dùng. Sự khác biệt giữa 2 loại nhãn hiệu này ở chỗ: Nhãn hiệu hàng
hóa là những dấu hiệu phân biệt được gắn liền lên sản phẩm là hàng hóa; còn
đối với Nhãn hiệu dịch vụ là những dấu hiệu phân biệt dành cho các sản phẩm
dịch vụ, tức là các sản phẩm vô hình do một người hay một doanh nghiệp thực
hiện để phục vụ một hay nhiều người, hay doanh nghiệp khác. Ngoại trừ điểm
khác biệt nêu trên thì về bản chất Nhãn hiệu hàng hóa và Nhãn hiệu dịch vụ có
10
sự đồng nhất với nhau. Bởi vì, Nhãn hiệu dịch vụ mang đầy đủ chức năng biểu
hiện nguồn gốc và phân biệt đối với dịch vụ giống như chức năng tương tự của
Nhãn hiệu hàng hóa.
Hiệp định TRIPs không có sự tách biệt giữa Nhãn hiệu hàng hóa và Nhãn
hiệu dịch vụ từ khái niệm đến các khía cạnh điều chỉnh khác. Cũng không có
điều khoản nào nhắc đến sự khác biệt giữa Nhãn hiệu hàng hóa và Nhãn hiệu
dịch vụ. Khi định nghĩa về Nhãn hiệu hàng hóa, Hiệp định TRIPs mặc nhiên
công nhận đó là dấu hiệu có khả năng phân biệt không những đối với hàng hóa
mà còn đối với cả dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp này với doanh nghiệp
khác.

• Nhãn hiệu tập thể
Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ
chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó. Khác với nhãn hiệu thông thường, nhãn
hiệu này chỉ được cấp cho các tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp và phải
là tổ chức tập thể của các tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất kinh doanh. Ví dụ:
Hiệp hội thuốc lá Việt Nam là tổ chức tập thể của các nhà máy, công ty thuốc lá
như : Nhà máy thuốc là Sài Gòn, Công ty thuốc lá Thăng Long v.v… Hiệp hội
thuốc lá Việt Nam là chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể Vinataba, các nhà máy thuốc
lá là thành viên của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam đều có quyền sử dụng nhãn hiệu
Vinataba cho sản phẩm thuốc lá do mình sản xuất. Hoặc nhãn hiệu
WOOLMARK là nhãn hiệu tập thể của các doanh nghiệp sản xuất len tại Vương
quốc Anh [13, tr 248].
• Nhãn hiệu chứng nhận
Là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử
dụng trên hàng hóa, dịch vụ tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về
xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp
dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng
hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
11
Nhãn hiệu chứng nhận chỉ được cấp cho các tổ chức có chức năng kiểm
soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan
đến hàng hóa mà không phải là người trực tiếp tiến hành sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ đó. Sau khi kiểm định chất lượng hàng hóa, dịch vụ nếu thấy
rằng hàng hóa, dịch vụ đó đáp ứng tiêu chuẩn thì chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép
cá nhân, tổ chức có hàng hóa, dịch vụ được sử dụng nhãn hiệu chứng nhận cho
hàng hóa, dịch vụ của mình. Ví dụ: “CE” là nhãn hiệu chứng nhận hàng hóa đạt
tiêu chuẩn Châu Âu, “Hàng Việt Nam chất lượng cao” là nhãn hiệu chứng nhận
hàng hóa có chất lượng cao,.v.v…[13, tr249]
• Nhãn hiệu liên kết

