LỜI MỞ ĐẦU
Tài sản cố định (TSCĐ) là cơ sở vật chất không thể thiếu được trên bình
diện cả nền kinh tế nói chung và đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
nói riêng. TSCĐ là cở sở để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt trong các doanh nghiệp sản xuất TSCĐ phản ánh năng lực tạo ra sản phẩm
để cung cấp ra thị trường của đơn vị, khoản mục TSCĐ chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng tài sản của đơn vị. Do thực tiễn đó kiểm toán khoản mục TSCĐ là
một phần quan trọng trong kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán TSCĐ một
mặt góp phần phát hiện những sai phạm và gian lận làm cơ sở cho việc đưa ra ý
kiến kiểm toán, một mặt còn góp phần nâng cao hiệu quả cho công tác quản lý
TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán khoản mục TSCĐ trong
kiểm toán báo cáo tài chính, trên cơ sở những kiến thức được trang bị trong nhà
trường và kiến thức thực tế thu nhận được sau một thời gian thực tập tại Công ty
Cổ phần Kiểm toán và Tư vấn thuế em đã hoàn thành luận văn : “Hoàn thiện
quy trình kiểm toán khoản mục tài sản cố định trong kiểm toán Báo cáo tài
chính do Công ty Cổ phần Kiểm toán - Tư vấn thuế (ATC) thực hiện”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn bao gồm các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lí luận về kiểm toán tài sản cố định trong kiểm toán báo
cáo tài chính
Phần II: Quy trình thực hiện kiểm toán khoản mục tài sản cố định trong
kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Cổ phần Kiểm toán - Tư vấn thuế
(ATC) thực hiện
Phần III: Những nhận định và giải pháp hoàn thiện kiểm toán tài sản
cố định trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Cổ phần Kiểm toán - Tư
vấn thuế thực hiện.
Trong quá trình thực hiện luận văn của mình em đã cố gắng kết hợp vận
dụng kiến thức thực tế và lí luận, phương pháp tổng hợp và phân tích cũng như
phương pháp biện chứng để làm rõ những vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, do
1
kinh nghiệm thực tế còn chưa nhiều và hạn chế về mặt thời gian Luận văn của
em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng
góp, phê bình của các thầy cô giáo để hoàn thiện hơn nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo – Ths. Phan Trung Kiên và các anh
chị trong Công ty Cổ phần Kiểm toán - Tư vấn thuế đã nhiệt tình hướng dẫn em
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC TÀI SẢN CỐ
ĐỊNH TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 TÀI SẢN CỐ ĐỊNH - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG CÔNG
TÁC QUẢN LÝ VÀ KẾ TOÁN
1.1.1 Khái niệm TSCĐ
Theo cách hiểu chung nhất TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn,
thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, trong quá
trình đó giá trị của TCSĐ được chuyển dần vào giá trị của sản các sản phẩm
hàng hoá được sản xuất ra.
Hiện tại ở Việt Nam có hai văn bản pháp qui qui định các vấn đề liên
quan đến TSCĐ trong doanh nghiệp bao gồm: Quyết định số 206/2003QĐ- BTC
của Bộ tài chính ban hành về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ
ban hành ngày 12 tháng 12 năm 2003 và hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam
ban hành năm 2001 cụ thể bao gồm 2 chuẩn mực số 03- Tài sản cố định hữu
hình; Chuẩn mực số 04- Tài sản cố định vô hình.
Theo quyết định số 206/2003QĐ- BTC một tài sản được ghi nhận là
TSCĐ khi có đủ bốn tiêu chuẩn sau:
• Doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc
sử dụng tài sản này.
• Giá trị ban đầu của tài sản được xác định một cách đáng tin cậy
• Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên
• Có có giá trị từ mười triệu đồng trở lên
Như vậy có thể thấy theo qui định hiện hành khái niệm về TSCĐ đã có
một số thay đổi, theo qui định cũ Quyết định 166/199/BTC của Bộ tài chính tiêu
chuẩn nhận biết về TSCĐ chỉ bao gồm hai tiêu chuẩn sau: có thời gian sử dụng
từ một năm trở lên và có giá trị từ năm triệu đồng trở lên. Sự thay đổi này là một
3
minh chứng cho quá trình dần hoàn thiện hơn công tác kế toán của Việt Nam,
đáp ứng sự thay đổi của thực tiễn, tiến gần hơn tới Chuẩn mực kế toán quốc tế.
1.1.2 Phân loại TSCĐ
Để đáp ứng nhu cầu trong quản lý TSCĐ được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau như: theo hình thái biểu hiện, theo quyền sở hữu, theo tình hình
sử dụng và theo nguồn hình thành:
• Căn cứ vào hình thái biểu hiện: TSCĐ bao gồm hai loại TSCĐ hữu hình
và TSCĐ vô hình:
TSCĐ hữu hình:
Theo quyết định số 206 /2003/QD – BTC về ban hành Chế độ quản lý, sử
dụng và trích khấu hao TSCĐ: TSCĐ hữu hình là những tư liệu lao động chủ
yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số
chức năng nhất định) thoả mãn các tiêu chuẩn của TSCĐ hữu hình, tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 03: “TSCĐ hữu hình là những
tài sản do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình”.
TSCĐ hữu hình bao gồm các nhóm sau: Nhà cửa vật kiến trúc, máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải thiết bị truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý, vườn
cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm và các loại tài sản cố định khác.
