Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn DCPA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.13 KB, 127 trang )

Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên đường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Để khẳng định vị thế kinh tế của mình cũng như tạo niềm tin
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, Việt Nam đang cố gắng để ngày càng
hoàn thiện thể chế kinh tế. Một trong những yêu cầu quản lý nền kinh tế là đòi
hỏi minh bạch hoá tình hình tài chính. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngành kiểm
toán tại Việt Nam đang phát triển hết sức mạnh mẽ không chỉ về quy mô mà
cả loại hình dịch vụ cung cấp. Cũng xuất phát từ hội nhập kinh tế với sự cạnh
tranh của các công ty kiểm toán lớn và có uy tín trên thế giới, các công ty
kiểm toán Việt Nam đang phải nỗ lực hết sức để nâng cao chất lượng cuộc
kiểm toán, đáp ứng được yêu cầu chung trên thế giới.
Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA là một công ty ra đời muộn.
Tuy nhiên nếu nhìn vào sự gia tăng số lượng khách hàng của DCPA trong
những năm qua, có thể thấy DCPA đang tạo được uy tín, gây dựng được niềm
tin với khách hàng. Đó là nhờ sự chú trọng của ban lãnh đạo công ty vào vấn
đề nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán. Một cuộc kiểm toán chất lượng cao
phải được thực hiện tốt ngay từ giai đoạn đầu tiên, đặc biệt là trong những
giai đoạn đòi hỏi sự xét đoán của kiểm toán viên như giai đoạn đánh giá trọng
yếu và rủi ro.
Xuất phát từ tầm quan trọng, tính chất phức tạp của công việc đánh giá
trọng yếu và rủi ro, góp phần hoàn thiện kiến thức của bản thân, trong luận
văn tốt nghiệp này, em xin trình bày những hiểu biết của mình về “quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty
TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA”. Luận văn tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I : Lý luận chung về đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán báo
cáo tài chính
1
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Phần II: Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro, trọng yếu tại công ty
TNHH kiểm toán và tư vấn DCPA.


Phần III: Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro, trọng yếu trong kiểm toán
báo cáo tài chính tại công ty DCPA.
2
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU,
RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1. Vị trí của đánh giá trọng yếu, rủi ro trong quy trình kiểm toán báo
cáo tài chính
Mỗi công ty kiểm toán có quy định riêng về quy trình kiểm toán để đảm
bảo thực hiện được mục tiêu riêng của công ty. Tuy nhiên, tất cả đều cần đảm
bảo mục tiêu chung là một cuộc kiểm toán chất lượng cao, do đó, một cuộc
kiểm toán nói chung tuân theo trình từ gồm 3 bước chính như sau:
Sơ đồ 1.1: Trình tự kiểm toán tài chính
Thông thường, trọng yếu và rủi ro được coi là bước công việc cần thiết
để kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán, thiết kế chương trình kiểm toán
trong bước chuẩn bị kiểm toán. Trên thực tế, đánh giá trọng yếu, rủi ro được
Bước 1
Chuẩn bị kiểm toán
Bước 2
Thực hiện công việc
kiểm toán
Bước 3
Kết thúc công việc
kiểm toán
3
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
thực hiện trong suốt cuộc kiểm toán, cả ở bước chuẩn bị kiểm toán và thực
hiện kiểm toán. Cụ thể như sau:

1.1.1.1. Đánh giá trọng yếu, rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán bao gồm những bươc công việc theo trình
tự sau:

Sơ đồ 1.2: Trình tự công việc chuẩn bị kiểm toán
Đánh giá trọng yếu, rủi ro là một bước trung gian trong chuẩn bị kiểm
toán. Có thể nói mục đích của công việc chuẩn bị kiểm toán là lập kế hoạch
kiểm toán, thiết kế chương trình kiểm toán. Để thiết kế chương trình kiểm
toán phù hợp, kiểm toán viên cần tiến hành đánh giá rủi ro, xác định mức
trọng yếu đối với từng khách hàng cụ thể. Các bước công việc như chuẩn bị
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý
của khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện và thiết
kế chương trình kiểm toán
4
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
kế hoạch kế toán, thu thập thông tin cơ sở, thu thập thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng cũng nhằm cung cấp thông tin cho công việc đánh giá
trọng yếu, rủi ro.
1.1.1.2. Đánh giá trọng yếu, rủi ro trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Giai đoạn thực hiện kiểm toán bao gồm các thủ tục kiểm toán cụ thể như
sau:
- Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
- Thực hiện thủ tục phân tích
- Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết.
Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán trên, kiểm toán viên sẽ hiểu rõ hơn
về khách hàng, những hiểu biết đó có thể khác với những đánh giá ban đầu

