Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

36 Hoàn thiện quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng do Công ty kiểm toán Việt Nam thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.83 KB, 70 trang )

Phần một
lý luận chung
I- Những đặc điểm cơ bản về nghiệp vụ tín dụng trong ngân hàng
thơng mại
1- Khái niệm tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng:
a, Tín dụng ngân hàng:
Nền kinh tế hàng hoá thay thế nền kinh tế tự cung tự cấp bắt đầu đợc hình
thành do nhu cầu trao đổi hàng hoá của con ngời. Sự phát triển của nền kinh tế
hàng hoá là sự hình thành và phát triển của nhiều yếu tố quan trọng trong đó
có một phần không nhỏ của hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng đợc ví
nh là một chất nhờn bôi trơn bộ máy của một nền kinh tế. Điều này có đợc
xuất phát từ chính chức năng của chúng. Ngân hàng là tổ chức trung gian tài
chính, trung gian thanh toán, tạo phơng tiện thanh toán. Chính vì vậy, có thể
nói ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Hoạt
động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thờng xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia đều
có cơ cấu tổ chức giống nhau bao gồm ngân hàng trung ơng và số lợng lớn các
ngân hàng thơng mại và các tổ chức tài chính tín dụng. Ngân hàng trung ơng
giữ vai trò điều tiết hoạt động của các ngân hàng thơng mại, còn ngân hàng th-
ơng mại thực hiện việc kinh doanh tiền tệ.
Ngay từ khi hình thành cho đến nay, một trong những hoạt động chủ yếu
của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Có nhiều quan điểm về hoạt động tín
dụng tồn tại trên thế giới. Theo quan điểm của một số nớc Phơng Tây, hoạt
động tín dụng là hoạt động huy động vốn trong dân c và cho vay. Điều đó có
1
nghĩa rằng tín dụng phải bao gồm các nghiệp vụ hình thành nên nguồn vốn và
việc sử dụng tài sản của ngân hàng. Quan điểm này nêu bật đợc chức năng
trung gian của ngân hàng trong việc huy động và đa tiền vào nền kinh tế.
Theo quan điểm của một số nớc trong đó có Việt Nam thì hoạt động tín
dụng chỉ bao gồm các nghiệp vụ cho vay của tổ chức tín dụng với cá nhân, tổ


chức kinh tế. Quan điểm này đề cập tới việc sử dụng đồng vốn của ngân hàng
trong việc kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động tín dụng cũng
phải căn cứ vào nguồn huy động của số tiền đợc đem đi cho vay đó. Đây là
hoạt động cần thiết để đảm bảo kiểm soát đợc những rủi ro vốn là vấn đề tất
yếu của hoạt động tín dụng.
Nh vậy, theo em hoạt động tín dụng là hoạt động mà ngân hàng thực hiện
việc cho vay hoặc tài trợ dựa trên những căn cứ đảm bảo hợp lý nhằm kiểm
soát đợc rủi ro tín dụng.
b, Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả đúng
hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng, có quy mô lớn nhất của
ngân hàng thơng mại - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ
cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của ngời vay sao cho độ an
toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy
rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh
ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng
hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân.
Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín
dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro rín
dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan.
2
Tuy nhiên trong công tác quản lý, ngân hàng phải nắm đợc các nguyên
nhân gây nên rủi ro tín dụng để từ đó có những biện pháp thích hợp để hạn chế
sự mất mát của chính mình. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
- Những nguyên nhân bất khả kháng: đây là những nguyên nhân bất
khả kháng tác động đến ngời vay nh thiên tai, chiến tranh hoặc những thay
đổi ở tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế
quan ) v ợt quá tầm kiểm soát của cả ngời vay và ngời cho vay.
- Nguyên nhân thuộc về chủ quan ngời vay: trình độ yếu kém của ngời

vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong quản lý kinh doanh,
chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.
Rất nhiều ngời vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu đợc lợi nhuận cao.
Để đạt đợc mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với
ngân hàng nh cung cấp thông tin sai, mua chuộc Nhiều ng ời vay đã
không tính toán kỹ lỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng
thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trờng hợp còn
lại, ngời vay kinh doanh có lãi không chịu trả ngân hàng với mục đích quỵt
nợ hoặc sử dụng vốn càng lâu càng tốt.
- Nguyên nhân thuộc về ngân hàng: Chất lợng cán bộ kém, không đủ
trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai là
một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nh vậy, nếu ngân hàng
muốn hạn chế nguyên nhân này cần phải tăng cờng chất lợng trình độ của
cán bộ tín dụng và đạo đức của họ.
2- Đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho các ngân
hàng thơng mại. Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn
thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có
thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân
hàng phải cân nhăc kỹ lỡng, ớc lợng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định
3
tài trợ. Để làm đợc điều này ngân hàng phải thực hiện một quy trình phân tích
tín dụng chặt chẽ và hiệu quả, bao gồm quá trình thẩm tra trớc, trong và sau
khi cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh. Quan hệ tín dụng phần lớn đợc
xác lập thông qua hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý
muốn của ngời nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng. Do đó, mục tiêu
của phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội
dung của hợp đồng tín dụng bao gồm xác định vị trí so sánh của ngời nhận tín
dụng, sức mạnh cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài
chính và khả năng thanh toán của ngời vay trong quá khứ, hiện tại và t ơng

lai, cho phép ngân hàng điều chỉnh các giá trị trong quan hệ tín dụng với
khách hàng.
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ. Trong
môi trờng gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi hỏi ngân
hàng phải thực hiện quy trình phân tích nhanh, gọn và tiết kiệm chi phí. Đây
cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng, ban và cán bộ
ngân hàng. Do vậy, quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng yêu cầu đảm
bảo đợc lập một cách thống nhất và chặt chẽ đảm bảo giảm thiểu rủi ro đối với
các hoạt động tín dụng liên quan.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách
hàng, các ngân hàng thờng đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các
bớc (hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng, các phòng, ban có liên
quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Quá trình
phân tích tín dụng đợc thực hiện qua bốn bớc: phân tích trớc khi cấp tín dụng;
xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng; giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín
dụng; thu nợ hoặc đa ra các phán quyết tín dụng mới.
Bớc 1: Phân tích trớc khi cấp tín dụng. Đây là bớc quan trọng nhất, quyết
định chất lợng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý
các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và
4
uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản
và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến ngời vay. Việc thu thập các
thông tin liên quan đợc tiến hành theo nhiều cách khác nhau chủ yếu bao gồm:
phỏng vấn, tìm kiếm các thông tin trung gian, thông tin có đợc từ các báo cáo
của ngời vay Từ các thông tin này, ngân hàng tiến hành các kỹ thuật phân
tích để đa ra đợc những đánh giá của mình.
Tình hình tài sản của khách hàng: cho thấy khả năng thu hồi nợ. Hay nói
cách khác tài sản của khách hàng đợc coi nh một vật bảo đảm cho khoản vay
khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
Đánh giá các khoản nợ giúp ngân hàng thấy vị trí của mình trong các chủ