TSCĐ vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của TSCĐ, để đem lại lợi
ích lâu dài cho doanh nghiệp.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 04: “TSCĐ vô hình là tài sản
không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm
giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối
tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình”.
4
TSCĐ bao gồm các loại sau: quyền sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu
hàng hoá, quyền phát hành, phần mềm máy vi tính, giấy phép và giấy phép
nhượng quyền; bản quyền, bằng sáng chế; công thức và cách thức pha chế, kiểu
mẫu, thiết kế và vật mẫu; TSCĐ vô hình đang triển khai.
• Căn cứ vào quyền sở hữu: quyền sở hữu được thể hiện ở quyền định đoạt
của doanh nghiệp đối với TSCĐ, theo tiêu thức này TSCĐ bao gồm hai
loại là TSCĐ tự có và TSCĐ thuê ngoài:
TSCĐ tự có: là những TSCĐ được mua sắm, xây dựng hay chế tạo bằng
nguồn vốn của doanh nghiệp. Những tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt đối với tài sản như thanh lý
nhượng bán trên cơ sở chấp hành mọi thủ tục theo qui định của Nhà nước.
TSCĐ thuê ngoài: là những TSCĐ mà doanh nghiệp được chủ tài sản
nhượng quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định ghi trên hợp đồng
thuê. Theo phương thức thuê, hợp đồng thuê tài sản được chia làm hai loại: thuê
hoạt động và thuê tài chính. Căn cứ vào tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ thì chỉ có tài
sản thuê tài chính mới có đủ điều kiện để trở thành TSCĐ.
Tài sản cố định thuê tài chính là tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển
giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê.
Quyến sở hữu tài sản có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê.
• Căn cứ vào tình hình sử dụng: TSCĐ được chia làm bốn loại:
o Tài sản cố định dùng cho kinh doanh
o Tài sản cố định dùng cho hành chính sự nghiệp
o Tài sản cố định cho mục đích phúc lợi
o Tài sản cố định chờ sử lý
• Căn cứ vào nguồn hình thành TSCĐ : bao gồm các loại sau:
o Tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước hoặc
cấp trên cấp
o Tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn vay
o Tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn tự bổ sung
5
o Tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn liên doanh liên kết với các đơn vị
khác (góp vốn bằng hiện vật).
Dưới góc độ hạch toán kế toán và căn cứ vào chuẩn mực kế toán Việt
Nam, TSCĐ được chia làm ba loại TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và TSCĐ
thuê tài chính.
1.1.3 Quản lý tài sản cố định
Do TSCĐ là cơ sở vật chất của doanh nghiệp, thường chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng tài sản của đơn vị, TSCĐ đòi hỏi phải được quản lý một cách chặt
chẽ khoa học để đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó đặc điểm của TSCĐ là
có hình thái vật chất không thay đổi trong quá trính sử dụng, nhưng giá trị lại
hao mòn dần nên TSCĐ đòi hỏi phải được quản lý cả về mặt hiện vật và mặt giá
trị.
Quản lý về mặt hiện vật: việc quản lý về mặt hiện vật TSCĐ của doanh
nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thực hiện việc theo dõi chặt chẽ về mặt số lượng, không để xảy ra tình
trạng mất mát, thiếu hụt.
Đảm bảo tất cả các TSCĐ đều được cất giữ ở nơi phù hợp cho sản xuất
đồng thời đáp ứng đầy đủ các yếu tố kỹ thuật, giảm thiểu tối đa sự hao mòn do
các yếu tố tự nhiên làm giảm giá trị của TSCĐ.
Xây dựng qui chế quản lý TSCĐ: xác định rõ quyền hạn trách nhiệm của
từng cá nhân trong việc sử dụng và bảo quản TSCĐ.
Định kỳ hàng năm doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê TSCĐ, xác định
định mức kỹ thuật của từng tài sản và có kế hoạch sửa chữa, nâng cấp và thay
thế kịp thời đối với những tài sản không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật.
Quản lý về mặt giá trị: mỗi tài sản phải được quản lý theo ba tiêu chí giá
trị, bao gồm: nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại.
Nguyên giá tài sản: theo quyết định số 206/2003/QĐ- BTC Nguyên giá
TSCĐ hữu hình là toàn bộ chi phí hình thành nên TSCĐ tính tới thời điểm đưa
tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng
6
Nguyên giá TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra
để có TSCĐ vô hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính .
Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính phản ánh ở đơn vị thuê là giá trị hợp lý
của tài sản thuê tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp lý của tài sản
thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tài sản tối thiểu thì
nguyên giá ghi theo giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Chi
phí phát sinh ban đầu liên quan trực tiếp đến hoạt động thuê tài chính được tính
vào nguyên giá của TSCĐ đi thuê.
Nguyên tắc xác định nguyên giá TSCĐ tương ứng trong từng trường hợp
cụ thể được qui định trong Quyết định số 206/2003/QĐ- BTC.