của kiểm toán viên trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Khi đó, kiểm toán
viên cần tiến hành đánh giá lại trọng yếu, rủi ro kiểm toán để thay đổi chương
trình kiểm toán cho phù hợp. Như vậy, đánh giá trọng yếu, rủi ro có thể được
thực hiện bất kỳ lúc nào trong giai đoạn thực hiện kiểm toán nếu kiểm toán
viên xét thấy cần thiết.
1.1.2. Vai trò của đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài
chính
Kiểm toán viên đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán nhằm lập kế
hoạch kiểm toán, thiết kế chưong trình kiểm toán. Để thấy được vai trò của
quy trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong một cuộc kiểm toán, trước hết cần
thấy được vai trò của giai đoạn lập kế hoạch, thiết kế chương trình kiểm toán
trong cuộc kiểm toán đó. Trong một cuộc kiểm toán, kiểm toán viên buộc
phải lập kế hoạch kiểm toán nhằm:
- Giúp kiểm toán viên thu thập được bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có
giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các báo cáo tài chính, hạn
chế sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và
giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng.
5
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Giúp kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối hợp
hiệu quả với các bộ phận có liên quan. Sự phối hợp hiệu quả đó là cơ sở để
kiểm toán viên tiến hành cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với
mức chi phí hợp lý, tăng cường sức cạnh tranh cho công ty kiểm toán, giữ uy
tín với khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Kế hoạch kiểm toán là căn cứ để công ty kiểm toán tránh bất đồng với
khách hàng
- Kế hoạch kiểm toán cũng là cơ sở để giám đốc kiểm toán soát xét, đánh
giá chất lượng công việc kiểm toán, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả của cuộc kiểm toán.
Kế hoạch kiểm toán lại được lập trên cơ sở đánh giá rủi ro, trọng yếu.

Dựa vào đánh giá rủi ro, trọng yếu, kiểm toán viên xác định được mức độ sai
sót có thể chấp nhận được đối với báo cáo tài chính, xác định được mức độ tin
cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên xác định
được bản chất, số lượng, thới gian các thử nghiệm kiểm toán cần thực hiện,
lập ra kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán phù hợp. Đây chỉ là
những vấn đề chung nhất khi nói về vai trò của đánh giá trọng yếu, rủi ro
trong một cuộc kiểm toán. Vai trò cụ thể hơn sẽ được trình bày ở những phần
sau khi phân tích cụ thể về trọng yếu và rủi ro trong một cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính.
1.2. LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
1.2.1. Khái niệm về rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính
Rủi ro là một trong những khái niệm cơ bản của kiểm toán tài chính.
Trong mỗi cuộc kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đối mặt với hai loại
rủi ro cơ bản: rủi ro kiểm toán và rủi ro nghề nghiệp.
6
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro
do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp
khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs) : “Rủi ro kiểm toán là rủi ro
kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính
còn có sai sót trọng yếu”
Vậy, rủi ro kiểm toán được hiểu là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến
không xác đáng về đối tượng được kiểm toán. Thông thường, đây là rủi ro
kiểm toán viên đưa ra ý kiến báo cáo tài chính trình bày trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu trong khi báo cáo đó vẫn chứa đựng những sai
phạm trọng yếu. Kiểm toán viên có thể kiểm soát được loại rủi ro này trong
mỗi cuộc kiểm toán bằng cách tìm hiểu kỹ về khách hàng và tiến hành những
thủ tục kiểm toán thích hợp.

Rủi ro kinh doanh là khả năng uy tín nghề nghiệp của kiểm toán viên và
công ty kiểm toán bị tổn hại do nhiều nguyên nhân như kiện tụng, đồn đại bất
lợi...có liên quan đến việc phát hành báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên
không trực tiếp kiểm soát được loại rủi ro này nhưng có thể làm giảm bớt rủi
ro thông qua việc tiến hành những cuộc kiểm toán có chất lượng cao.
Do rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác mà kiểm toán
viên thực hiện mỗi cuộc kiểm toán không trực tiếp kiểm soát hết được nên
loại rủi ro được đề cập trong khoá luận tốt nghiệp này chỉ là rủi ro kiểm toan,
tức là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về báo cáo tài
chính của khách hàng. Rủi ro kiểm toán là căn cứ quan trọng để kiểm toán
viên xác định mức trọng yếu, xác định phạm vi các thử nghiệm kiểm toán cần
được tiến hành.
1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
7
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Có 3 loại rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro
phát hiện. Cả 3 loại rủi ro này đều được sử dụng trong quy trình đánh giá rủi
ro để có được mức rủi ro kiểm toán mong muốn
1.2.2.1. Rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR)
1.2.2.1.1. Khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn
Rủi ro kiểm toán mong muốn là mức độ rủi ro mà tại đó kiểm toán viên
chấp nhận báo cáo tài chính vẫn còn sai sót trọng yếu sau khi báo cáo kiểm
toán hoàn thành để đi đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Về mặt lý thuyết, rủi
ro kiểm toán mong muốn được ước tính theo tỷ lệ từ 0% đến 100%. Mức rủi
ro kiểm toán mong muốn càng thấp, càng thể hiện mức độ chắc chắn của
kiểm toán viên với ý kiến chấp nhận toàn phần. Mức 100% thể hiện kiểm toán
viên hoàn toàn không chắc chắn báo cáo tài chính không có sai phạm trọng
yếu. Mức 0% thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn chắc chắn báo cáo tài chính
không chứa đựng sai phạm trọng yếu. Mức rủi ro kiểm toán mong muốn bằng
0 rất hiếm khi xảy ra do hạn chế về chi phí kiểm toán. Thông thường, mức rủi