nợ của khách hàng. Qua đó ngân hàng thấy đợc khả năng thu hồi nợ từ khách
hàng nếu mình cho vay.
Đánh giá về luồng tiền của khách hàng: nhiều đơn vị khách hàng tạo ra đợc
nhiều lợi nhuận trong quá khứ cũng nh trong tơng lai. Tuy nhiên việc trả nợ lại
liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ của ngời vay. Do vậy những đánh giá dự đoán
về luồng tiền của khách hàng là rất quan trọng.
Phân tích một số các tỷ lệ nh: nhóm tỷ lệ thanh khoản; nhóm tỷ lệ sinh lời;
nhóm tỷ lệ rủi ro. Qua các tỷ lệ này ngân hàng có thể có đợc nhìn nhận tổng
quan về tình hình khách hàng và có những dự đoán đánh giá đúng đắn hơn khi
đa ra quyết định có đồng ý với yêu cầu vay vốn hay không.
Bớc 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa ngời nhận tài trợ
và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng
một khoản tín dụng trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng
tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai
bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các
luật, các quy định. Do vậy, cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kỹ
lỡng trớc khi ký kết hợp đồng tín dụng.
5
Bớc 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp đồng tín dụng đã đợc ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm
cấp tiền cho khách hàng nh thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng
kiểm soát khách hàng trong việc sử dụng số tiền đợc vay có đúng tiến độ mục
đích hay không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì,
có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ? quá trình này cho phép ngân hàng
thu thập thêm thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hớng
tốt, cho thấy chất lợng tín dụng đang đợc đảm bảo. Ngợc lại, khi chất lợng
khoản cho vay bị đe dọa ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân
hàng đợc quyền thu hồi nợ trớc hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp
đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp,

giảm số tiền vay khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với
ngân hàng đây là bớc đi nguy hiểm. Do vậy, cho tài trợ gắn liền với kiểm soát
khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng
mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các
thông tin bổ sung cho các thông tin ở bớc 1 và ra các quyết định cụ thể nhằm
ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bớc 4: Thu nợ hoặc đa ra các phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Một số trờng hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả
đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các
trục trặc trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là
rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đa ra các quyết định mới liên quan
đến tính an toàn của khoản tín dụng.
Từ một số vấn đề trình bày trên ta thấy hoạt động tín dụng là hoạt động tài
trợ và cho vay của các ngân hang thơng mại nhằm kiếm lợi nhuận. Đây là hoạt
động cơ bản của một ngân hàng và cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất có
6
thể ảnh hởng đến khả năng tiếp tục hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng
là cả hệ thống ngân hàng ở một quốc gia. Chính vì vậy, quy trình phân tích xét
duyệt tín dụng khoa học và hiệu quả là một vấn đề cần nghiên cứu và giải
quyết của ngân hàng trong giai đoạn tới. Đây là một bài toán khó nhng với sự
phát triển của khoa học công nghệ hiện nay trong một tơng lai không xa quy
trình phê duyệt tín dụng sẽ đợc thực hiện có hiệu quả và giảm thiểu rủi ro của
hệ thống ngân hàng nói chung và của hoạt động tín dụng nói riêng.
II- Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng
1 Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính (kiểm toán tài chính) là quá trình xác minh và
bày tỏ ý kiến của những ngời có đủ năng lực chuyên môn về báo cáo tài chính
của khách thể kiểm toán. Kiểm toán tài chính có đặc trng riêng so với các loại

hình kiểm toán khác xuất phát từ đối tợng kiểm toán và quan hệ chủ thể -
khách thể kiểm toán
Đối tợng của kiểm toán tài chính là Bảng khai tài chính. Bộ phận quan
trọng nhất của Bảng khai tài chính là Báo cáo tài chính. Trên Báo cáo tài chính
thể hiện toàn bộ hoạt động kinh tế, tình hình tài chính của một doanh nghiệp
bởi một hệ thống các chỉ tiêu liên quan chặt chẽ đến nhau. Nói nh vậy đối tợng
trực tiếp của kiểm toán tài chính là Bảng khai tài chính, nhng để đa ra đợc ý
kiến xác minh và bày tỏ thì kiểm toán không thể tách rời các thông tin có đợc
từ các tài liệu kế toán và các thông tin phi tài chính quan trọng khác.
Cùng với các quan hệ nội tại, báo cáo tài chính còn chứa đựng nhiều mối
quan hệ về tài chính và về quản lý và từ đó về quan hệ chủ thể - khách thể
kiểm toán. Việc lập các Báo cáo tài chính đợc tiến hành theo một quy trình
chặt chẽ khép kín từ lập chứng từ tới lập báo cáo kế toán. Vì vậy, cần xác định
rõ khách thể kiểm toán nói chung và trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Chủ
thể của kiểm toán đối với từng loại hình doanh nghiệp khác nhau cũng có
những phân loại khác nhau. Hiện nay có ba loại hình chủ thể kiểm toán là
7
kiểm toán nội bộ, kiểm toán nhà nớc và kiểm toán độc lập. Kiểm toán nội bộ
là kiểm toán các đơn vị thành viên theo yêu cầu của ngời lãnh đạo cao nhất.
Kiểm toán nhà nớc là kiểm toán các đơn vị, cá nhân hoạt động trên cơ sở ngân
sách nhà nớc. Kiểm toán độc lập là kiểm toán các doanh nghiệp dân doanh có
quy mô lớn theo quy định bắt buộc hoặc kiểm toán theo th mời kiểm toán. Từ
đó có thể thấy mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể của kiểm toán tài chính
là mối quan hệ ngoại kiểm và tính ngoại kiểm này còn tuỳ thuộc vào mức độ
độc lập của chủ thể kiểm toán và khách thể kiểm toán.
Nh vậy sự khác biệt của kiểm toán tài chính với các loại hình kiểm toán
khác chính là sự khác biệt trong đối tợng kiểm toán và mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể kiểm toán của mỗi loại hình kiểm toán.
Là một bộ phận của kiểm toán nói chung, để thực hiện chức năng xác minh
và bày tỏ ý kiến, kiểm toán tài chính sử dụng hệ thống phơng pháp chung của