Giá trị hao mòn và khấu hao TSCĐ:
Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài
sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự
nhiên, do tiến bộ kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
Hao mòn là một hiện tượng tất yếu khách quan, trong quá trình sử dụng giá
trị của tài sản sẽ bị giảm dần, do đó để đảm bảo tính đúng kỳ của các chi phí sản
xuất phát sinh cũng như đảm bảo nguồn thu tái đầu tư TSCĐ khi các TSCĐ hết
thời gian sử dụng, các doanh nghiệp phải tiến hành tính toán và phân bổ một
cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh từng kỳ
hạch toán, công việc này gọi là trích khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên trên thực tế
việc tính toán chính xác giá trị hao mòn của mỗi TSCĐ trong một khoảng thời
gian là không thể, bởi vậy nguyên tắc hạch toán kế toán cho phép việc trích khấu
hao tài sản cố định căn cứ trên thời gian hữu dụng được ước đoán một cách
tương đối của TSCĐ. Như vậy trên thực tế việc trích khấu hao tài sản cố định là
một hoạt động mang tính chủ quan, giả định về lượng giá trị hao mòn của TSCĐ
trong một khoảng thời gian nhất định để phân bổ dần nguyên giá của TSCĐ vào
chi phí sản xuất kinh doanh.
Giá trị hao mòn của TSCĐ được tính bằng số khấu hao luỹ kế đến thời
7
điểm xác định.
Do việc tính khấu hao liên quan trực tiếp đến chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ dẫn đến ảnh hưởng đến nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của
các đơn vị sản xuất kinh doanh do đó các qui định hiện hành có qui định chặt
chẽ về các phương pháp tính khấu hao được áp dụng.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 03, 04 có 3 phương pháp khấu hao
được áp dụng cho TSCĐ bao gồm:
1) Phương pháp khấu hao theo đường thẳng
2) Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
3) Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm.
Giá trị còn lại của TSCĐ
Giá trị còn lại của TSCĐ là giá thực tế của TSCĐ tại một thời điểm nhất
định. Trên góc độ kế toán giá trị còn lại của TSCĐ được xác định bằng hiệu số
giữa nguyên giá TSCĐ và giá trị hao mòn (số khấu hao luỹ kế tính đến thời
điểm xác định).
Giá trị còn lại TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ - Giá trị hao mòn TSCĐ
Để thực hiện việc theo dõi giá trị của TSCĐ theo cả ba tiêu chí giá trị
doanh nghiệp cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định:
Theo điều 9 Quyết định 206/2003/QĐ- BTC: Mọi tài sản cố định của
doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao.
Mức trích khấu hao tài sản cố định được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong
kỳ.
Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố
định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Đối với những TSCĐ chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác
8
định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại... và tính
vào chi phí khác.
Doanh nghiệp phải đăng ký phương pháp trích khấu hao cho từng loại tài
sản và thực hiện nhất quán phương pháp khấu hao đó trong suốt quá trình sử
dụng tài sản đó.
Doanh nghiệp phải xác định thời gian khấu hao cho từng loại tài sản dựa
vào khung thời gian thống nhất theo qui định hiện hành. Mọi trường hợp doanh
nghiệp thực hiện khác với qui định phải được sự cho phép của Bộ tài chính.
Việc nâng cấp TSCĐ kéo dài thời gian khấu hao phải đăng ký lại cơ quan
quản lý trực tiếp.
TSCĐ thanh lý trước khi hết thời gian khấu hao do một số nguyên nhân
thì phần giá trị còn lại phải ghi nhận một lần vào thu nhập khác.
Doanh nghiệp không được tiến hành trích khấu hao đối với TSCĐ không
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các TSCĐ phục vụ cho hoạt động
phúc lợi.
Toàn bộ số khấu hao luỹ kế doanh nghiệp được phép sử dụng để tái đầu
tư, thay thế đổi mới TSCĐ hoặc sử dụng để sản xuất kinh doanh khi có nhu cầu.
1.1.4 Tổ chức hạch toán kế toán TSCĐ
1.1.4.1 Hệ thống chứng từ sổ sách và tài khoản kế toán
Công tác hạch toán kế toán TSCĐ đòi hỏi phải có đầy đủ chứng từ và các
sổ sách sau:
Nghiệp vụ tăng TSCĐ: Quyết định mua mới TSCĐ, Hoá đơn mua TSCĐ,
hợp đồng mua, Biên bản đấu thầu, Biên bản bàn giao TSCĐ, Bản sao các tài liệu
kỹ thuật, Biên bản nghiệm thu khối lượng công sửa chữa hoàn thành
Theo dõi trong kỳ: Thẻ TSCĐ, Biên bản kiểm kê TSCĐ, bảng tính và
phân bổ khấu hao TSCĐ, sổ chi tiết và sổ tổng hợp TSCĐ. Tùy thuộc vào hình
thức tổ chức hạch toán kế toán, đơn vị sẽ sử dụng các loại sổ sách phù hợp để
theo dõi các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ.
9
Nghip v gim TSC: Biờn bn giao nhn TSC, Biờn bn thanh lý
TSC, Biờn bn ỏnh giỏ li TSC.