ro kiểm toán mong muốn được xác định nhỏ hơn 1%.
1.2.2.1.2. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với toàn bộ báo cáo tài chính được
kiểm toán viên xác định căn cứ vào các yếu tố sau:
a) Số lượng người sử dụng thông tin tài chính
Số lượng người sử dụng thông tin trong báo cáo tài chính càng lớn, ảnh
hưỏng của sai sót trọng yếu không được phát hiện càng lớn, mức rủi ro kiểm
toán, do đó, phải càng thấp để tăng mức độ chính xác cho kết luận của kiểm
toán viên. Số lượng người sử dụng thông tin tài chính có thể được kiểm toán
viên ước lượng bằng các chỉ tiêu sau:
- Quy mô công ty khách hàng: Quy mô công ty khách hàng thể hiện ở
tổng tài sản, doanh thu, số lượng chi nhánh, mức độ rải rác của các chi nhánh.
8
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Có thể thấy với quy mô càng lớn, số người có liên quan đến công ty càng lớn,
do đó, số lượng người sử dụng báo cáo tài chính càng lớn.
- Phân phối quyền sở hữu: Những công ty sở hữu công cộng có ảnh
hưởng đến nhiều người hơn những công ty sở hữu tư nhận. Do đó, số lượng
người quan tâm đến thông tin tài chính của những công ty sở hữu công cộng
cũng nhiều hơn. -
- Tình hình công nợ , khả năng thanh toán của khách hàng: Công ty có
nhiều chủ nợ, khả năng thanh toán không tôt, số lượng chủ nợ quan tâm đến
báo cáo tài chính của công ty càng lớn.
- Khả năng tăng doanh thu, lợi nhuận của công ty: Khả năng tăng doanh
thu, lợi nhuận của công ty càng lớn, số lượng người muốn đầu tư vào công ty
càng lớn, quy mô của công ty cũng càng lớn. Do đó, số lượng người quan tâm
đến báo cáo tài chính của công ty càng lớn
- Số lượng nhân viên của công ty khách hàng: nhân viên của công ty
khách hàng là một trong những đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính của
công ty khách hàng. Mặt khác, mọi mặt hoạt động của công ty có ảnh hưởng

trực tiếp đến những nhân viên này. Do đó, số lượng nhân viên trong công ty
càng lớn, số lượng người sử dụng thông tin tài chính cũng càng lớn.
b) Khả năng khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán
được phát hành
Khả năng khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm
toán được phát hành càng lớn, ảnh hưởng từ ý kiến của kiểm toán viên đến
công ty càng lớn, do đó, mức rủi ro kiểm toán phải càng thấp để tăng mức độ
chính xác cho kết luận của kiểm toán càng lớn. Khả năng khách hàng gặp khó
khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được phát hành được kiểm toán
viên đánh giá căn cứ vào nhiều yếu tố. Chẳng hạn, công ty khách hàng bị lỗ
trong nhiều năm liên tiếp, khả năng thanh toán của khách hàng thấp, quy mô
vốn của khách hàng được mở rộng chủ yếu bằng các khoản vay nợ, năng lực
9
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
lãnh đạo của ban giám đốc công ty yếu kém..., khi đó khả năng khách hàng
gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được phát hành sẽ là lớn.
Bên cạnh đó, có thể thấy một số ngành nghề có khả năng gặp rủi ro lớn hơn
những ngành nghề khác, chẳng hạn như những công ty tín dụng.
Rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục trong báo cáo tài
chính được xác định căn cứ vào mức rủi ro kiểm toán được xác định cho toàn
bộ báo cáo tài chính. Thông thường, mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho
từng khoản mục bằng mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với toàn bộ báo
cáo tài chính trừ một số trường hợp một số khoản mục có mức độ ảnh hưởng
đến người sử dụng thông tin tài chính lớn hơn các khoản mục khác.
1.2.2.2. Rủi ro tiềm tàng (IR)
1.2.2.2.1. Khái niệm rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng là khả năng báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng
yếu chưa kể đến sự tác động của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào, kể cả hoạt
động của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, loại hình kinh

doanh của khách hàng, năng lực của nhân viên trong công ty khách hàng.
1.2.2.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
a) Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính
Để đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng đối với báo cáo tài chính của công
ty khách hàng, kiểm toán viên căn cứ vào các yếu tố sau:
a1) Đặc thù về quản lý của công ty khách hàng
Chất lượng quản lý càng cao, mức độ rủi ro tiềm tàng được đánh giá
càng thấp. Chất lượng quản lý được đánh giá dựa vào những tiêu chí sau:
- Các quyết định quản lý được thực hiện bởi một người hay một nhóm
người: Nếu công ty khác hàng bị chi phối bởi một cá nhân, mức độ xuất hiện
rủi ro trọng yếu trong báo cáo tài chính sẽ cao hơn trường hợp những quyết
định quản lý được thực hiện bởi một nhóm người. Có thể thấy nếu một cá
10
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
nhân riêng lẻ chi phối toàn bộ tổ chức, khả năng gian lận nhằm phục vụ cho
lợi ích cá nhân đó sẽ cao. Mặt khác, những quyết định quản lý được thực hiện
bởi một cá nhân chi phối toàn bộ tổ chức không được soát xét lại bởi những
thành viên khác, do đó, làm tăng khả năng xuất hiện những quyết định sai
lầm.
- Mức độ luân chuyển các nhà quản lý cấp cao: Nếu kiểm toán viên nhận
thấy các nhân sự quản lý cấp cao liên tục thay đổi, kiểm toán viên nên đặt ra
những nghi ngờ về tính liêm khiết cũng như năng lực của các nhà quản lý đo,
từ đó, đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Các nhà quản lý kỳ vọng quá mức vào một mức lợi nhuận cao: Nếu
kiểm toán viên nhận thấy nhà quản lý có động cơ mạnh mẽ để tìm kiếm một
mức lợi nhuận cao như để vay vốn ngân hàng, để chuẩn bị phát hành chứng
khoán; kiểm toán viên nên chú ý đến khả năng ghi nhận tăng doanh thu, giảm
chi phí, nên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Các nhà quản lý tỏ thái độ bất hợp tác, trốn tránh cam kết về trách
nhiệm của nhà quản lý đối với các thông tin trên báo cáo tài chính của khách