Là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau
dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với
nhau.
Như vậy, có thể nói rằng nhãn hiệu liên kết không phải là một loại nhãn
hiệu cụ thể mà chỉ là “sự liên kết giữa các nhãn hiệu” của cùng một chủ thể
được dùng cho các sản phẩm, dịch vụ của chính chủ thể đó nếu sản phẩm là
cùng loại hoặc tương tự hoặc có liên quan với nhau. Nhãn hiệu liên kết cho
người tiêu dùng biết rằng sản phẩm mang nhãn hiệu mới là sản phẩm tương tự
hoặc có liên quan với sản phẩm, dịch vụ mà họ đã dùng trước đó.
Ví dụ : Khi dùng đồ uống là nước ép cam hay nước chanh có ga mang
nhãn hiệu Pepsi 7 up người tiêu dùng biết được loại nước uống này cùng nguồn
gốc và tương tự với đồ uống mang nhãn hiệu Pepsi Mirindra.
Với hai nhãn hiệu trên cho thấy hai nhãn hiệu đó có sự liên kết với nhau
bởi của cùng một chủ sở hữu, có dấu hiệu trùng nhau, dùng cho hai sản phẩm
tương tự nhau do một chủ thể sản xuất [13, tr250].
• Nhãn hiệu nổi tiếng
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng như các điều ước quốc tế đều xác định
rằng một nhãn hiệu chỉ được coi là nổi tiếng nếu nhãn hiệu đó được biết đến
rộng rãi và sự nổi tiếng chỉ được công nhận trong phạm vi lãnh thổ của một
12
quốc gia nhất định. Điều này có nghĩa rằng một nhãn hiệu có thể nổi tiếng ở một
quốc gia khác do dân chúng của quốc gia đó biết đến một cách rộng rãi, nhưng
có thể vẫn không được coi là nổi tiếng ở quốc gia khác nếu công chúng ở quốc
gia này chưa biết đến một cách rộng rãi. Tuy nhiên, trong thực tế có những nhãn
hiệu mặc dù ở Việt Nam chưa được biết đến một cách rộng rãi nhưng nó là nhãn
hiệu nổi tiếng trên thế giới thì vẫn được Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận
là nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu nổi tiếng có một lợi thế hơn so với nhãn hiệu thông thường là nó
sẽ được bảo hộ mà không cần thông quan thủ tục đăng ký và cấp văn bằng, mà
thay vào đó là sự công nhận là nổi tiếng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

của quốc gia đó (ở Việt Nam là Cục sở hữu trí tuệ).
1.2 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
1.2.1 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là gì?
Như chúng ta đã biết nguyên tắc đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả là
“Nguyên tắc bảo hộ tự động”, theo đó thì quyền tác giả phát sinh ngay từ khi
tác phẩm định hình dưới dạng vật chất nhất định không phụ thuộc vào bất kỳ thủ
tục nào như đăng ký, cấp giấy chứng nhận, nộp lưu chiểu,… tuy nhiên nguyên
tắc này không thể áp dụng trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
trong đó có bảo hộ nhãn hiệu (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Do vậy, để một
nhãn hiệu được pháp luật bảo hộ thì chủ sở hữu nhãn hiệu đó phải bắt buộc thực
hiện những thủ tục pháp lý về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (ngoại trừ đó là nhãn hiệu nổi tiếng). Sở dĩ có sự khác biệt như vậy
là do đối với quyền tác giả xuất phát từ tính duy nhất hay nguyên gốc của tác
phẩm văn học, nghệ thuật. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật chỉ có thể được
cảm thụ thông qua sự thể hiện tác phẩm mà không thể được đem ra áp dụng
trong các tác phẩm nghệ thuật sau đó và nó thường gắn với cảm xúc của của tác
giả và thường không thể lặp lại một cách y hệt ở người khác. Bảo hộ quyền tác
giả là bảo hộ sự sáng tạo cá nhân về hình thức thể hiện ý tưởng mà không cần
quan tâm đến nội dung của tác phẩm văn học nghệ thuật đó. Khác với quyền tác
13
giả, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (bao gồm cả nhãn hiệu) hướng đến bảo hộ
nội dung đối tượng sáng tạo, chống lại việc sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp mà không được chủ sở hữu cho phép, với mục đích bù đắp chi phí cho
chủ sở hữu đối tượng SHCN và đảm bảo cho họ có thể độc quyền sử dụng trong
một thời gian nên để phát sinh quyền SHCN, chủ sở hữu phải làm các thủ tục
đăng ký nhất định. Vậy thủ tục đăng ký nhãn hiệu là gì ?
- Đăng ký nhãn hiệu là thủ tục hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành với ý nghĩa thừa nhận quyền sở hữu đối với nhãn hiệu
- Hình thức đăng ký nhãn hiệu là ghi nhận nhãn hiệu và chủ sở hữu vào Sổ
đăng ký quốc gia về nhãn hiệu và cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho

chủ sở hữu.
- Nhãn hiệu được đăng ký trên cơ sở kết quả xem xét đơn của người nộp
đơn, căn cứ vào các quy định pháp luật về hình thức và nội dung đơn.
Như vậy, việc đăng ký nhãn hiệu là yêu cầu bắt buộc để một chủ thể có
quyền độc quyền đối với nhãn hiệu của mình (trừ ngoại lệ).
1.2.2 Những đối tượng không được bảo hộ làm nhãn hiệu
Theo cẩm nang SHTT của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì có
hai điều kiện đặt ra đối với một dấu hiệu muốn được coi là nhãn hiệu. Điều kiện
thứ nhất liên quan tới chức năng cơ bản của nhãn hiệu, đó là chức năng phân
biệt các sản phẩm hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với các sản phẩm
dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Do vậy, một nhãn hiệu phải độc đáo hoặc có
khả năng phân biệt các sản phẩm khác nhau. Điều kiện thứ hai liên quan tới các
hậu quả mà nhãn hiệu có thể gây ra, theo đó sẽ không được đăng ký là nhãn hiệu
nếu nhãn hiệu có những đặc tính gây hiểu lầm hoặc vi phạm tới trật tự công
cộng và đạo đức xã hội [2, tr 65, 66].
Hai điều kiện trên cũng được quy định tại Điều 6 quinquies B của Công
ước Paris rằng các nhãn hiệu được bảo hộ theo Điều 6 quinquies A chỉ có thể bị
từ chối đăng ký khi “chúng không có bất kỳ yếu tố độc đáo nào” hoặc “chúng
14
trái với trật tự công cộng và đạo đức xã hội và mang tính chất lừa dối công
chúng”.
Từ những quy định chung như trên, pháp luật ở những nước khác nhau
cũng có những quy định khác nhau khi xác định điều kiện bảo hộ đối với nhãn
hiệu. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội và
truyền thống của mỗi quốc gia. Riêng đối với Việt Nam, pháp luật SHTT cũng
đã đưa ra những điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ. Bên cạnh đó,
Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã quy định các dấu hiệu không được bảo
hộ với danh nghĩa nhãn hiệu, bao gồm:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,
quốc huy của các nước;

- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ,
huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ
quan, tổ chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt
hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt
Nam, của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận,
dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không
được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn
hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người
tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc
các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ”.
1.2.3 Sự cần thiết phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
Trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ nhanh chóng như
hiện nay thì việc bảo vệ và phát triển “Thương hiệu” là vấn đề sống còn đối với
15
tất cả các doanh nghiệp trên thế giới và nó càng quan trọng hơn đối với các
doanh nghiệp đang còn “non trẻ” của Việt Nam. Và để “Thương hiệu” phát triển
một cách an toàn và thuận lợi thì việc làm đầu tiên mà các doanh nghiệp cần
phải làm chính là việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu (không những đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu ở trong nước mà còn phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài).
Những lợi ích mà việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sẽ được phân tích dưới đây sẽ
nói lên sự cần thiết của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đối với doanh nghiệp và
xã hội.
• Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho chủ sở hữu
Việc đăng ký nhãn hiệu là căn cứ đầu tiên để xác định quyền sở hữu nhãn
hiệu. Khi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng

ký nhãn hiệu đó chính là cơ sở pháp lý để cho phép chủ sở hữu được độc quyền
sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh. Sau đó, chủ sở
hữu có thể khai thác thương mại nhãn hiệu bằng cách gắn nhãn hiệu hàng hóa
lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch , lưu
thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán hàng hóa mang nhãn hiệu , nhập khẩu
hàng hóa mang nhãn hiệu. Tiến xa hơn nữa đó là khi nhãn hiệu đã có chỗ đứng
trên thị trường, có uy tín nhất định thì chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền sử
dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Khi nhãn hiệu càng
được sử dụng rộng rãi thì giá chuyển nhượng/chuyển giao quyền sử dụng (li
xăng) càng cao.
Đồng thời, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cũng chính là Cơ sở pháp
lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ Sở hữu nhãn hiệu khi nhãn
hiệu bị vi phạm. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
xử lý hoặc khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền đã sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp của mình và có quyền yêu cầu người xâm phạm phải đình chỉ việc
sử dụng và bồi thường thiệt hại. Khi có xâm phạm xảy ra nhãn hiệu chủ sở hữu
phải đưa ra bằng chứng tức là Giấy chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa để thông
báo cho người vi phạm biết nhãn hiệu đã thuộc quyền sở hữu của mình.
16
• Góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị của doanh nghiệp.
Nhãn hiệu hàng hóa tạo ra giá trị cho sản phẩm, khách hàng sẽ rất sẵn lòng
trả giá cao hơn để được sử dụng sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu mà họ yêu
thích. Đồng thời, họ cũng sẵn sàng sử dụng sản phẩm/dịch vụ đó thường xuyên
hơn, vì vậy, giá trị mang lại cho doanh nghiệp sẽ cao hơn. Chính vì thế, việc
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là việc làm nhằm tạo ra sự khác biệt giữa
sản phẩm, dịch vụ của mình với những sản phẩm, dịch vụ cùng loại khác và đây
cũng chính là một trong những phương pháp nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị
của doanh nghiệp.
• Có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho

việc thu hút vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ nước ngoài. Khi tìm hiểu cơ
hội đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến việc tài sản của họ khi
đầu tư vào một nước có được pháp luật bảo hộ hay không, đặc biệt là các tài sản
trí tuệ, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa. Nếu đứng trước thực trạng nhãn hiệu
hàng hóa không được bảo hộ hoặc bảo hộ kém hiệu quả, họ luôn dự kiến được
khả năng sản phẩm gắn NH của mình sẽ bị sao chép, làm giả hoặc sẽ có rất
nhiều NH tương tự gắn lên các sản phẩm cùng loại được bán với giá rẻ thì nhiều
khả năng là họ sẽ lựa chọn một quốc gia khác nơi mà nhãn hiệu của họ được bảo
hộ tốt hơn.
1.2.4 Những lợi ích khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài
Một việc làm trước tiên và cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ một doanh
nghiệp nào trước khi có dự định đưa sản phẩm của mình sang thị trường nước
ngoài đó là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho những sản phẩm đó tại thị trường mà
muốn mở rộng. Việc cần phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài thì xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ tính lãnh
thổ của quyền sở hữu công nghiệp. Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp phát
17
sinh tại lãnh thổ nước nào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ nước đó.
Do vậy, quyền sở hữu công nghiệp muốn được bảo hộ ở nước ngoài thì phải
được thực hiện thông qua các phương thức bảo hộ quốc tế. Như vậy, một nhãn
hiệu khi mới chỉ đăng ký bảo hộ tại Việt Nam thì nó chỉ được bảo hộ trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà thôi, và nó sẽ không được bảo hộ tại nước ngoài
nếu nó chưa được đăng ký bảo hộ tại quốc gia đó. Và một nguyên tắc quan trọng
nữa trong pháp luật đăng ký nhãn hiệu là nguyên tắc “First to file”, theo đó
trong trường hợp các nhãn hiệu đăng ký trùng nhau, tương tự nhau sẽ được ưu
tiên cấp cho người nộp đơn đăng ký sớm nhất tại quốc gia đó. Do vậy, việc đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu quốc tế phải được tiến hành một cách nhanh chóng để được
hưởng quyền ưu tiên của nguyên tắc này. Việc đăng ký bảo hộ tại nước ngoài
đem lại cho chủ sở hữu nhãn hiệu những lợi ích sau:
- Loại trừ rủi ro và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tiến