S 1.1: Quy trỡnh luõn chuyn chng t TSC
Hội đồng
giao nhận
Kế toán
tài sản
Chủ sở hửu
Quyết định
tăng, giảm
TSCĐ
Giao, nhận
tài sản
thẻ tài sản
Lập, huỷ
Lập biên
bản
Ghi sổ chi
tiết
Lập bảng
phân bố
khấu hao
LƯu
Ghi sổ
tổng hợp
Nghiệp vụ
TSCĐ
Vòng luân chuyển chứng từ
Ghi cuối tháng
Nhiệm vụ, quyền hạn
Ghi hàng ngày
10
1.1.4.2 Hch toỏn tỡnh hỡnh bin ng TSC
Cụng vic hch toỏn k toỏn TSC c th hin qua cỏc s sau:
S 1.2: Trỡnh t hch toỏn tỡnh hỡnh tng, gim TSC thuờ ti chớnh
TK 111,112, 331 TK 142
Chi tiền lý quỹ đảm
TK 212
Nhận TSCĐ thuê tài chính
TK 2142TK 2141
Kết chuyển giá
TK 342
Nợ gốc phải trả các kỳ
TK 244
tiếp theo
bảo việc thuê tài chính
ứng tr
Ư
ớc tiền thuê
TK 315
Nợ gốc
phải trả
kỳ này
Nhận đ
Ư
ợc hoá đơn thanh toán
TK 111, 112
Mua lại TSCĐ thuê tài
chính thành TSCĐ thuộc
sở hữu đợn vị
TK 211
Trả lại TSCĐ thuê tài chính
cho bên cho thuê
trị hao mòn
Chi tiền trả thêm
khi mua lại
TSCĐ thuê tài
chính
tiền thuê và chi trả nợ ngay
TK 133
TK 635
Nhận HĐ
nh
Ư
ng ch
Ư
a
trả nợ ngay
Thuế GTGT
Thuế GTGT đ
Ư
ợc khấu trừ
phát sinh chi phí trực
Lãi thuê
11
S 1.3: Trỡnh t hch toỏn tỡnh hỡnh tng, gim TSC hu hỡnh
TK 111, 152
TK 128, 222
TK 133
Góp vốn liên doanh
TCSĐ thiếu trong kiểm kê chƯa rõ
Đánh giá giảm TSCĐ
Giá trị còn lại nhỏ
TK 3381
TK 212
TK 153
TK 412
TK 2141
TK 411
TK 811
TK 411
TK 214
Giá trị hao mòn
Giá trị hao mòn
Giá trị hao mòn
Giá trị lại
TK 111, 112, 338
TK 128, 222
TK 1381
TK 627, 641, 642
TK 242
TK 214
Giá trị còn lại lớn
Giảm TSCĐ do
Giảm TSCĐ do
thanh lý, nhƯợng bán
trả lại vốn góp liên doanh
TCSĐ còn mới, chƯa sử dụng
chuyển thành
TSCĐ giảm do
công cụ
dụng cụ
đã sử
dụng
ĐƯợc cấp, biếu, nhận
TSCĐ mua cần lắp dật, CDCB
vốn góp bằng TSCĐ
hoàn thành đƯa vào sử dụng
TSCĐ thừa trong
kiểm kê
phân bố nhiều lần
Giá trị hao mòn
TSCĐ
Chuyển quyền sở hữu
TSCĐ thuê tài chính
Chuyển công cụ dụng
cụ thành TSCĐ
Đánh giá tăng TSCĐ
Giá trị
Giá trị
hao mòn
còn lại
Nhận TSCĐ do
điều chuyển nội bộ
TK 412
CL vốn lúc nhận
và lúc trả(DN chịu)
TK 153
phân bổ 1 lần
nguyên nhân
Thu hồi vốn góp liên
doanh bằng TSCĐ
lúc trả
Thuế GTGT đầu vào
Tập hợp chi phí
XDCB
(nếu có)
VAT
(nếu có)
TK 111, 112, 331
Mua sắm TSCĐ
không qua lắp đặt
TK 133
TK 211
TK 411
TK 241
12
S 1.4: Trỡnh t hch toỏn tỡnh hỡnh tng, gim TSC vụ hỡnh
TSCĐ mua ngoài đƯ
a ngay
vào sửu dụng
TK 133
TK 111,112, 331
TK 213
TK 331
TK 242
(theo giá mua trả ngay)
TSCĐ mua trả chậm
TK 133
TSCĐVH hình thành
trong giai đoạn triển khai
TK 241
TK 411
TSCĐVH tăng do nhận
lại vốn góp liên doanh
TK 128, 222
TK 711
TK 811
TK 214
Giá trị hao mòn
Ngyuên giá của TSCĐ
thanh lý, nhƯ
ợng bán
TK 128, 222
thiếu trong kiểm kê
Ngyuên giá của TSCĐ
Giá trị hao mòn
TK 1381
TK 214
giá trị còn lại
TK 412
chƯa dõ nguyên nhân
Giá trị đƯ
ợc
đánh giá
Giá trị hao mòn
Giá trị còn lại
Thuế GTGT
đầu vào (nếu có)
TSCĐ gửi đi
góp vốn liên
doanh
Lãi trả chậm
phải trả
Số chênhSố chênh
lệch do
giảm
đánh giá
tăng
đánh giá
lệch do
TSCĐVH tăng do đƯợc
biếu, tặng, tài trợ
vốn góp, đƯ
ợc cấp vốn
TSCĐVH hình thành
Thuế GTGT
đầu vào (nếu có)
13
1.2 KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1 Vai trò của Kiểm toán khoản mục TSCĐ trong kiểm toán Báo cáo
tài chính.
Mục tiêu của Kiểm toán Báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý kiến về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài chính được phản ánh trên
hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
TSCĐ lại là một khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính do chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp đặc biệt trong những doanh
nghiệp sản xuất, TSCĐ phản ánh nguồn lực cho sản xuất kinh doanh của đơn vị
mặt khác chi phí khấu hao TSCĐ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tổng chi phí sản
xuất kinh doanh trong kỳ qua đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh
và nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đối với nhà nước.
Tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với qui mô lớn, giá trị của
TSCĐ lớn, số lượng và chủng loại phong phú, công tác quản lý TSCĐ trở nên
rất phức tạp và khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu quản lý tài chính đòi hỏi xác
định chính xác chi phí cấu thành nguyên giá TSCĐ, chi phí sửa chữa, khấu hao
TSCĐ, đánh giá tính kinh tế của việc mua sắm đầu tư TSCĐ…
Vì vậy kiểm toán khoản mục TSCĐ thường chiểm tỉ lệ quan trọng trong
kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán khoản mục TSCĐ không chỉ nhằm mục
đích phát hiện ra các sai sót gian lận tài chính liên quan đến các nghiệp vụ
TSCĐ mà còn nhằm mục đích nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý TSCĐ.
1.2.2 Các sai phạm liên quan đến TSCĐ
Đối với khoản mục TSCĐ nói riêng và toàn bộ báo cáo tài chính nói
chung luôn chứa đựng nhiều sai phạm tiềm tàng dẫn đến việc phản ánh sai lệch
các thông tin tài chính của đơn vị, trong thực tế liên quan đến khoản mục TSCĐ
có rất nhiều loại sai phạm có thể xảy ra trong đó có một số hình thức phổ biến
sau:
14
Nhầm lẫn khi hạch toán TSCĐ vô hình và TSCĐ hữu hình: trong nhiều
trường hợp dây truyền công nghệ vừa bao gồm cả TSCĐ cố định là máy móc
thiết bị vừa bao gồm TSCĐ vô hình là bản quyền công nghệ nhưng kế toán hạch
toán toàn bộ giá trị của dây truyền vào TSCĐ hữu hình.
Hạch toán tăng TSCĐ nhưng không hạch toán bút toán kết chuyển nguồn
hình thành TSCĐ.
Nhầm lẫn khi hạch toán vào các tiểu khoản, trong một số trường hợp do
không có sự phân định rõ ràng về mục đích sử dụng TSCĐ nên kế toán viên có
thể hạch toán sai vào các tài khoản chi tiết như: hạch toán thiết bị dụng cụ quản
lý vào tài khoản: “Máy móc, thiết bị”
Sai sót mang tính cơ học như: viết sai, viết lộn số trong quá trình chuyển
sổ.
Do công tác tổ chức phân công nhiệm vụ không rõ ràng dẫn đến trường
hợp một nghiệp vụ bị ghi chép trùng lắp như một nghiệp vụ thanh lý TSCĐ vừa
được ghi vào sổ Nhật ký chung vừa ghi vào sổ Nhật ký thu tiền.
Có một số trường hợp do hiểu sai bản chất nghiệp vụ nên dẫn đến việc
hạch toán sai đặc biệt trong trường hợp sửa chữa TSCĐ, kế toán hạch toán chi
phí sửa chữa nhỏ TSCĐ vào nguyên giá TSCĐ trong khi chi phí này phải được
hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ. Bút toán này sẽ
làm tăng nguyên giá TSCĐ trên bản cân đối kế toán và làm giảm chi phí sản
xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận trên báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tại một số đơn vị do kế toán không nắm vững chế độ kế toán nên dẫn đến
việc áp dụng sai các qui định hiện hành như: áp dụng không nhất quán phương
pháp tính khấu hao, hạch toán tài sản thuê hoạt động vào tài sản cố định thuê tài
chính.
Trong thực tế nguyên nhân dẫn đến các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ bị
phản ánh sai lệch không chỉ do vô ý mà còn rất nhiều trường hợp do người hạch
toán cố tình nhằm nhiều mục đích khác nhau. Xét về khía cạnh bản chất nghiệp
vụ các sai phạm do cố ý luôn có tính chất trọng yếu, các gian lận thường có sự
15
giàn xếp kĩ lưỡng do đó kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán khoản mục
TSCĐ cần đặc biệt chú ý. Một số gian lận thường xảy ra trong thực tế như:
Ghi chép các nghiệp vụ không có thật liên quan đến TSCĐ, khả năng này
đặc biệt dễ xảy ra trong trường hợp các TSCĐ hữu hình hình thành từ hoạt động
nghiên cứu triển khai, do các loại TSCĐ này thưòng mang đặc thù riêng và việc
đánh giá giá trị gặp nhiểu khó khăn nên các chi phí bị ghi khống nhằm mục đích
biển thủ công quĩ.
Các hành vi gian lận nhằm tham ô chiếm đoạt giá trị chênh lệch giữa hoá
đơn chứng từ và thực tế phát sinh như: ghi tăng nguyên giá TSCĐ bằng cách
làm giả hoá đơn khi mua sắm, ghi giảm giá trị khi thanh lý bằng cách thông
đồng với bên thứ ba.
Biển thủ công quĩ bằng cách cố tình không ghi nhận giá trị còn lại của
TSCĐ khi thanh lý.
Cố tình áp dụng sai chế độ kế toán như áp dụng tỷ lệ khấu hao nhanh hơn
qui định, trích khấu hao đối với những TSCĐ đã khấu hao hết nhằm mục đích
tăng chi phí phát sinh giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước,
ghi tăng nguyên giá TSCĐ chưa đưa vào sử dụng.