kiểm toán là phơng pháp kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối chiếu
trực tiếp, đối chiếu lôgíc) và phơng pháp kiểm toán ngoài chứng từ (kiểm kê,
thực nghiệm, điều tra). Tuy nhiên do sự khác biệt về chức năng, khách thể,
đối tợng kiểm toán mà sự kết hợp các phơng pháp này có những đặc thù. Đối
tợng cụ thể của kiểm toán tài chính là báo cáo tài chính và bảng tổng hợp tài
chính đặc biệt khác. Các bảng tổng hợp này chứa đựng những mối quan hệ
kinh tế tổng quát, vừa phản ánh từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn với
những biểu hiện kinh tế, pháp lý và đợc lập ra theo những trình tự xác định với
những chuẩn mực cụ thể. Do vậy, kiểm toán tài chính phải hình thành những
trắc nghiệm với việc sử dụng liên hoàn các phơng pháp kiểm toán cơ bản để đa
ra ý kiến đúng đắn về các bảng tổng hợp này. Kiểm toán tài chính bao gồm ba
loại trắc nghiệm đó là trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số d và trắc
nghiệm phân tích. Trắc nghiệm công việc chính là cách thức và trình tự ra soát
các nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu lực của
hệ thống kiểm soát nội bộ trớc hết là hệ thống kế toán. Trắc nghiệm trực tiếp
8
số d là cách thức kết hợp các phơng pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp
với kiểm kê và điều tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số d cuối kỳ
(hoặc tổng số phát sinh) ở Sổ cái ghi vào Bảng cân đối tài sản hoặc vào Báo
cáo kế quả kinh doanh. Đây là cách thức chủ đạo của kiểm toán tài chính, nhờ
đó phần lớn bằng chứng thu thập đợc từ một nguồn độc lập với khách thể kiểm
toán nên bằng chứng thờng có chất lợng cao. Tuy nhiên, chi phí cho trắc
nghiệm trực tiếp số d thờng lớn nên kiểm toán viên phải cân đối với các trắc
nghiệm khác, và một trắc nghiệm không kém phần quan trọng đó là trắc
nghiệm phân tích. Trắc nghiệm phân tích là cách thức xem xét các mối quan
hệ kinh tế và xu hớng biến động của các chỉ tiêu kinh tế thông qua việc kết
hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu lôgíc, cân đối, giữa các trị số của các
chỉ tiêu hoặc của các bộ phận cấu thành chỉ tiêu. Trắc nghiệm phân tích đợc sử
dụng trong toàn bộ quá trình kiểm toán. Đây là toàn bộ các trắc nghiệm đợc sử
dụng trong cuộc kiểm toán tài chính. Một cuộc kiểm toán tài chính là một hệ

thống đợc tổ chức chặt chẽ từ khâu chuẩn bị, thực hiện và kết thúc nhằm giúp
kiểm toán viên kiểm soát đợc cuộc kiểm toán theo đúng quy định và đạt đợc
hiệu quả cao nhất. Nói chung, một cuộc kiểm toán bao gồm ba giai đoạn cụ
thể đó là lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán và kết thúc
kiểm toán.
Lập kế hoạch kiểm toán: từ th mời kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành tìm
hiểu khách hàng để lập hợp đồng kiểm toán và thu thập các thông tin liên
quan. Từ các thông tin tài chính và phi tài chính có quan hệ với khách hàng,
kiểm toán viên tiến hành xây dựng kế hoạch và chơng trình kiểm toán cụ thể,
đồng thời chuẩn bị về mặt nhân sự cho việc thực hiện kế hoạch kiểm toán đã
đề ra.
Thực hiện kế hoạch kiểm toán: Đây là quá trình sử dụng các trắc nghiệm
vào việc xác minh các thông tin hình thành và phản ánh trên Bảng khai tài
9
chính. Trình tự kết hợp các loại trắc nghiệm tuỳ thuộc vào những đánh giá ở
giai đoạn trớc.
Kết thúc kiểm toán: Kết quả các trắc nghiệm đợc tổng hợp đánh giá về
tính hợp lý chung và kiểm nghiệm trong quan hệ với các sự việc bất thờng,
những nghiệp vụ phát sinh sau ngày lập Bảng khai tài chính. Chỉ trên cơ sở đó
mới đa ra đợc kết luận cuối cùng và lập báo cáo kiểm toán.
1- Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng
Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng là một phần hành trong kiểm toán báo cáo
tài chính của ngân hàng. Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng nhằm đánh giá tính
thích đáng trong việc xác định giá trị khoản vay, tình trạng rủi ro của toàn bộ
nghiệp vụ tín dụng, đánh giá tính nghiêm túc, đúng đắn trong khi thực hiện
cấp tín dụng để đảm bảo rằng những rủi ro của nghiệp vụ này đã đợc kiểm
soát, tránh những thất thoát có thể đe doạ tới sự tồn tại của ngân hàng và trích
lập một khoản dự phòng rủi ro thích đáng.
Chính vì vậy, đối tợng kiểm toán nghiệp vụ tín dụng là tổng thể nghiệp vụ
cho vay, bao gồm các nghiệp vụ trong và ngoài bảng cân đối, cơ cấu rủi ro

tiềm ẩn, toàn bộ các giai đoạn trong quá trình xét duyệt cấp tín dụng - giám
sát tín dụng và uy tín tài chính của khách hàng vay vốn cũng nh tài sản đảm
bảo của họ.
Để đảm bảo mục tiêu kiểm toán đề ra đối với các nghiệp vụ tín dụng, cũng
giống nh các loại hình doanh nghiệp khác công việc kiểm toán không có sự
khác biệt đáng kể về quy trình chung. Quy trình kiểm toán cũng đợc tiến hành
theo ba bớc cụ thể: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán và
kết thúc kiểm toán.
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Trong giai đoạn này kiểm toán viên phải có đợc một số vấn đề sau: hiểu
biết về nội dung các nghiệp vụ tín dụng của khách hàng; hiểu đợc môi trờng
kiểm soát; hiểu đợc hệ thống kế toán; thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ;
10
quyết định mức độ trọng yếu; lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo
chơng trình kiểm toán.
Hiểu biết về nội dung các nghiệp vụ tín dụng của khách hàng là một vấn
đề quan trọng. Kiểm toán viên phải có đợc những thông tin để thấy đợc cách
thức tiến hành của các nghiệp vụ này cụ thể nh các hình thức cho vay, kế
hoạch đầu t, ngời đi vay ( thị phần của ngân hàng) Bên cạnh đó kiểm toán
viên cũng cần phân tích những rủi ro liên quan đến hoạt động tín dụng để từ
đó phục vụ cho việc xác định đợc rủi ro kiểm toán liên quan. Rủi ro tín dụng
phát sinh trong trờng hợp ngân hàng không thu đợc đầy đủ cả gốc và lãi của
khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Rủi ro tín
dụng có thể phân tích theo nhóm đối tợng và theo sự thất thoát tài sản. Rủi ro
tín dụng phân theo nhóm đối tợng có thể bao gồm rủi ro thất thoát các khoản
cho vay do khả năng tài chính của khách hàng yếu kém, trong đó có những rủi
ro từ các giao dịch trong bảng cân đối và những rủi ro từ các giao dịch ngoài
bảng cân đối, và rủi ro do giá trị quyền sở hữu tài sản giảm do những biến
động của ngân hàng nh thay đổi Ban lãnh đạo dẫn đến chất lợng hoạt động yếu
kém, hoặc sự phát triển ngân hàng quá nhanh mà trình độ quản lý không theo