hành mở rộng hoạt động kinh tại thị trường nước ngoài
Nếu như các chủ sở hữu nhãn hiệu sớm nhận thức được tầm quan trọng của
việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài và “đi trước một bước” thì việc
xuất khẩu và kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp sau này tại những quốc gia
này sẽ vô cùng dễ dàng và thuận lợi mà không gặp phải sự cản trở, tranh chấp
nào về mặt pháp lý với các chủ thể khác tại thị trường đó.
Bài học này có thể rút ra từ rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam do chậm trễ
trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình tại thị trường nước ngoài, điều
này dẫn đến việc khi họ mở rộng thị trường của mình tại nước ngoài đã gặp rất
nhiều khó khăn khi tại thị trường đó những sản phẩm của họ đã được chủ thể
khác (chủ yếu là các đối tác, các nhà phân phối của họ tại thị trường đó) tiến
hành đăng ký bảo hộ tại các quốc gia này trước đó. Chính vì vậy mà các doanh
nghiệp này đã bị thiệt hại rất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc cho việc kiện
tụng cũng như thương lượng để được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại những quốc
gia đó.
18
- Đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho các hoạt động đầu tư xây
dựng và phát triển nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài
Khi nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ tại thị trường nước ngoài, thì nhãn
hiệu, địa vị pháp lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được pháp luật quốc gia sở tại
bảo hộ như đối với công dân của họ. Theo đó, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ có đầy
đủ quyền năng để thực hiện việc độc quyền sử dụng nhãn hiệu trên phạm vi lãnh
thổ quốc gia này và có quyền ngăn cấm, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nước sở tại ngăn chặn, xử lý các chủ thể khác có hành vi xâm phạm
quyền độc quyền sử dụng nhãn hiệu của mình theo pháp luật quốc gia của họ.
Chính với việc bảo vệ của pháp luật quốc gia nơi nhãn hiệu đăng ký bảo hộ nên
chủ sở hữu nhãn hiệu có thể yên tâm và đầu tư phát triển nhãn hiệu của mình tại
thị trường nước đó.
19
CHƯƠNG 2

QUY TRÌNH, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU TẠI NƯỚC NGOÀI
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay, một trong các vấn đề
doanh nghiệp Việt Nam rất quan tâm đó là việc đăng ký bảo hộ hãn hiệu do
mình là chủ sở hữu ở nước ngoài. Việc đăng ký này có thể được tiến hành theo
nhiều quy trình, thủ tục khác nhau. Dưới đây khóa luận sẽ tập trung phân tích
một số quy định cụ thể, cách thức, quy trình phổ biến được quy định trong điều
ước quốc tế và pháp luật quốc gia - đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để
doanh nghiệp Việt Nam tiến hành đăng ký nhãn hiệu ra nước ngoài.
2.1. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ TRỰC TIẾP THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG
ƯỚC PARIS
2.1.1. Khái quát về Công ước Paris
Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Công ước Paris)
được ký kết ngày 20 tháng 3 năm 1883 tại Paris, được xem xét lại tại Brussels
năm 1900, tại Washington năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại London năm
1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi năm 1979.
Mục đích chủ yếu của Công ước là nhằm xây dựng các điều kiện có lợi cho việc
cấp Văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu đối tượng SHCN là công dân, pháp nhân
của nước này ở nước khác thuộc thành viên Công ước trên nguyên tắc tôn trọng
luật SHCN của các nước thành viên.
Theo Công ước Paris đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng
chế, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu
ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định của Công ước Paris đề
cập 4 vấn đề lớn đó là: nguyên tắc đối xử quốc gia, quyền ưu tiên; một số
nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các
nước thành viên phải tuân thủ; và các quy định về hành chính phục vụ cho việc
thi hành Công ước. Trong các nội dung trên có hai vấn đề rất quan trọng mà các
20
doanh nghiệp của Việt Nam cần phải quan tâm khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại

nước ngoài là nguyên tắc đối xử quốc gia và quyền ưu tiên khi nộp đơn đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu tại các nước thành viên.
2.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment- NT)
Công ước Paris quy định tại Điều 2 và Điều 3 Quyền sở hữu công nghiệp
được bảo hộ theo nguyên tắc đối xử quốc gia, theo đó mỗi nước thành viên phải
danh cho công dân của các nước thành viên khác sự bảo hộ đối với các đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp tương đương nhưn sự bảo hộ dành cho
công dân của mình. Chế độ đối xử quốc gia tương đương cũng phải được dành
cho công dân của những nước không phải là thành viên của Công ước Paris nếu
họ cư trú tại một nước thành viên hoặc nếu họ có cơ sở kinh doanh tại một nước
thành viên. Quy định về chế độ đối xử quốc gia được đặt ra không chỉ nhằm bảo
đảm quyền của người nước ngoài được bảo hộ mà còn bảo đảm rằng họ không
bị phân biệt đối xử theo bất kỳ cách nào liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp.
2.1.3. Quyền ưu tiên khi nộp đơn
Theo quy định tại Điều 4 của Công ước Paris, quyền ưu tiên áp dụng đối
với sáng chế, mẫu hữu ích, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Cụ thể là trên
cơ sở một đơn hợp lệ đầu tiên đã được nộp tại một trong số các nước thành viên,
trong một thời hạn nhất định (12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng
đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp) người nộp đơn có thể nộp đơn yêu
cầu bảo hộ tại bất cứ nước thành viên nào khác và các đơn nộp sau sẽ được coi
như đã được nộp vào cùng ngày với ngày nộp đơn đầu tiên. Nói cách khác,
những đơn nộp sau đó sẽ có quyền ưu tiên đối với các đơn có thể đã được những
người khác nộp trong khoảng thời gian ưu tiên nói trên cho chính sáng chế, mẫu
hữu ích, nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công nghiệp đó. Ngoài ra, những đơn nộp sau
dựa trên cơ sở đơn nộp đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất cứ sự kiện nào có
21
thể xảy ra trong khoảng thời gian ưu tiên, chẳng hạn như việc công bố sáng chế
hoặc bán các sản phẩm mang nhãn hiệu hoặc mang kiểu dáng công nghiệp.
Ví dụ: Ngày 1/1/2012 công dân Việt Nam A nộp đơn xin cấp văn bằng bảo

hộ đối với một nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, sau đó nhãn hiệu này bị sử
dụng tại Mỹ; và ngày 1/4/2012 có thể nhãn hiệu này cũng được một chủ thể
khác nộp đơn xin đăng ký bảo hộ tại Mỹ. Trong trường hợp này, công dân Việt
Nam đang được hưởng quyền ưu tiên (thời hạn là 6 tháng kể từ ngày nộp đơn
đầu tiên là 1/1/2012); Do vậy, cơ quan có thẩm quyền Mỹ không được phép cấp
văn bằng bảo cho nhãn hiệu này tại Mỹ.
Một trong những lợi ích thiết thực nhất của quy định này là khi người nộp
đơn muốn đạt được sự bảo hộ ở một số nước, họ không buộc phải nộp đồng thời
tất cả các đơn tại nước xuất xứ và các nước khác mà có đến 6 hoặc 12 tháng để
quyết định xem nên nộp đơn yêu cầu bảo hộ ở những nước nào và tiến hành thủ
tục nộp đơn ở các nước được chọn lựa. Như vậy, trong vòng 6 tháng kể từ ngày
Đơn đăng ký nhãn hiệu của doanh nghiệp được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
chấp nhận hợp lệ, doanh nghiệp có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của
mình tại bất kỳ nước thành viên nào của Công ước và các đơn nộp sau sẽ được
xem là nộp cùng ngày tại Cục sở hữu trí tuệ. Điều đó giúp cho doanh nghiệp khi
muốn bảo hộ nhãn hiệu của mình ở một số nước không phải nộp đơn đồng thời
tất cả các nước khác mà có đến 6 tháng để quyết định xem nên nộp đơn yêu cầu
bảo hộ nhãn hiệu của mình ở những nước nào rồi mới tiến hành.
Ngoài ra, việc rút hoặc từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả năng được
hưởng quyền ưu tiên của người nộp đơn. Người nộp đơn có thể yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên từ nhiều đơn cũng như có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên từ một
phần của một đơn nộp trước.
22
2.2. ĐĂNG KÝ BẢO HỘ THEO HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ QUỐC TẾ
MADRID
2.2.1 Khái quát về hệ thống đăng ký quốc tế Madrid
Hệ thống đăng ký quốc tế Madrid là hệ thống được xây dựng trên cơ sở hai
văn kiện: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu được ký kết năm 1891
được sửa đổi lần gần đây nhất vào năm 1979 (Việt Nam trở thành thành viên
ngày 8/3/1949) và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid, được thông