Nắm bắt được tầm quan trọng của TSCĐ trong báo cáo tài chính và các
sai phạm tiềm tàng có thể xảy ra liên quan đến TSCĐ sẽ giúp kiểm toán viên có
định hướng tốt trong quá trình kiểm toán, tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm
toán nhờ việc xây dựng chương trình và thiết kế các thủ tục kiểm toán hợp lý,
khoa học.
1.3 QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.3.1 Mục tiêu kiểm toán khoản mục TSCĐ
Với tư cách là một hoạt động nghề nghiệp độc lập có chức năng “xác
minh và bày tỏ ý kiến”, hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính cũng hướng tới
những mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong quá trình thực hiện.
16
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200: “Mục tiêu của kiểm toán
báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến
xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không? Mục tiêu
của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ
những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính
của đơn vị.”
Hệ thống mục tiêu kiểm toán được xây dựng chi tiết và cụ thể cho từng
khoản mục trên báo cáo tài chính trong đó có TSCĐ.
Các mục tiêu kiểm toán khoản mục TSCĐ được thể hiện trong bảng sau:
17
Bảng 1.1: Các mục tiêu kiểm toán khoản mục TSCĐ
STT
Mục tiêu kiểm
toán chung
Mục tiêu kiểm toán đối với TSCĐ
1
Tính hợp lý
chung
Các nghiệp vụ tăng, giảm, khấu hao TSCĐ đều được ghi
chép hợp lý
2
Tính hiện hữu và
có thật
Các TSCĐ được ghi chép đều có thật
Các nghiệp vụ tăng giảm TSCĐ được ghi chép đều phát
sinh trong thực tế
3 Tính đầy đủ
Các nghiệp vụ và số tiền phát sinh liên quan đến TSCĐ đều
được hạch toán đầy đủ
4
Quyền và nghĩa
vụ
Các TSCĐ được phản ánh trên bảng cân đối kế toán đều
thuộc quyến sở hữu của đơn vị hoặc đơn vị có quyền kiểm
soát lâu dài.
5
Tính định giá và
phân bổ
Nguyên giá và giá trị còn lại được đánh giá đúng theo chế
độ kế toán hiện hành
Khấu hao TSCĐ được tính toán đúng và nhất quán giữa các
kỳ và phân bổ hợp lý vào các chi phí sản xuất kinh doanh
trong kỳ phù hợp với qui định hiện hành
6
Tính chính xác
cơ học
Đảm bảo sự chính xác tuyệt đối của các con số trong quá
trình cộng sổ và chuyển sổ;
Các số liệu trên số dư tài khoản, trên sổ Chi tiết, sổ Cái và
bảng cân đối phải khớp đúng
7
Trình bày và
công bố
Các loại TSCĐ phải được phân loại chính xác vào từng tiểu
khoản trên báo cáo tài chính
1.3.2 Quy trình kiểm toán TSCĐ trong kiểm toán tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là một quá trình mang tính hệ thống nhằm
thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán có hiệu lực và thực hiện chức năng
“xác minh và bày tỏ ý kiến”, để đạt được mục tiêu đó các cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính thường được thực hiện theo trình tự bao gồm 3 giai đoạn: giai đoạn
chuẩn bị kiểm toán, giai đoạn thực hiện và giai đoạn kết thúc kiểm toán.
18
Kiểm toán khoản mục TSCĐ cũng như các khoản mục khác trên bảng cân
đối kế toán tuân thủ theo qui trình chung của mọi cuộc kiểm toán báo cáo tài
chính bao gồm ba giai đoạn như trên, trong đó nội dung khái quát cần thực hiện
ở từng giai đoạn được trình bày như sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.5: Quy trình chung của kiểm toán khoản mục TSCĐ
Giai đoạn I
Chuẩn bị kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán
Thiết kế chương trình kiểm toán
Giai đoạn II
Thực hiện kiểm toán
Thực hiện các thử nghiệm tuân thủ
Thực hiện các thử nghiệm cơ bản
Giai đoạn III
Kết thúc kiểm toán
Hoàn thành kiểm toán
Công bố báo cáo kiểm toán
1.3.2.1 Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán:
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên đóng vai trò quyết định tới
chất lượng của cuộc kiểm toán, chuẩn mực đầu tiên trong “mười chuẩn mực
kiểm toán được chấp nhận rộng rãi” có nêu rõ: “phải lập kế hoạch chu đáo cho
công việc kiểm toán”
Lập kế hoach kiểm toán một cách kỹ lưỡng là điều kiện cho phép kiểm
toán viên thu thập được đầy đủ bằng chứng có hiệu lực, giảm được chi phí kiểm
19
toán và giảm thiểu những bất đồng với khách thể kiểm toán trong quá trình tiến
hành công việc.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300 có quy định: “Kế hoạch kiểm
toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát được hết các
khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, đảm bảơ phát hiện những vấn đề tiềm
ẩn và theo đó cuộc kiểm toán hoàn thành đúng hạn”.
Để lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần thực hiện những bước
công việc sau:
Thu thập thông tin cơ sở: sự hiểu biết toàn diện về tình hình kinh doanh,
lĩnh vực hoạt động của khách hàng là rất cần thiết để thực hiện một cuộc kiểm
toán có hiệu quả. Dựa trên những hiểu biết thu thập được kiểm toán viên có thể
nhận diện được các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra, xác định trọng tâm của cuộc
kiểm toán. Đây cũng là nội dung của Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 310:
“Hiểu biết về tình hình kinh doanh”.