hàng: Nếu các nhà quản lý tỏ thái độ thiếu thiện chí, thiếu hợp tác với kiểm
toán viên, kiểm toán viên cần chú ý đến khả năng gian lận, thái độ làm việc
thiếu nghiệm túc của ban quản lý, nên đặt rủỉ ro tiềm tàng ở mức cao.
- Uy tín trong kinh doanh của các nhà quản lý thấp: Thông tin về uy tín
của các nhà quản lý có thể thu thập từ việc thẩm vấn các ngân hàng, các tổ
chức kinh doanh có liên quan. Nếu uy tín của nhà quản lý trong giới kinh
doanh được đánh giá càng thấp, kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro tiềm tàng ở
mức càng cao.
- Nhà quản lý tỏ sự nhiệt tình quá mức đối với công việc của kiểm toán
viên: Nếu các nhà quản lý tỏ ra quan tâm quá mức, nhiệt tình bất thường đối
với công việc của kiểm toán viên, kiểm toán viên nên đặt ra nghi ngờ về thái
độ này và đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
11
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Thường xuyên diễn ra tranh cãi giữa kiểm toán viên và nhà quản lý:
Mức độ thường xuyên này càng lớn, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng
càng cao.
a2) Đặc thù về hoạt động kinh doanh, ngành nghề kinh doanh của khách hàng
Đặc thù về hoạt động kinh doanh của khách hàng được xem xét dựa trên
các tiêu chí sau:
- Mức độ giám sát chặt chẽ các hoạt động trong công ty khách hàng:
Mức độ giám sát này càng lớn, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng càng
cao.
- Hoạt động kinh doanh của khách hàng tập trung hay phân chia rải rác:
loại hình hoạt động tập trung được đánh giá mức rủi ro tiềm tàng cao hơn so
với loại hình hoạt động phân chia rải rác. Chẳng hạn nếu công ty khách hàng
có nhiều chi nhánh, mức rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá cao hơn trường
hợp công ty khách hàng không có chi nhánh.
- Kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng nhạy cảm với các nhân
tố kinh tế bên ngoài: Mức độ chi phối của các nhân tố kinh tế bên ngoài như

thay đổi tỷ giá, thay đổi chính sách kinh tế có liên quan... đối với hoạt động
của công ty khách hàng càng cao, rủi ro tiềm tàng đối với báo cáo tài chính
của công ty khách hàng cũng được đánh giá càng cao.
- Khả năng sinh lợi của công ty có sự khác biệt lớn so với mức độ chung
của ngành: Mức độ khác biệt càng lớn, đánh giá của kiểm toán viên về mức
rủi ro tiềm tàng cũng càng lớn, kiểm toán viên cần tìm hiểu nguyên nhân của
sự khác biệt đó.
- Ngành nghề kinh doanh của khách hàng có rủi ro cao: Mức rủi ro
chung của ngành nghề kinh doanh càng cao, đánh giá của kiểm toán viên về
mức rủi ro tiềm tàng cũng càng cao.
12
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Tốc độ thay đổi chung của ngành nghề kinh doanh: Tốc độ thay đổi nói
chung của ngành nghề kinh doanh càng lớn, đánh giá của kiểm toán viên về
mức rủi ro tiềm tàng càng cao.
- Ngành nghề kinh doanh của khách hàng đang gặp những khó khăn
chung: Mức độ khó khăn này càng cao, đánh giá của kiểm toán viên về mức
độ rủi ro tiềm tàng càng cao.
- Kiểm toán viên có sự nghi ngờ về khả năng tiếp tục hoạt động trong
tương lai của công ty khách hàng: khả năng nghi ngờ càng lớn, đánh giá của
kiểm toán viên về mức độ rủi ro tiềm tàng càng cao.
a3) Đặc điểm của báo cáo tài chính
- Kết quả kiểm toán năm trước đối với báo cáo tài chính của khách hàng:
Nếu trong lần kiểm toán năm trước, kiểm toán viên phát hiện ra sai sót trọng
yếu đối với báo cáo tài chính của công ty khách hàng, kiểm toán viên sẽ đánh
giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
- Báo cáo tài chính chứa đựng nhiều nghiệp vụ phức tạp và nghiệp vụ bất
thường: Trong trưòng hợp này, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro tiềm tàng
cao hơn trường hợp báo cáo tài chính không chứa đựng các nghiệp vụ phức
tạp và nghiệp vụ bất thường.