kịp. Rủi ro thất thoát giá trị tài sản chính là nguy cơ giảm giá trị tài sản mà
ngân hàng nắm giữ nh các tài sản thế chấp, các chứng khoán mà ngân hàng
nhận cầm cố Việc phân tích rủi ro sẽ giúp kiểm toán viên lập kế hoạch thích
hợp, không bỏ sót những điểm trọng yếu cần kiểm toán.
Hiểu biết về môi trờng kiểm soát của ngân hàng. Hệ thống thông tin quản
lý, hệ thống kiểm soát nội bộ, việc quản lý rủi ro và vai trò của kiểm toán nội
bộ thờng đợc chú trọng trong môi trờng kiểm soát của ngân hàng và chính
điều này cũng ảnh hởng đến việc thực hiện kiểm toán của kiểm toán viên độc
lập. Trong các ngân hàng thơng mại, hai nguyên tắc đợc tôn trọng khi thiết kế
hệ thống kiểm soát nội bộ. Thứ nhất, mọi lĩnh vực hoạt động đều phải đợc
kiểm soát. Điều này có nghĩa là cơ cấu tổ chức của ngân hàng bao gồm nhiều
11
bộ phận khác nhau. Các bộ phận này đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Rủi ro xảy ra ở bộ phận này sẽ dẫn đến thiệt hại ở những bộ phận khác. Chính
vì vậy cần phải thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ cho toàn bộ mọi lĩnh vực
hoạt động, dù đó không phải là lĩnh vực chính của ngân hàng. Thứ hai, thực
hiện đợc nguyên tắc "bốn mắt". Để phòng ngừa rủi ro ngân hàng cần phải thiết
kế hệ thống kiểm soát sao cho mọi công việc đều đọc kiểm tra qua ít nhất hai
ngời ( "bốn mắt" ). Việc kiểm tra này có thể là kiểm tra trực tiếp (thí dụ nh
mọi nghiệp vụ giao dịch trong ngày do kế toán giao dịch thực hiện đều phải đ-
ợc kiểm soát viên kiểm tra), cũng có thể là kiểm tra gián tiếp thông qua sự phê
chuẩn trớc đó của cấp trên. Do đó, kiểm toán viên cần xem xét môi trờng kiểm
soát của khách hàng trên góc độ sự quan tâm của Ban giám đốc trong việc
thiết lập các quy định, cơ chế để thúc đẩy hoạt động kiểm soát nội bộ hiệu quả
và nâng cao độ tin cậy của kiểm toán nội bộ.
Hiểu biết hệ thống kế toán: Kiểm toán viên cần đạt đợc sự hiểu biết về hệ
thống kế toán của đơn vị khách hàng để xác định đợc rủi ro liên quan và xây
dựng kế hoạch kiểm toán. Trong ngân hàng số lợng các nghiệp vụ tín dụng
xảy ra rất lớn và phức tạp. Do đó, hầu hết các ngân hàng sử dụng hệ thống xử
lý số liệu trên máy tính. Chính vì vậy trong quá trình kiểm toán nếu cần thiết

kiểm toán viên phải cần đến sự trợ giúp của các chuyên gia về máy tính để có
thể thu thập đợc những bằng chứng hữu hiệu.
Thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ: Trong giai đoạn này, sau khi thu thập
đợc thông tin cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng, kiểm
toán viên tiến hành thực hiện các thủ tục phân tích đối với thông tin đã thu
thập đợc để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các
thủ tục kiểm toán sẽ đợc sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán. Việc tiến
hành phân tích tín dụng cũng đợc tiến hành bởi nhiều phơng pháp kỹ thuật của
kiểm toán viên nhằm đa ra đợc những nhận định đúng đắn về đối tợng mà
mình tiến hành kiểm toán.
12
Quyết định mức trọng yếu sơ bộ: mức trọng yếu sơ bộ đối với hoạt động
ngân hàng cũng đợc xác định nh các loại hình doanh nghiệp khác. Vấn đề
quan trọng đó là việc xác định mức độ trọng yếu phải đáp ứng đợc mục tiêu
của kiểm toán viên là xác định đợc những sai phạm trọng yếu bằng nhiều cách
có thể. Việc xác định mức độ trọng yếu sẽ giúp cho kiểm toán viên thuận tiện
trong việc xác định số mẫu để kiểm tra chi tiết.
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và soạn thảo chơng trình kiểm toán:
Do ngân hàng có khối lợng lớn về nghiệp vụ giao dịch, rất nhiều tài khoản,
báo cáo tài chính đợc nhiều đối tợng quan tâm, việc áp dụng hệ thống máy
tính trong việc xử lý các nghiệp vụ đã dẫn tới đòi hỏi cần phải có những thủ
tục của kiểm toán viên để đảm bảo rằng hệ thống này có hoạt động hiệu quả
hay không. Từ việc xác định này sẽ ảnh hởng tới việc đánh giá rủi ro và quyết
định số lợng mẫu cần chọn để kiểm tra. Nếu nh, những thủ tục kiểm soát của
kiểm toán viên cho thấy có thể tin tởng đợc vào hệ thống kiểm soát nội bộ của
đơn vị thì số lợng các thủ tục kiểm toán chi tiết sẽ giảm và ngợc lại. Nhng nếu
nh kiểm toán viên cho rằng hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng quá
yếu, đồng nghĩa với việc rủi ro kiểm soát quá cao thì kiểm toán viên có thể từ
chối kiểm toán cho khách hàng này. Do vậy trong giai đoạn này kiểm toán
viên phải xây dựng đợc chơng trình kiểm toán cụ thể phù hợp nhằm kiểm soát

đợc rủi ro của cuộc kiểm toán.
Giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán:
Từ chơng trình kiểm toán đã đợc xây dựng, kiểm toán viên tiến hành thực
hiện theo một trình tự thống nhất. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nếu có
những vấn đề trọng yếu nảy sinh nếu cần thiết kiểm toán viên có thể điều
chỉnh lại kế hoạch kiểm toán. Thông thờng trong giai đoạn này, kiểm toán
viên thực hiện hai thủ tục đó là thủ tục kiểm soát và thủ tục cơ bản.
Thực hiện các thủ tục kiểm soát:
13
Để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên cần xem xét tổng
quát về tổ chức cơ cấu của bộ phận tín dụng và tổ chức quy trình làm việc của
bộ phận này, bởi vì sơ đồ tổ chức cho chúng ta nhận biết cách thức mà một
ngân hàng áp dụng để theo dõi hoạn động tín dụng cũng nh theo dõi diễn biến
rủi ro trong kinh doanh. Mỗi ngân hàng sẽ có một cách tổ chức cơ cấu bộ phận
tín dụng khác nhau và vì vậy sẽ có cách thức tổ chức kiểm soát nội bộ nghiệp
vụ tín dụng khác nhau. Cũng cần xem xét kết quả của kiểm toán nội bộ để từ
đó kiểm toán viên có thể sử dụng kết quả này phục vụ cho quá trình kiểm toán
của mình. Các công cụ giúp cho kiểm toán viên thực hiện kiểm toán hệ thống
kiểm soát nội bộ là: các tài liệu hiện có ở ngân hàng quy định về việc thực
hiện các giao dịch tín dụng, đánh giá qua việc phỏng vấn cán bộ tín dụng, qua
kết quả trả lời bảng danh mục câu hỏi, đồ thị quy trình nghiệp vụ tín dụng
Tuy nhiên việc sử dụng danh mục câu hỏi có thể gặp trở ngại nếu ngời đợc hỏi
không muốn trả lời đúng sự thật. Kiểm toán viên cần tiến hành kiểm toán hệ
thống để xác định xem hệ thống kiểm soát nội bộ hiện có có phù hợp với tình
trạng lý tởng cần đạt đợc, ghi nhận lại hệ thống hiện có và phân tích đánh giá
những điểm khác biệt, những điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống Khi muốn
tìm hiểu bất kỳ một quy trình nghiệp vụ nào, ví dụ quy trình cấp tín dụng, quy
trình quản lý hạn mức tín dụng kiểm toán viên luôn phải tìm xem trong quy
trình đó chốt kiểm tra đợc cài đặt ở điểm nào? Quy trình còn thiếu chốt kiểm
tra nào? ở mỗi chỗ kiểm tra nh vậy có quy định rõ bằng văn bản ai là ngời