Riêng đối với khoản mục TSCĐ, những hiểu biết về tình hình hoạt động,
lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của đơn vị được kiểm toán sẽ cho phép kiểm
toán viên xác định được mức độ trọng yếu của khoản mục TSCĐ đối với báo
cáo tài chính thông qua tỉ trọng hợp lý của khoản mục TSCĐ trên tổng tài sản
của đơn vị, xác định những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra đối với các nghiệp vụ
có thể liên quan đến TSCĐ thông qua việc thăm quan nhà xưởng, tìm hiểu vể cơ
cấu tổ chức, quản lý TSCĐ, việc phân công phân nhiệm trong đơn vị để thực
hiện các nghiệp vụ về TSCĐ. Kiểm toán viên cũng có thể tìm hiểu và đưa ra
được mức độ hợp lý đối với hoạt động đầu tư, mua sắm và thanh lý TSCĐ hàng
năm của đơn vị.
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng: mọi thực thể
kinh doanh đều có mối quan hệ với rất nhiều cá nhân tổ chức khác, các mối quan
hệ này có ảnh hưỏng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh do bị ràng
buộc bởi các trách nhiệm và quyền lợi pháp lý phát sinh.
Trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán
khoản mục TSCĐ nói riêng, kiểm toán viên cần nắm bắt được các trách nhiệm
20
pháp lý mà đơn vị được kiểm toán có liên quan, trong nhiều trường hợp các đơn
vị có thể tham gia vào các hoạt động liên doanh liên kết đầu tư bằng TSCĐ hữu
hình hay vô hình, các hoạt động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khoản mục
TSCĐ của đơn vị.
Thực hiện các thủ tục phân tích:
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích:
"Kiểm toán viên phải áp dụng quy trình phân tích quá trình lập kế hoạch kiểm
toán để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị và xác định những vùng có thể
có rủi ro.”
Đối với khoản mục TSCĐ kiểm toán viên có thể áp dụng thủ tục phân tích
để tính toán các tỉ suất liên quan đến TSCĐ như: tỷ suất tự tài trợ hay tỷ suất đầu
tư tài sản. Thủ tục phân tích cũng có thể được áp dụng để so sánh mức đầu tư ,
mua mới thanh lý TSCĐ qua các năm, so sánh số liệu của đơn vị với các doanh
nghiệp khác trong cùng lĩnh vực và có cùng qui mô sản xuất.
Việc áp dụng thủ tục phân tích đối với kiểm toán khoản mục TSCĐ sẽ
giúp giảm thiểu các kiểm tra chi tiết, giúp kiểm toán viên có được cái nhìn toàn
diện hơn về các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ trong đơn vị kiểm toán.
Sau khi thu thập được thông tin cơ sở về tình hình, lĩnh vực kinh doanh
của đơn vị kiểm toán viên có thể dựa trên những hiểu biết đó để tiến hành các
bước đánh giá về tính trọng yếu và xác định rủi ro kiểm toán mong muốn.
Đánh giá tính trọng yếu: trọng yếu là một khái niệm chỉ tầm cỡ và tính
hệ trọng của các sai phạm, bao gồm cả sai sót và gian lận. Mọi nội dung được
trình bày trên báo cáo tài chính đều được xem xét trên khía cạnh trọng yếu do
vậy việc xác định mức độ trọng yếu đối với từng khoản mục trên báo cáo tài
chính là một yêu cầu bắt buộc để thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo tài
chính. Bản chất của việc đánh giá và phân bổ mức độ trọng yếu cho các khoản
mục TSCĐ và các khoản mục khác là việc kiểm toán viên dựa trên các thông tin
thu thập được và khả năng xét đoán nghề nghiệp để lượng hoá bằng đơn vị tiền
tệ mức độ nghiêm trọng của một sai phạm xảy ra. Do vậy trong những trường
21
hợp cụ thể khác nhau, mức độ trọng yếu của khoản mục TSCĐ rất khác nhau tuỳ
thuộc vào nhận định và hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị được kiểm toán.
Đánh giá rủi ro: rủi ro kiểm toán là khái niệm luôn đi kèm trong mọi
cuộc kiểm toán báo cáo tài chính bởi xét dưới góc độ kinh tế kiểm toán viên
không thể chắc chắn tuyệt đối báo cáo tài chính đã được kiểm toán không còn
chứa đựng những sai sót trọng yếu. Do vậy trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán kiểm toán viên phải xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn trên cơ
sở hai yếu tố: mức độ người sử dụng tin tưởng vào báo cáo tài chính và khả
năng khách hàng gặp phải những khó khăn tài chính sau khi báo cáo kiểm toan
được công bố.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do công ty kiểm toán và kiểm toán viên
đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán
còn có những sai sót trọng yếu”. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận rủi ro
tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán kiểm toán viên phải tiến hành đánh giá rủi ro tiềm tàng và đưa ra
những đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.
Đánh giá rủi ro tiềm tàng: theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400
– “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn
có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa
đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng hoặc khi tính gộp, mặc dù có hay không có
hệ thống kiểm soát nội bộ.”