qua năm 1989, có hiệu lực từ ngày 1/12/1995, và hoạt động từ 1/4/1996 và được
sửa đổi gần đây nhất là vào năm 2007 (Việt Nam gia nhập ngày 11/7/2006). Hệ
thống này được quản lý bởi Văn phòng quốc tế của WIPO - Cơ quan lưu giữ
Đăng bạ quốc tế và xuất bản Công báo của WIPO về Nhãn hiệu quốc tế. Tính
đến ngày 13/1/2012 thì có 85 quốc gia thành viên của hệ thống Madrid về đăng
ký nhãn hiệu, trong đó có: 55 quốc gia vừa là thành viên của Thỏa ước vừa là
thành viên của Nghị định thư; 28 quốc gia là thành viên của Nghị định thư và
chỉ có 1 quốc gia chỉ là thành viên của Thỏa ước (Algeria). Bất cứ quốc gia nào
tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp đều có thể tham gia vào
Thỏa ước hay Nghị định thư hoặc cả hai điều ước đó. Ngoài ra, tổ chức liên
Chính phủ cũng có thể tham gia Nghị định thư (nhưng không thể tham gia Thỏa
ước) nếu ít nhất một trong những thành viên của tổ chức đó là thành viên của
Công ước Paris và tổ chức đó có một cơ quan khu vực có chức năng đăng ký
nhãn hiệu với hiệu lực trong lãnh thổ của tổ chức đó [4].
Các nước và các tổ chức tham gia ký kết một trong hai văn kiện trên tạo
thành Liên minh Madrid. Hệ thống Madrid mang lại khả năng bảo hộ nhãn hiệu
tại một số hoặc toàn bộ các nước tham gia Liên minh Madrid. Tuy nhiên, mặc
dù được coi là “đăng ký quốc tế” nhưng hệ thống Madrid không tạo nên một
đơn đăng ký duy nhất cho tất cả các nước thành viên mà chỉ là một đơn duy nhất
cho phép thực hiện đăng ký riêng tại các nước thành viên.
Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu theo Thỏa ước Madrid bên cạnh những
lợi ích to lớn của nó như cho phép đăng ký nhãn hiệu ở nhiều nước (các nước
23
thành viên của Liên minh Madrid) mà chỉ cần nộp một đơn duy nhất vào một cơ
quan duy nhất (cơ quan đăng ký nhãn hiệu của nước xuất xứ) bằng một ngôn
ngữ duy nhất là tiếng Pháp, lệ phí cũng chỉ nộp một lần, bằng một loại tiền, sổ
đăng ký do vậy cũng chỉ sử dụng một số…thì vẫn có những hạn chế chẳng hạn
như đăng ký quốc tế theo Thỏa ước Madrid phải dựa trên văn bằng bảo hộ nhãn
hiệu đã được cấp tại nước xuất xứ. Trong trường hợp nhãn hiệu mới chỉ nộp đơn
đăng ký quốc gia thì việc nộp đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu dựa trên đơn đăng