chịu trách nhiệm thực hiện kiểm tra, cách thức tiến kiểm tra không Để đ a ra
đợc những nhận xét về một quy trình đòi hỏi kiểm toán viên phải đọc đợc quy
trình và hình dung xem nếu mình là ngời phải thực hiện quy trình thì có làm đ-
ợc không, trao đổi với cán bộ tín dụng để xem họ có nắm đợc quy trình nghiệp
vụ hay không
Để đa ra đợc những đánh giá chính xác về hệ thống kiểm soát nội bộ của
ngân hàng, kiểm toán viên thông thờng chọn mẫu kiểm tra trên các khía cạnh:
14
Xem xét đơn xin vay vốn của khách hàng; xem xét quyết định cho vay, cam
kết cho vay và giải ngân; xem xét dấu hiệu của việc giám sát tín dụng; quản lý
hồ sơ và lu giữ tài sản thế chấp; kiểm toán đảm bảo tín dụng; kiểm toán việc
xử lý các khoản nợ có vấn đề.
Xem xét đơn xin vay vốn của khách hàng chính là quá trình thu thập, kiểm
tra các thông tin cần thiết về khách hàng, lập hồ sơ tín dụng để làm cơ sở cho
việc ra quyết định tín dụng. Trong giai đoạn này kiểm toán viên chủ yếu tập
chung vào việc xem xét tính đầy đủ, hợp lý và độ tin cậy của các hồ sơ liên
quan đến khoản cho vay mà đã đợc ngân hàng xét duyệt, xem xét các dấu hiệu
kiểm soát thể hiện trên hồ sơ.
Xem xét quyết định cho vay, cam kết cho vay và giải ngân. Kiểm toán viên
tiến hành đánh giá cơ sở đa ra quyết định cho vay, mức cho vay hình thức giải
ngân có phù hợp với quy định của ngân hàng hoặc các cơ quan quản lý cấp
trên.
Xem xét dấu hiệu của việc giám sát tín dụng là đánh giá quá trình kiểm
tra việc sử dụng vốn vay, một hoạt động rất quan trọng đòi hỏi cán bộ tín dụng
thực hiện nghiêm túc, vì chỉ có kiểm tra mới có thể biết đợc rằng khách hàng
sử dụngvốn vay nh thế nào? có gì thay đổi làm tăng khả năng xảy ra rủi ro cho
ngân hàng không? Trong tr ờng hợp ngân hàng kinh doanh một sản phẩm
mới thì hoạt động giám sát lại càng trở nên quan trọng. Đối với vấn đề này,
kiểm toán viên chủ yếu đánh giá phạm vi và thời điểm của hoạt động giám sát
thờng xuyên đợc quy định và thực hiện nh thế nào? các yêu cầu trong hồ sơ

giám sát có đợc thực hiện đầy đủ không? Cán bộ tín dụng có cập nhật những
thay đổi các thông tin tài chính hoặc các thông tin có thể ảnh hởng đến quá
trình thu hồi các khoản cho vay của ngân hàng hay không?
Kiểm toán viên cần quan tâm đến trật tự sắp xếp hồ sơ tín dụng và cách bảo
quản hồ sơ tín dụng để đảm bảo rằng hồ sơ tín dụng luôn có sự an toàn. Kiểm
toán viên cũng cần dành sự chú ý của mình vào việc kiểm tra cách thức quản
15
lý hồ sơ các tài sản thế chấp và bảo quản, khai thác các tài sản thế chấp, vì
ngân hàng phải chịu trách nhiệm về sự thất thoát các tài sản này mặc dù nó ch-
a thuộc quyền sở hữu của ngân hàng.
Kiểm toán tài sản đảm bảo để xác định khối lợng và giá trị tài sản thực tế
so với số liệu ghi chép trên sổ sách, trên hồ sơ vay cũng là công việc cần thiết
của kiểm toán viên. Để xác định đợc khối lợng tài sản đảm bảo tín dụng là có
thực và khi cần ngân hàng có quyền phát mại tài sản đó, kiểm toán viên cần
kiểm tra các trích lục sổ địa chính (nếu là nhà, đất ), trích lục tài khoản l u ký
(nếu tài sản đảm bảo là các chứng khoán), các thông báo hoặc hợp đồng
chuyển nhợng (nếu là hàng hoá ). Kiểm toán viên cũng cần xác định doanh
thu phát mại dự kiến của tài sản thế chấp tại thời điểm kiểm toán để lợng định
rủi ro thát thoát giá trị tài sản. Ví dụ: xác định giá trị chứng khoán theo thị giá
chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán. Đặc biệt trong trờng hợp cấp tín
dụng đầu t vào bất động sản thì việc kiểm tra hiện trờng, đánh giá tiến độ và
xem xét tiền vay có đợc sử dụng đúng không là rất cần thiết.
Trong quá trình kinh doanh, ngân hàng có thể gặp phải các khoản nợ có
vấn đề. Định nghĩa về khoản nợ có vấn đề có thể khác nhau do cách nhìn
nhận, cách đánh giá giá trị của khoản nợ của Ban lãnh đạo ngân hàng. Tuy
nhiên, việc xác định một khoản nợ là có vấn đề không nên lệ thuộc vào việc
khách hàng đã trễ hạn nợ bao nhiêu lâu mặc dù đây là một dấu hiệu cần thiết,
mà quan trọng là cần xem xét khách hàng đang ở trong tình trạng tài chính nh
thế nào. Cách thức xử lý nợ có vấn đề của Ban lãnh đạo ngân hàng cũng là một
vấn đề đáng quan tâm. Bởi vì việc theo dõi và xử lý nợ có vấn đề ảnh hởng lớn