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra với khoản mục TSCĐ kiểm
toán viên có thể dựa vào các yếu tố như: tính liêm chính của Ban giám đốc; bản
chất kinh doanh của khách hàng; kết quả các lần kiểm toán trước; số lượng và
qui mô của các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ; các nghiệp vụ không thường
xuyên đối với TSCĐ như nghiệp vụ trao đổi TSCĐ, thuê tài chính …;
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát: trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, kết hợp với việc đánh giá rủi ro kiếm soát đối với các khoản mục
khác kiểm toán viên sẽ tiến hành xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
22
hàng đối với TSCĐ trên hai khía cạnh là sự tồn tại của các thủ tục kiểm soát đối
với các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ và sự hoạt động liên tục, hữu hiệu của
các thủ tục đó.
Kiểm toán viên nhận diện các mục tiêu kiểm soát đối với TSCĐ, các thủ
tục được thiết kế để đạt được mục tiêu đó và nhận diện các yếu kém của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra đối với
các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều cách thức để thu thập được những
thông tin trên như: phỏng vấn khách hàng, xem xét kiểm tra các sổ sách kế
toán…Dựa trên các thông tin thu thập được kiểm toán viên đưa ra đánh giá ban
đầu về rủi ro kiểm soát đối với khoản mục TSCĐ của đơn vị được kiểm toán.
Thiết kế chương trình kiểm toán: sau khi đã xác định được mức độ
trọng yếu, rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và đưa ra được nhận
định ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với khoản mục TSCĐ nói riêng và cả báo
cáo tài chính nói chung kiểm toán viên tiến hành thiết kế chương trình kiểm
toán.
Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về công việc kiểm toán
viên cần thực hiện bao gồm nội dung, phạm vi, qui mô của các thử nghiệm kiểm
toán.
Chương trình kiểm toán được thiết kế cho mục đích kiểm toán khoản mục
TSCĐ bao gồm ba bộ phận: thử nghiệm kiểm soát, kiểm tra chi tiết và thủ tục
phân tích.
Thiết kế được chương trình kiểm toán phù hợp là điều kiện để kiểm toán
viên thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán có hiệu lực, đảm bảo được
cuộc kiểm toán được thực hiện đúng thời gian có chi phí hợp lý.
23
1.3.2.2 Thực hiện kiểm toán
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành thực hiện
chương trình kiểm toán đã đề ra theo đúng kế hoạch. Bao gồm việc thực hiện
các thử nghiệm kiểm soát và các thử nghiệm cơ bản:
Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát: đối với TSCĐ, các thử nghiệm
kiểm soát thực hiện nhằm mục đích chứng minh sự hữu hiệu của hệ thông kiểm
soát nội bộ trong viêc ngăn chặn các sai phạm xảy ra đối với TSCĐ, như vậy các
thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện khi đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát đối với khoản mục là không cao.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 500- “Bằng chứng kiểm toán”:
“Thử nghiệm kiếm soát là việc kiểm tra để thu thập bằng chứng kiểm toán về sự
thiết kế và vận hành hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội
bộ”.
Kiểm toán viên sẽ căn cứ trên các mục tiêu kiểm soát để tiến hành các thử
nghiệm kiểm soát như trong bảng sau:
24
Bảng 1.2: Các thử nghiệm kiểm soát đối với TSCĐ
Các
mục
tiêu
KSNB
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu
Các thử nghiệm kiểm soát phổ
biến
Tính
hiệu
lực
- Sự tách biệt giữa bộ phận sử
dụng và bộ phận hạch toán TSCĐ
- Các nghiệp vụ mua, bán thanh
lý TSCĐ đều được chứng thực
bằng các văn bản hợp pháp, có sự
phối hợp của bên thứ ba: như ban
quản lý TSCĐ, ban kiểm kê
TSCĐ…
- Các chứng từ thanh lý, nhượng
bán TSCĐ được huỷ bỏ để tránh
tình trạng sử dụng lại và quá
trình này phải tuân theo một qui
trình đã qui định trước có sự
giám sát của bộ phận quản lý
- Quan sát sự phân công phân
nhiệm trong việc sử dụng, quản
lý và hạch toán TSCĐ tại đơn vị.
- Kiểm tra các hồ sơ chứng từ
kèm theo để chứng minh tính hợp
pháp, hợp lý hợp lệ các nghiệp vụ
về TSCĐ như: hợp đồng mua,
công văn uỷ quyền mua, biên bản
giao nhận TSCĐ, biên bản thanh
lý TSCĐ, công văn đề nghị
mua...
- Kiểm tra dấu hiệu của sự huỷ
bỏ
Tính
trọn
vẹn
- Tất cả các TSCĐ tồn tại trong
đơn vị phải được quản lý bằng
một bộ hồ sơ riêng, có mã tài sản
gắn kèm
- Thường xuyên có sự đối chiếu
giữa thực tế và sổ sách kế toán
- Kiểm tra dấu hiệu của việc đối
chiếu giữa sổ sách và thực tế tại
đơn vị
- Kiểm tra một mẫu các hoá đơn
được đánh số liên tục và đối
chiếu với TSCĐ hiện hữu thực tế
Quyền
và
nghĩa
vụ
- Trong mỗi hồ sơ TSCĐ phải
phân định rõ TSCĐ thuộc quyền
sở hữu của đơn vị và TSCĐ đi
thuê, đảm bảo những TSCĐ
không thuộc quyền sở hữư của
đơn vị được ghi chép ngoài bảng
cân đối kế toán
- Kiểm tra hồ sơ pháp lý của
TSCĐ và việc ghi nhận tương
ứng các TSCĐ trong sổ sách
25