- Báo cáo tài chính chứa đựng nhiều nghiệp vụ và số dư khó kiểm toán:
Trong trường hợp này, kiểm toán viên đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng cao.
- Nhân viên kế toán trong công ty thiếu kinh nghiệm và tinh thần trách
nhiệm: Khả năng, tư cách của nhân viên kế toán càng thấp, đánh giá của kiểm
toán viên về mức rủi ro tiềm tàng càng cao.
b) Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục trong báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục được đánh giá căn cứ vào:
- Quy mô của khoản mục: Khoản mục chiếm tỷ trọng càng lớn trong
tổng các khoản mục, đánh giá của kiểm toán viên về mức rủi ro tiềm tàng
càng cao.
13
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Mức độ thay đổi số dư khoản mục so với năm trước: Mức độ thay đổi
càng lớn, rủi ro tiềm tàng được đánh giá càng cao.
- Kết quả kiểm toán năm trước đối với khoản mục cụ thể: Nếu kết quả
kiểm toán năm trước phát hiện ra sai phạm trọng yếu đối với khoản mục cụ
thể, kiểm toán viên sẽ đánh giá rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục đó ở mức
cao.
- Khoản mục chứa đựng nhiều ước tính kế toán, nhiều nghiệp vụ phức
tạp và nghiệp vụ bất thường: Khoản mục càng chứa đựng nhiều ước tính kế
toán, nhiều nghiệp vụ phức tạp và nghiệp vụ bất thường, đánh giá của kiểm
toán viên về mức rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục đó càng cao.
- Thay đổi về chính sách kế toán của công ty liên quan đến từng khoản
mục cụ thể: Nếu công ty có thay đổi về chính sách kế toán liên quan đên
khoản mục cụ thể, kiểm toán viên sẽ đánh giá cao rủi ro tiềm tàng đối với
khoản mục đó.
- Bản chất của từng khoản mục cụ thể: Mỗi khoản mục khác nhau có khả
năng chứa đựng những sai phạm khác nhau. Chẳng hạn, khoản mục tiền
thường dễ bị ghi tăng để làm tăng khả năng thanh toán, khoản mục doanh thu
dễ bị ghi giảm để trốn thuế...

1.2.2.3. Rủi ro kiểm soát (CR)
1.2.2.3.1. Khái niệm rủi ro kiểm soát
Rủi ro kiểm soát là khả năng báo cáo tài chính chứa đựng sai phạm trọng
yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn ngừa được hết
những sai phạm đó.
Đánh giá rủi ro kiểm soát có vai trò rất lớn đối với việc lập kế hoạch
kiểm toán. Nếu kiểm toán viên quyết định đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức
cao nhất (100%) vì nhận thấy thủ tục kiểm soát trong công ty khách hàng
hoàn toàn không hiệu quả, kiểm toán viên không thể dựa vào hệ thống kiểm
soát nội bộ để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản. Khi đó, kiểm toán viên sẽ
14
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
thiết kế chương trình kiểm toán với một số lượng lớn thử nghiệm cơ bản để
làm giảm rủi ro kiểm toán xuống mức mong muốn. Ngược lại, nếu kiểm toán
viên quyết định đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hơn mức cao nhất vì
nhận thấy thủ tục kiểm soát trong công ty khách hàng có hiệu quả, kiểm toán
viên có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm bớt các thử nghiệm cơ
bản. Khi đó, kiểm toán viên sẽ thiết kế chương trình kiểm toán với một số
lượng lớn thử nghiệm kiểm soát để khẳng định lại mức độ hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ và một số lượng thử nghiệm cơ bản ít hơn so với
trường hợp rủi ro kiểm toán được đánh giá ở mức cao nhất.
1.2.2.3.2. Đánh giá rủi ro kiểm soát
Rủi ro được đánh giá căn cứ vào hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm
soát nội bộ. Hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động càng hiệu quả, rủi ro kiểm
soát được kiểm toán viên đánh giá càng thấp.
a) Đánh giá rủi ro kiểm soát cho toàn bộ báo cáo tài chính của công ty khách
hàng
Hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá chung cho toàn bộ báo cáo tài
chính dựa trên những tiêu chí sau:
a1) Môi trường kiểm soát

Các yếu tố cần xem xét khi đánh giá môi trường kiểm soát của công ty khách
hàng bao gồm:
- Tính liêm chính: Kiểm toán viên cần đánh giá tính liêm chính của
những người thiết lập, điều hành và giám sát các hoạt động kiểm soát trong
công ty. Tính liêm chính của những cá nhân đó được đánh giá càng cao, rủi ro
kiểm soát được đánh giá càng thấp.
- Năng lực lãnh đạo: Năng lực của các nhà quản lý được đánh giá càng
cao, rủi ro kiểm soát đối với báo cáo tài chính của công ty càng thấp.
- Hiệu quả hoạt động của ban kiểm soát: được đánh giá căn cứ vào
15
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
• Mức độ độc lập của ban kiểm soát: Ban kiểm soát càng độc lộc với
ban Giám đốc công ty, hiệu quả hoạt động được đánh giá càng
cao.
• Kinh nghiệm của các thành viên ban kiểm soát: Thành viên ban
kiểm soát càng có nhiều kinh nghiệm, hiệu quả hoạt động càng
được đánh giá cao.
• Phạm vi hoạt động của ban kiêm soát: Ban kiểm soát có phạm vi
hoạt động càng rộng, hiệu quả hoạt động được đánh giá càng cao.
• Hoạt động thực tế của ban kiểm soát: Được đánh giá trên cơ sở
quan sát của kiểm toán viên.
Hiệu quả hoạt động của ban kiểm soát được đánh giá càng cao, rủi ro
kiểm soát càng thấp.
- Quan điểm, phong cách làm việc của nhà quản lý: Quan điểm, phong
cách làm việc của nhà quản lý được thể hiện qua:
• Cách thức tiếp cận việc quản lý rủi ro.
• Thái độ của nhà quản lý đối với việc phát hành báo cáo tài chính
(thận trọng, dè dặt hay mạnh dạn trong việc lựa chọn các thủ tục
kế toán, ước tính kế toán).
• Thái độ của nhà quản lý trong việc xử lý thông tin.