đến tình hình tài chính của ngân hàng. Khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán
viên cần quan tâm tới các vấn đề sau: Việc thực hiện các quy định về thẩm
quyền xử lý nợ các khoản nợ có vấn đề; định nghĩa các khoản nợ có vấn đề
của ban lãnh đạo ngân hàng; cách thức tiến hành việc trích lập các khoản dự
phòng cần thiết, tính hợp lý của các khoản dự phòng đã trích lập, cách thức
16
tiến hành việc xoá sổ các khoản nợ đợc coi là không có khả năng thu hồi vốn
hoặc quá tốn kém trong việc thực hiện các thủ tục pháp luật; quy định của
ngân hàng về trách nhiệm lập báo cáo các khoản nợ có vấn đề, hình thức báo
cáo, mức độ của báo cáo Sau khi đã có những nhận xét chung, kiểm toán
viên cần thực hiện các thử nghiệm cụ thể bằng cách kiểm tra riêng lẻ một vài
trờng hợp cấp tín dụng để có các bằng chứng kiểm toán thích hợp cho đánh giá
của mình về hệ thống kiểm soát nội bộ. Khi tiến hành kiểm tra những trờng
hợp riêng lẻ (thử nghiệm kiểm soát) kiểm toán viên cần so sánh việc thực hiện
các bớc trong quy trình cấp tín dụng, các tiêu chí phân loại khách hàng cách
thức cũng nh các bớc tiến hành phân loại khách hàng, cách thức cũng nh các
bớc tiến hành phân loại khách hàng quy trình kiểm tra, đánh giá tài sản thế
chấp đã đ ợc thực hiện trong thực tế với quy định sẵn có. Kiểm toán viên
cũng cần phân tích, đánh giá cả hai tình trạng: Các quy định đã đặt ra và việc
thực hiện các quy định đó để rút ra nhận xét về u nhợc điểm của từng cơ chế.
Sau khi kết thúc kiểm toán hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên cần
đa ra nhận xét về tính chính xác, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ áp
dụng tại ngân hàng và những đề nghị đối với các lĩnh vực cần đợc cải thiện.
Trong quá trình thực hiện các thủ tục kiểm soát, nếu phát hiện ra một số vấn
đề mà trong quá trình lập kế hoạch không đa ra đợc, kiểm toán viên tiến hành
bổ sung và điều chỉnh lại kế hoạch kiểm toán nếu cần thiết. Trong trờng hợp
kiểm toán viên nhận định rằng từ thủ tục kiểm soát cho thấy rủi ro kiểm soát là
rất lớn, kiểm toán viên có thể tham khảo ý kiến của các kiểm toán viên cấp cao
để từ đó quyết định thủ tục kiểm toán cơ bản có nên tiếp tục đợc tiến hành hay
không.

Thực hiện các thử nghiệm cơ bản
Sau khi kế hoạch kiểm toán đã đợc điều chỉnh, kiểm toán viên sẽ tiến hành
các thử nghiệm cơ bản để có đủ các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở đa ra các
nhận xét, đánh giá về hoạt động tín dụng.
17
Về lý thuyết, các thử nghiệm cơ bản thực hiện để phát hiện các sai sót và
gian lận có thể có trong báo cáo tài chính và các thử nghiệm phải giúp kiểm
toán viên ớc lợng số tiền sai sót trên số d tài khoản.
Tuy nhiên do đặc thù của hoạt động tín dụng, số tiền sai sót trên tài khoản
không thể hiện đầy đủ sự thất thoát tài sản của ngân hàng vì sự thất thoát tài
sản đang còn tiềm ẩn và nó bắt đầu xuất hiện ngay từ giai đoạn cấp tín dụng và
kéo dài cho đến khi ngân hàng thu nợ xong. Do vậy, các thử nghiệm cơ bản
đối với kiểm toán nghiệp vụ tín dụng sẽ đợc thiết kế không chỉ so sánh các số
liệu về d nợ vay tổng thể với các chứng từ nhận nợ chi tiết, số liệu về chi phí
lập dự phòng rủi ro mà quan trọng là các thử nghiệm này phải đ ợc thiết kế
sao cho kiểm toán viên có thể đánh giá mức độ rủi ro của hoạt động tín dụng
và khả năng hạn chế rủi ro đối với nghiệp vụ này.
Việc kiểm tra hồ sơ vay cũng chỉ có thể đợc thực hiện bằng cách chọn mẫu
trên toàn bộ danh sách nợ vay. Việc chọn mẫu sẽ gặp khó khăn vì khối lợng hồ
sơ tín dụng trong một ngân hàng là rất lớn, lại đa dạng về loại hình, đợc lu giữ
cả ở các chi nhánh. Do vậy, tỷ trọng mẫu đợc chọn sao cho nó đạt đợc mức
cao nhất trên tổng d nợ, nhng không chỉ tập trung vào một nhóm hồ sơ nào đó
mà các hồ sơ đợc chọn cần đợc xem xét ở tất cả các loại hình.
Khi phân tích hồ sơ tín dụng cần lu ý thực hiện phân tích, đánh giá chất l-
ợng hồ sơ cho vay qua việc xem xét các thông tin về ngời đi vay và đánh giá
khả năng trả nợ. Để đánh giá, kiểm toán viên cần xem xét tình hình kinh tế
của khách hàng vay tín dụng, phân loại hồ sơ cho vay và xác định mức độ tập
trung tín dụng.
Để đánh giá tình hình kinh tế của khách hàng vay tín dụng, cần phân tích
bản quyết toán năm đã đợc kiểm toán để đánh giá xem khoản mục tín dụng

mà ngân hàng đã cấp là rủi ro nhiều hay ít là quan trọng. Trách nhiệm cung
cấp các báo cáo tài chính của khách hàng vay tín dụng là của các cán bộ tín
dụng. Nếu yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính của kiểm toán viên không đợc
18
đáp ứng đầy đủ, có thể đánh giá tình trạng kiểm soát nội bộ của ngân hàng là
cha đầy đủ. Có rất nhiều thông tin cần cho kiểm toán viên để đánh giá xem
việc ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách hàng vay là có thoả đáng hay
không, có khả năng xảy ra rủi ro không Các thông tin cần thiết cần tập trung
kiểm tra là:
Các tỷ suất tài chính của khách hàng vay: khả năng trả nợ, doanh lợi
Nếu khách hàng thiếu vốn tự có, doanh thu giảm, hàng tồn kho tăng
thì đó là những nguyên nhân mất khả năng thanh toán.
Tình hình tài khoản của khách hàng tại ngân hàng: doanh số trên tài
khoản có bị giảm hay không?
Đánh giá t cách cá nhân khách hàng vay, đặc biệt là ý thức thanh
toán: thanh toán có thờng chậm trễ, kéo dài, thay đổi hình thức thanh
toán.
Lu ý tới lĩnh vực hoạt động của khách hàng vay gắn với sự đánh giá
những biến động phát triển kinh tế.
Lu ý tới thông tin về khách hàng do Trung tâm thông tín tín dụng
cung cấp.
Khi thông tin về ngời đi vay không đầy đủ, kiểm toán viên nên tiếp cận
trực tiếp ngời đi vay cùng với sự hiện diện của ngân hàng để lấy thông tin bổ
sung. Nếu một khách hàng có nguy cơ phá sản, tình trạng tồn nợ cao, thờng
xin gia hạn thanh toán hối phiếu, liên tục thấu chi trên tài khoản, không có
luồng luân chuyển tín dụng trên tài khoản thì đó là những dấu hiệu cho thấy
chắc chắn có rủi ro thất thoát tín dụng. Đối với cho vay bất động sản các nhà
đầu t thờng xuất phát từ diễn biến tích cực của thị trờng, còn ngân hàng cũng
thờng đồng tình với dự đoán của khách hàng, đôi khi ngân hàng cũng tiếp
nhận các đánh giá từ bên ngoài không cẩn thận Do vậy, những đánh giá của