ký đó sẽ không được chấp nhận theo Thỏa ước, do vậy sẽ gây ra những bất lợi
lớn cho các chủ sở hữu nhãn hiệu, nhất là ở những quốc gia có thủ tục xét
nghiệm đơn dài trước khi cấp Văn bằng bảo hộ thì còn gây ra sự phân biệt đối
xử so với những đơn được nộp ở những quốc gia có thủ tục xét nghiệm đơn
ngắn. Để khắc phục những hạn chế của hệ thống đăng ký theo Thỏa ước Madrid
và để hệ thống Madrid có thể được nhiều nước hơn chấp nhận, đã dẫn đến sự ra
đời của Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu.
Nghị định thư khác với thỏa ước Madrid ở những điểm chính sau:
- Sự lựa chọn dành cho người nộp đơn: cho phép các đăng ký quốc tế dựa
trên các đơn quốc gia chứ không chỉ dựa trên các đăng ký quốc gia như Thỏa
ước;
- Thời hạn 18 tháng thay cho thời hạn một năm dành cho các Bên tham gia
để từ chối bảo hộ, với khả năng có được thời gian dài hơn trong trường hợp từ
chối bảo hộ dựa trên đơn phản đối;
- Khả năng dành cho Cơ quan của một Bên tham gia được chỉ định trong đơn
đăng ký được nhận, thay vì một phần được chia trong thu nhập từ các khoản lệ
phí cơ bản, một khoản “lệ phí riêng” ở mức không cao hơn mức lệ phí mà Cơ
quan đó qui định đối với đơn đăng ký hoặc gia hạn quốc gia hoặc khu vực sau
khi đã trừ đi các khoản thu được từ thủ tục quốc tế;
- Khả năng chuyển đổi một đăng ký quốc tế không còn được bảo hộ vì nhãn
hiệu cơ sở bị mất hiệu lực tại nước xuất xứ thành các đơn quốc gia hoặc khu vực
tại một số hoặc tất cả các bên tham gia được chỉ định, với ngày ưu tiên, ngày
nộp đơn (nếu có) của đăng ký quốc tế đó;
24
- Khả năng tham gia của các Tổ chức liên chính phủ nếu có ít nhất một quốc
gia thành viên của Tổ chức là thành viên công ước Paris và có cơ quan đăng ký
nhãn hiệu với hiệu lực trong lãnh thổ của tổ chức đó.
Quy trình đăng ký Nhãn hiệu theo quy định của Thỏa ước và Nghị định thư
Madrid có các nội dung chính sau:
2.2.2. Quyền nộp đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu

Theo Điều 1.2 Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, công dân
của tất cả các nước thành viên có thể đạt được sự bảo hộ tại các nước khác cho
nhãn hiệu của mình đối với các hàng hóa và dịch vụ, đã được đăng ký tại nước
xuất xứ, bằng việc nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đó tại Văn phòng quốc tế về Sở
hữu trí tuệ được qui định tại Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
thông qua sự trung gian của Cơ quan tại nước xuất xứ.
Như vậy mọi cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có quyền nộp đơn đăng
ký quốc tế nhãn hiệu với điều kiện nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại nước sở
xuất xứ. Nước xuất xứ, theo Điều 1.3 Thỏa ước Madrid được xác định như sau:
1. Bất cứ nước thành viên nào của Thỏa ước Madrid mà ở đó Người nộp
đơn có cơ sở sản xuất, kinh doanh hợp pháp; hoặc
2. Nếu người nộp đơn không có cơ sở sản xuất kinh doanh tại nước này, là
nước thành viên của Thỏa ước Madrid mà ở đó Người nộp đơn có chỗ ở
cố định;
3. Nếu Người nộp đơn không có cả cơ sở sản xuất kinh doanh, lẫn chỗ ở cố
định tại nước này, là nước thành viên của Thỏa ước Madrid mà người
nộp đơn là công dân.
Như vậy theo Thỏa ước Madrid thì người nộp đơn không được tự do lựa
chọn nước xuất xứ. Nước xuất xứ xác định theo nguyên tắc nếu không thỏa mãn
điều kiện 1 thì chuyển sang điều kiện 2, nếu không thỏa mãn cả điều kiện 1 và 2
thì mới được chuyển sang điều kiện 3. Nhưng nguyên tắc này không áp dụng
trong trường hợp nộp đơn đăng ký quốc tế theo Nghị định thư Madrid được căn
cứ trên Đơn cơ sở, hoặc trên Đăng ký cơ sở, theo đó Đơn cơ sở hoặc Đăng ký cơ
25

×