Việc đánh giá tiêu chí này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán viên nhận thấy nhà quản lý có
quan điểm đúng đắn, phong cách làm việc chuyên nghiệp, kiểm toán viên sẽ
đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
- Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức của công ty khách hàng
được đánh giá càng cao, mức rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá
càng thấp.
16
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Phân chia trách nhiệm và quyền hạn: Việc phân chia trách nhiệm và
quyền hạn liên quan đến hệ thống cấp bậc trong doanh nghiệp. Hệ thống cấp
bậc càng hợp lý, mức rủi ro kiểm soát càng thấp.
- Chính sách nhân sự: chính sách nhân sự bao gồm cả chính sách tuyển
dụng và các chính sách liên quan đến người lao động trong doanh nghiệp.
Chất lượng của nguồn nhân lực sẽ quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt
động kiểm soát. Do vậy, chính sách nhân sự của công ty khách hàng được
đánh giá càng cao, mức rủi ro kiểm soát càng thấp.
a2) Hệ thống kế toán
Hệ thống kế toán là hệ thống thông tin liên quan đến mục tiêu báo cáo tài
chính của đơn vị, bao gồm: phương pháp thiết lập, ghi chép, xử lý, tóm tắt,
báo cáo các nghiệp vụ kinh tế của doanh nghiệp; giải trình những vấn đề liên
quan đến tài sản, công nợ. Một hệ thống kế toán có hiệu quả cần đảm bảo
được những yêu cầu sau:
- Xác định và ghi chép tất cả các nghiệp vụ hợp lệ.
- Ghi chép các nghiệp vụ kịp thời với đầy đủ các chi tiết phục vụ cho
việc phân loại các nghiệp vụ, lập báo cáo tài chính.
- Ghi chép các nghiệp vụ theo đúng đơn vị tiền tệ quy định
- Xác định đúng thời gian các nghiệp vụ diễn ra để ghi chép đúng kỳ kế
toán.
- Các nghiệp vụ và những vấn đề có liên quan phải được ghi lại trên báo

cáo tài chính.
Hiệu quả hoạt động của hệ thống kế toán càng cao, rủi ro kiểm soát đối
vơi báo cáo tài chính của công ty khách hàng càng thấp.
a3) Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát có hiệu quả phải đảm bảo các nguyên tắc: nguyên tắc
bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm, chế độ uỷ quyền và phê
17
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
chuẩn. Hiệu quả của các thủ tục kiểm soát được đánh giá càng cao, rủi ro
kiểm soát càng thấp.
- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: yêu cầu có sự cách ly hợp lý về trách
nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và
hành vi lạm dụng quyền hạn.
- Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: yêu cầu trách nhiệm và công việc
phải được phân công cho nhiều bộ phận và nhiều người trong bộ phận nhằm
chuyên môn hoá công việc, hạn chế sai sót.
- Chế độ uỷ quyền và phê chuẩn: yêu cầu các nghiệp vụ phải được phê
chuẩn đúng cấp có thẩm quyền. Theo sự uỷ quyền của nhà quản lý, các cấp
dưới được giao quyền quyết định và giải quyết một số công việc trong một
phạm vi nhất định.
a4) Bộ phận kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập trong đơn vị được thiết lập
nhằm tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu
quản trị nội bộ.
Khi đánh giá bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty khách hàng, kiểm
toán viên xem xét những vấn đề sau đây:
- Trong công ty có tồn tại bộ phận kiểm toán nội bộ hay không
- Bộ phận kiểm toán nội bộ có được trực thuộc cấp quản lý cao nhất của
công ty không: Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp quản lý càng cao,
phạm vi hoạt động càng ít bị giới hạn, càng độc lập với các phòng ban được

kiểm toán. Do đó, hiệu quả hoạt động càng cao.
- Nhân viên của bộ phận kiểm toán nội bộ có đáp ứng được yêu cầu về
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp hay không. Năng lực và đạo
đức của nhân viên bộ phận kiểm toán nội bộ được đánh giá càng cao, hiệu quả
hoạt động được đánh giá càng cao.
18
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Hiệu quả hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ được đánh giá càng
cao, rủi ro kiểm soát càng thấp.
b) Đánh giá rủi ro kiểm soát cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính của
công ty khách hàng
Đối với mỗi khoản mục khác nhau, kiểm toán viên sẽ có những yêu cầu
khác nhau về kiểm soát, tuy nhiên, các thủ tục kiểm soát đối với mỗi khoản
mục đều phải tuân thủ các nguyên tắc :
- Phân công, phân nhiệm
- Bất kiêm nhiệm
- Chế độ uỷ quyền và phê chuẩn.
Quy trình chung để đánh giá rủi ro kiểm soát trên từng khoản mục theo
trình tự sau:
Sơ đồ 1.3 Quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trên từng khoản mục
1.2.2.4. Rủi ro phát hiện
1.2.2.4.1. Khái niệm rủi ro phát hiện
Thu thập hiểu biết về hệ thống
kiểm soát nội bộ
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm
soát để lập kế hoạch kiểm toán cho
từng khoản mục
Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
Lập bảng đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ

19
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
Rủi ro phát hiện là khả năng các thử nghiệm cơ bản không phát hiện
được những sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính.Rủi ro phát hiện bao
gồm 2 loại: rủi ro chọn mẫu và rủi ro không do chọn mẫu.
Rủi ro chọn mẫu là khả năng kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác
đáng do mẫu được chọn không đại diện cho tổng thể. Kiểm toán viên không
kiểm soát được loại rủi ro này.
Rủi ro không do chọn mẫu là khả năng kiểm toán viên không phát hiện
được những sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính do các nguyên nhân
sau:
- Kiểm toán viên thực hiện sai các thủ tục kiểm toán
- Kiểm toán viên không nhận thức được sai phạm do hạn chế về trình độ
- Áp lực công việc quá lớn
...
Loại rủi ro kiểm toán này kiểm toán viên có thể kiểm soát được.
Rủi ro phát hiện được kiểm toán viên xác định là căn cứ để kiểm toán
viên lập kế hoạch kiểm toán, thiết kế chương trình kiểm toán.
1.2.2.4.2. Xác định rủi ro phát hiện
Đối với cả báo cáo tài chính và từng khoản mục trên báo cáo tài chinh,
rủi ro phát hiện đều được xác định trên cơ sở rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi
ro tiềm tàng và rủi ro phát hiện dựa vào mô hình rủi ro kiểm toán như sau:
DAR = IR x CR x DR
Trong đó:
DAR: rủi ro kiểm toán mong muốn
IR: rủi ro tiềm tàng
CR: rủi ro kiểm soát
DR: rủi ro phát hiện
Khi đó, rủi ro phát hiện được xác định bằng công thức:
20

Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
DR =
CR x IR
DAR
Trên cơ sở công thức trên, một số công ty kiểm toán đưa ra ma trận về
việc xác định rủi ro phát hiện trên cơ sở rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
như sau:
Bảng 1.1. Ma trận xác định rủi ro phát hiện
Đánh giá về CR
Cao Trung bình Thấp
Đánh
giá về
IR
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
1.2.2.5. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán
Trước hêt, xét đến mối quan hệ giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Mặc dù rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được xem là hai loại rủi ro riêng
biệt nhưng trong đa số các cuộc kiểm toán, những nhân tố làm tăng hay giảm
rủi ro tiềm tàng thì cũng làm tăng hay giảm rủi ro kiểm soát tương ứng.
Chẳng hạn tính liêm chính của ban Giám đốc công ty nếu được đánh giá
không tốt sẽ làm tăng cả rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Nhìn vào mô hình rủi ro kiểm toán có thể thấy, với mức rủi ro kiểm toán
mong muốn đã được xác định, ba loại rủi ro còn lại: rủi ro tiềm tàng, rủi ro
phát hiện, rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch, tức là loại rủi ro này
càng cao thì loại rủi ro kia càng thấp và ngược lại. Trên thực tế, rủi ro phát
hiện được xác định trên cơ sở rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao, mức độ rủi ro phát hiện cần
thiết càng thấp, do đó, các thử nghiệm cơ bản càng cần được thực hiện với số

lượng lớn trên phạm vi rộng để đảm bảo rủi ro kiểm toán mong muốn thấp
như mong muốn.
1.3. LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
21
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
1.3.1. Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, trọng yếu là thuật ngữ để chỉ mức độ
quan trọng của một thông tin tài chính. Một thông tin được coi là trọng yếu
nếu thiếu thông tin hoặc thiếu tính chính xác của thông tin sẽ làm ảnh hưởng
đến quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính.
Trong kiểm toán tài chính, cần phân biệt hai khía cạnh: tính trọng yếu và
mức trọng yếu
Tính trọng yếu là khái niệm chỉ tính quan trọng của một thông tin tài
chính.
Mức trọng yếu là giới hạn mà theo đánh giá của kiểm toán viên nếu mức
độ sai phạm vượt quá giới hạn đó sẽ làm ảnh hưởng đến quyết định của người
sử dụng báo cáo tài chính.
Do hạn chế về chi phí kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán
cần lựa chọn những thủ tục kiểm toán đảm bảo hợp lý yêu cầu của người sử
dụng, trọng yếu là căn cứ quan trọng trong một cuộc kiểm toán để kiểm toán
viên lập kế hoạch kiểm toán, thiết kế chương trình kiểm toán.
1.3.2. Cơ sở đánh giá trọng yếu trong báo cáo tài chính
Đánh giá một khoản mục là trọng yếu hay không cần căn cứ vào cả yếu
tố định tính và định lượng của khoản mục đó
1.3.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố định lượng đối với việc đánh giá tính trọng
yếu của khoản mục
Yếu tố định lượng nhằm chỉ quy mô của khoản mục được coi là trọng
yếu, tức là quy mô của khoản mục có thể ảnh hưởng đến quyết định của người
sử dụng báo cáo tài chính. Những vấn đề liên quan đến quy mô mà kiểm toán