ngân hàng về khách hàng sẽ thiếu chính xác. Điều này đòi hỏi kiểm toán viên
19
khi đánh giá tình hình kinh tế khách hàng vay tín dụng cần có cách dự đoán
của mình cho hợp lý.
Hồ sơ cho vay cần đợc phân loại theo các nhóm với các tiêu chuẩn cụ thể.
Các tiêu chuẩn có thể dựa vào chuẩn mực theo thông lệ chung của ngân hàng
trên thế giới, cũng có thể là chuẩn mực do ngân hàng của quốc gia quy định.
Hồ sơ vay tín dụng có thể phân loại thành bốn nhóm chính nh sau:
Đạt tiêu chuẩn: Chất lợng khoản vay đợc đánh giá tốt, không có dấu hiệu
yếu kém.
Cận chuẩn: Chất lợng không tốt lắm nhng cha thấy khả năng thiệt hại.
Có vấn đề: Thiệt hại gần nh chắc chắn.
Không thu hồi đợc: Thủ tục đòi nợ đã đợc tiến hành nhng cha thu hồi đ-
ợc. Thiệt hại là chắc chắn, nhng cha thể biết lỗ sẽ là bao nhiêu.
Tiêu chí để định lợng và định tính đợc thiếu lập thờng có thể dựa trên thông
tin tài chính về khách hàng, tình hình trả nợ và lãi định kỳ khi đến hạn, chất l-
ợng tài sản thế chấp Việc phân loại hồ sơ vay d\sẽ làm cơ sở cho việc đánh
giá mức độ của khoản dự phòng cần thiết cho những khoản vay không thu hồi
đợc, và những khoản dự phòng này có ảnh hởng trực tiếp đến chi phí của ngân
hàng.
Sự tập trung tín dụng đối với một vài con nợ hay một vài ngành kinh doanh
đều dẫn đến sự gia tăng mức độ rủi ro đáng kể. Do vậy, cần có sự đánh giá về
mức độ tập trung tín dụng, đặc biệt là khi có các khoản vay tập trung vào các
ngành nghề có chiều hớng phát triển không thuận lợi
Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Đây là giai đoạn kiểm toán viên thực hiện công việc tổng hợp những kết
quả đã tiến hành trớc đó. Những vấn đề đợc phát hiện trong quá trình thực hiện
kiểm toán đợc xem xét đánh giá, từ đó đợc đem ra thảo luận trong nhóm kiểm
toán để đa ra đợc những ý kiến xác đáng phục vụ cho việc phát hành báo cáo
20

kiểm toán và th quản lý. Một công việc không kém phần quan trọng trong giai
đoạn này là kiểm toán viên phải tiến hành thu thập những thông tin cho thấy
rằng một số nghiệp vụ, sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán mà có thể
ảnh hởng đến báo cáo tài chính đợc kiểm toán đã đợc kiểm toán viên ghi chú
trong báo cáo của mình. Đồng thời, kiểm toán viên cũng phải tiến hành một số
thủ tục phân tích để khẳng định rằng số liệu trên báo cáo tài chính của ngân
hàng là hợp lý. Sản phẩm của cuộc kiểm toán đợc phát hành trong giai đoạn
này là báo cáo kiểm toán phải đảm bảo một số yêu cầu:
Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng
Trình bày đặc điểm cơ cấu tín dụng
Đánh giá nghiệp vụ tín dụng theo khía cạnh kinh tế: tốc độ tăng tr-
ởng chung, ảnh hởng đến doanh thu, chi phí của ngân hàng
Việc tuân thủ các quy định dành cho hoạt động tín dụng nói riêng,
các quy định dành cho hoạt động ngân hàng nói chung, các nguyên
tắc kế toán
Đánh giá các chế độ thông tin báo cáo.
Nói tóm lại, quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng cũng mang những đặc
điểm chung của quy trình kiểm toán tài chính. Kiểm toán nghiệp vụ tín dụng
cũng bao gồm ba bớc: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán,
và kết thúc kiểm toán. Trong mỗi giai đoạn cũng tiến hành theo các bớc và ph-
ơng pháp kỹ thuật của kiểm toán là phơng pháp chứng từ và phơng pháp ngoài
chứng từ. Tuy nhiên, do đặc điểm riêng của hoạt động tín dụng nói riêng và
của ngành ngân hàng nói chung mà trong quá trình thực hiện kiểm toán có
những khác biệt. Đó là việc kiểm toán viên không chỉ khẳng định số liệu trên
báo cáo tài chính là chính xác mà còn phải đánh giá đợc khả năng rủi ro của
các số liệu đó. Điều này có nghĩa, việc xác minh rằng số liệu trên báo cáo là
trung thực, hợp lý cha thể đáp ứng đợc nhu cầu của ngời sử dụng mà cần phải
21
có ý kiến của kiểm toán viên về số liệu đó từ những phân tích của kiểm toán
viên thực hiện. Do vậy, khi tiến hành kiểm toán nghiệp vụ tín dụng, kiểm toán

viên không chỉ nắm vững nghiệp vụ về kiểm toán mà còn phải có trình độ
phân tích nhất định về hoạt động tín dụng một hoạt động có nhiều rủi ro nhất
của ngân hàng thơng mại. Nhìn chung, kiểm toán nghiệp vụ tín dụng cũng là
một bộ phận của kiểm toán tài chính nói chung, sản phẩm cuối cùng đều là
báo cáo kiểm toán với sự xác minh và ý kiến bày tỏ của kiểm toán viên về đối
tợng kiểm toán- số d tài khoản cho vay.

Phần hai
Quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại ngân
hàng thơng mại do Công ty kiểm toán Việt Nam thực
hiện
1.1- Khái quát về Công ty kiểm toán Việt Nam
Công ty kiểm toán Việt nam (gọi tắt là VACO) đợc Bộ trởng Bộ tài chính
ký Quyết định thành lập vào ngày 13 tháng 5 năm 1991, với hoạt động chủ
yếu là cung cấp dịch vụ kế toán kiểm toán và t vấn tài chính.
Năm 1992, nhằm tiếp thu những kỹ thuật kiểm toán tiên tiến của thế giới,
VACO đã tăng cờng hợp tác với tất cả các Hãng kiểm toán hàng đầu thế giới
nh Deloitte Touche Tohmatsu (DTT); Price Waterhouse (PW); KPMG; Ernst
& Young (E&Y), Arthur Andersen (A&A). Việc hợp tác kinh doanh của
VACO với các Hãng kiểm toán quốc tế này không chỉ trong phạm vi các Hợp
đồng kiểm toán làm chung mà còn tập trung trong lĩnh vực đào tạo các chuẩn
22
mực kế toán kiểm toán quốc tế, các nguyên tắc thực hành kiểm toán quốc
tế tại Việt Nam.
Tháng 10/1997, DTT đã chính thức công nhận VACO là thành viên của
DTT và là đại diện hợp pháp duy nhất của DTT tại Việt Nam. Với sự kết hợp
thế mạnh của Công ty kiểm toán Việt Nam thông hiểu về môi trờng kinh
doanh và luật pháp Việt Nam với một hãng kiểm toán quốc tế có bề dày lịch
sử và danh tiếng hàng trăm năm, VACO là Công ty kiểm toán đầu tiên của
Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế . Sự kiện này đã đánh dấu một bớc phát triển

mới của VACO nói riêng và ngành kiểm toán Việt nam nói chung.
Sau 12 năm đi vào hoạt động, với những nỗ lực không ngừng của tập thể
cán bộ, nhân viên toàn Công ty và của từng thành viên ban giám đốc đã đa
Công ty đạt đợc những thành tích vợt bậc, đóng góp vào sự trởng thành của
các doanh nghiệp kế toán và kiểm toán Việt nam. Những thành tích đó đã đợc
Bộ tài chính ghi nhận và đề nghị Chính phủ tặng thởng huân chơng lao động
hạng 3.
Với đội ngũ nhân viên đầy kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán kiểm toán
và t vấn, Công ty đã và đang cung cấp dịch vụ này với chất hàng đầu tại Việt
Nam. Chính vì vậy mà khách hàng của Công ty ngày càng tăng lên. Khách
hàng chủ yếu của Công ty bao gồm: Tổng Công ty Hàng không Dân dụng Việt
Nam; Tổng Công ty Điện lực Việt Nam; Tổng Công ty Than Việt Nam; Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam; Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam; Tông Công ty
Xi măng Việt Nam; Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam; Vietcombank; Khách
sạn Thống Nhất Metropole; Khách sạn Hà Nội; Khách sạn Omni Sài Gòn;
Procter & Gamble; KAO Việt Nam Lmt; VietNam Motor Corp.; và rất nhiều
doanh nghiệp trong và ngoài nớc khác với nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Đội ngũ nhân viên ngày càng tăng về số lợng và chất lợng, điều đó có thể đợc
thấy rõ qua con số biết nói sau:
23
45% số nhân viên đã đợc đào tạo, khảo sát về kế toán, kiểm toán ở nớc
ngoài
37% số nhân viên có trên 5 năm kinh nghiệm.
17 % số nhân viên trở lên có hai bằng đại học.
61% số nhân viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong công việc
95% số nhân viên có trình độ đại học trở lên và sử dụng thành thạo máy
vi tính trong công việc.
Số lợng nhân viên mới hàng năm tăng 20%. Hiện nay số lợng nhân viên
đã lên tới 376 ngời. Điều đó chứng tỏ quy mô của Công ty ngày càng
tăng.

Qua những con số đó ta có thể tin tởng vào chất lợng dịch vụ mà Công ty
cung cấp với vai trò là khách hàng. Chính vì niềm tin của khách hàng mà
doanh thu của VACO đã tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng năm 2002 so với năm
1996 là 6000% một con số đáng ngỡng mộ đối với một doanh nghiệp rất trẻ
12 tuổi này.
1.2 - Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Công ty Kiểm toán Việt Nam.
Hiện nay Công ty có ba cơ sở chính đó là: Văn phòng chính đóng tại số 8
Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa Hà Nội; và hai văn phòng đại diện tại Thành
phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hải Phòng. Để quản lý và đa hoạt động một
cách chặt chẽ và hiệu quả, bộ máy tổ chức của Công ty đợc tổ chức theo mô
hình chức năng. Đây có thể là một hình thức tổ chức hợp lý phù hợp với quy
mô của Công ty trong giai đoạn hiện tại. Ta có thể hiểu rõ cơ cấu tổ chức qua
sơ đồ sau:
24
Hội đồng
cố vấn
DTT
Giám đốc
Phó giám đốc 1 Phó giám đốc 2 Phó giám đốc 3 Phó giám đốc 4 Kế toán trưởng
-Phòng dịch vụ quốc tế
-Chi nhánh Hải phòng
C
h
i

n
h
á
n
h


H


C
H
í

M
í
n
h
P
h
o
n
g

t
ư

v

n

v
à

g
i


i

p
h
á
p
B


p
h

n

t
h
ô
n
g

t
i
n
P
h
ò
n
g


Đ
à
o

t

o
P
h
ò
n
g

N
g
h
i

p

v


I
P
h
o
n
g


n
g
h
i

p

v


I
I
P
h
ò
n
g

n
g
h
i

p

v


I
I

I
P
h
ò
n
g

n
g
h
i

p

v


I
V
P
h
ò
n
g

k
i

m


t
o
á
n

X
D
C
B
P
h
ò
n
g

h
à
n
h

c
h
í
n
h

t

n
g


h

p
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Công ty Kiểm toán Việt Nam.
Qua sơ đồ trên ta có thể hình dung đợc mô hình tổ chức của Công ty. Ban
giám đốc bao gồm năm (5) thành viên: 1 Giám đốc và 4 Phó giám đốc. Căn cứ
vào điều lệ Công ty, các chức danh Giám đốc và Phó giám đốc đợc bổ nhiệm,
bãi nhiệm theo quyết định của Bộ trởng Bộ Tài chính. Giám đốc giữ vai
trò điều hành chung. Phó Giám đốc chịu trách nhiệm hỗ trợ Giám đốc
hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, theo sự phân chia trách nhiệm, Phó
Giám đốc phải chịu trách nhiệm quản lý đối với một số các phòng
nghiệp vụ, các chi nhánh.
Bên cạnh đó trong cơ cấu tổ chức bộ máy VACO còn bao gồm "Hội
đồng cố vấn DTT". Hội đồng này có chức năng giám sát, t vấn các vấn
đề có liên quan đến việc ứng dụng quy trình AS/2 vào các quá trình
kiểm toán của Công ty. Đồng thời còn chịu trách nhiệm đào tạo nâng
cao trình độ của kiểm toán viên.
Ngoài Ban Giám đốc và Kế toán trởng, Công ty Kiểm toán Việt Nam
còn có nhiều phòng ban, chi nhánh khác. Đó là các phòng sau: Bốn
phòng nghiệp vụ là Phòng Nghiệp vụ I, II, III, IV, Phòng Đào tạo,
Phòng Kiểm toán XDCB, Phòng Dịch vụ Quốc tế (ISD). Mỗi Phòng đều
đảm nhiệm chức năng kiểm toán hoặc thực hiện việc cung cấp dịch vụ
theo những loại hình doanh nghiệp phù hợp. Tuy nhiên, việc thực hiện
25

×