viên cần xem xet bao gồm:
a) Sử dụng quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối để đánh giá tính trọng yếu
Quy mô tuyệt đối là con số thể hiện mức quan trọng mà không cần cân
nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Quy mô tuyệt đối rất ít khi được kiểm
22
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
toán viên sử dụng vì không phù hợp với những công ty khác nhau. Chẳng
hạn, mức 1.000.000 VND trong tổng tài sản 200.000.000.000 VND được coi
là không trọng yếu nhưng con số đó trong tổng tài sản 20.000.000 VND lại
được coi là trọng yếu.
Thông thường, kiểm toán sử dụng quy mô tương đối để đánh giá tính
trọng yếu. Quy mô tương đối thể hiện mối tương quan giữa đối tượng cần
đánh giá với một số gốc được lựa chọn. Số gốc được lựa chọn có thể rất khác
nhau trong những trường hợp khác nhau, đó có thể là tổng tài sản, tổng doanh
thu, tổng tài sản ngắn hạn, tổng tài sản cố định... tuỳ thuộc đánh giá của kiểm
toán viên.
b) Cộng dồn các sai phạm
Khi xem xét tính trọng yếu của một khoản mục, cần cân nhắc ảnh hưởng
của một hệ thống các sai phạm. Chẳng hạn nhiều sai phạm khi xét riêng rẽ thì
không trọng yếu nhưng nếu cộng dồn những sai phạm đó sẽ phát hiện thấy
tính hệ thống của sai phạm và phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
1.3.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố định tính đối với việc đánh giá tính trọng yếu
Yếu tố định tính cần được xem xét là bản chất của khoản mục hoặc vấn
đề cần xem xét. Những nghiệp vụ, khoản mục cần được xem là trọng yếu
gồm:
a) Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc dễ xảy ra gian lận
Bao gồm:
- Những khoản mục nghiệp vụ bất hợp pháp: những khoản mục , nghiệp
vụ bất hợp pháp được coi là trọng yếu dù có quy mô nhỏ.
- Những khoản mục, nghiệp vụ bất thường: những khoản mục, nghiệp vụ

bất thường ít được sự quan tâm của hệ thống kiểm soát
- Những khoản mục, nghiệp vụ cố ý bỏ sót: những khoản mục cố ý bỏ sót
được cói là gian lận, do đó, được coi là trọng yếu dù có quy mô nhỏ.
23
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
- Những khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt: những nghiệp vụ
liên quan đến tiền là những nghiệp vụ dễ xảy ra gian lận, do đó, thường được
coi là trọng yếu.
- Những khoản mục, nghiệp vụ có sửa chữa: những khoản mục được sửa
chữa dễ chứa đựng gian lận.
- Những khoản mục, nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán: những
nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán dễ xảy ra sai phạm phản ánh không
đúng kỳ, không chỉ ảnh hưởng đến kỳ này mà còn ảnh hưởng đến kỳ sau.
- Những khoản mục, nghiệp vụ phân chia quyền lợi: những nghiệp vụ
liên quan đến quyền lợi thường dễ xảy ra gian lận
...
b) Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
Bao gồm:
- Các khoản mục, nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán: những nghiệp
vụ vi phạm nguyên tắc kế toán được coi là sai sót hệ trọng, do đó, được coi là
trọng yếu ngay cả trong trường hợp quy mô nhỏ
- Những sai sót lặp lại nhiều lần: nếu những sai sót lặp đi lặp lại nhiều
lần, kiểm toán viên cần cân nhắc khả năng xảy ra gian lân, do đó, được coi là
trọng yếu.
- Những khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau:
Những nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiệm trọng đến kỳ sau luôn được coi là
trọng yếu
- Các khoản mục, nghiệp vụ gây ảnh hưởng liên quan đến nhiều khoản
mục, nghiệp vụ khác: những khoản mục có thể có quy mô nhỏ nhưng gây ảnh
hưởng liên đới tới nhiều khoản mục khác thì tổng hợp sai phạm có thể là

trọng yêu.
- Các khoản mục, nghiệp vụ có chênh lệch lớn với các kỳ trước hoặc với
các nguồn thông tin liên quan.
24
Đại học kinh tế quốc dân Khóa luận tốt nghiệp
1.3.3. Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính gồm 3
bước cơ bản như sau:
Sơ đồ 1.4. Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.3.3.1. Thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Kiểm toán viên cần thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu trong
bước chuẩn bị kiểm toán. Ước lượng ban đầu này cần được xác định bằng số
lượng cụ thể. Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu là số lượng mà tại đó
kiểm toán viên tin rằng sai sót nếu có không làm ảnh hưởng đến quyết định
của người sử dụng báo cáo tài chính.
Như đã nói trong phần cơ sở đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo
tài chính, quy mô tương đối rất ít khi được sử dụng trong đánh giá tính trọng
yếu. Thông thường, kiểm toán viên sẽ thiết lập một số gốc, trên cơ sở số gốc
đó để ước lượng mức trọng yếu. Số gốc được sử dụng thông thường là tổng
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Thiết lập ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho từng
khoản mục
Tổng hợp sai phạm
Bước 4
So sánh sai phạm đã tổng hợp với ước lượng ban
đầu về trọng yếu
25

×