Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Trật khớp khuỷu có thể gây tàn tật pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.93 KB, 5 trang )

Trật khớp khuỷu có thể gây
tàn tật

Trật khớp khuỷu là một chấn thương hay gặp, là loại trật
khớp nhiều nhất ở trẻ em trên 5 tuổi. Tổn thương trật khớp có
khi còn kèm theo gãy xương phải phẫu thuật để điều trị. Có
những trường hợp trật khớp nặng làm mất khả năng vận động
của bệnh nhân.

Hình minh họa một kiểu nắn trật khớp khuỷu.
Ngã chống tay hoặc do chấn thương gây ra trật khớp khuỷu
Khớp khuỷu được cấu tạo bởi đầu dưới xương cánh tay và đầu trên
của xương trụ và xương quay: phần ngoài là lồi cầu tiếp nối với
chỏm quay tạo thành khớp cánh tay - quay; phần trong là ròng rọc
tiếp nối với hõm xích-ma lớn tạo thành khớp cánh tay - trụ. Xương
quay và xương trụ tiếp với nhau tạo thành khớp quay- trụ trên.
Gấp, duỗi là hai động tác quan trọng và duy nhất của khớp khuỷu;
còn sấp, ngửa là động tác của cẳng tay.
Trật khớp khuỷu là cả hai xương cẳng tay: hõm xích-ma lớn và
chỏm quay, trật ra khỏi đầu dưới xương cánh tay chỗ ròng dọc và
lồi cầu. Nguyên nhân gây trật khớp có thể do ngã chống tay, khuỷu
duỗi tối đa, cẳng tay ngửa hoặc chấn thương gián tiếp.
Làm sao biết bị trật khớp khuỷu?
Sau một chấn thương, bệnh nhân thấy đau vùng khuỷu, không gấp
hay duỗi được cẳng tay. Thông thường khi trật khớp khuỷu chúng
ta thấy cẳng tay bệnh nhân ở tư thế gấp chừng 45 độ, cẳng tay
trông như ngắn lại, trái lại cánh tay trông như dài ra. Sờ nắn nhẹ
nhàng trước nếp khuỷu thấy bờ xương tròn của đầu dưới xương
cánh tay. Sờ phía sau thấy mỏm khuỷu nhô ra sau, gân cơ tam đầu
cánh tay căng cứng, gấp khuỷu nhẹ, thả ra có dấu hiệu lò xo tức là
cẳng tay tự động bật trở về vị trí ban đầu trước khi gấp khuỷu.


Thầy thuốc nhìn thấy mỏm khuỷu và hai mỏm trên lồi cầu và trên
ròng rọc không còn quan hệ tam giác mà ngang nhau. Sờ được
chỏm xương quay phía sau ngoài khớp. Có thể các dây chằng ở
trước trong bị đứt, nhưng rất hiếm khi gặp đứt dây chằng vòng
quanh chỏm quay, bao khớp bị rách. Có thể gặp gãy xương như vỡ
một phần của đầu dưới xương cánh tay (vỡ lồi cầu ngoài hay lồi
cầu trong), mỏm khuỷu. Nếu bệnh nhân đến khám sớm ngay sau
chấn thương, chẩn đoán thường dễ, do sờ thấy các mốc xương.
Trường hợp bệnh nhân đến muộn thì vùng khuỷu sưng nề. Trật
khớp khuỷu ra sau là hay gặp nhất chiếm 90% các trường hợp trật
khớp khuỷu ra trước do vỡ mỏm khuỷu; trật khớp khuỷu sang bên:
do vỡ các lồi cầu.
Trật khớp có thể gây tổn thương mạch máu và thần kinh nên cần
khám mạch máu và thần kinh: bắt mạch quay, mạch trụ ở cổ tay
xem còn đập không, nếu không là bị rách ở vùng trật khớp, khám
vận động và cảm giác ở đầu chi để đánh giá có hay không tổn
thương các dây thần kinh. Nhiều trường hợp trật khớp động mạch
cánh tay thường bị căng giãn, có khi bị chèn ép có thể bị tắc mạch
muộn do bị giập nội mạc. Chụp Xquang khuỷu để xác định kiểu
trật và xem có gãy xương kèm theo hay không.
Chữa trị trật khớp khuỷu thế nào?
Trường hợp trật khớp khuỷu mới (dưới 3 tuần): phải kéo nắn khớp
và nẹp bột. Thường nẹp bột khoảng 10 ngày thì tập vận động. Các
bệnh nhân mà nắn khớp được rồi nhưng kém vững do rách phần
mềm nhiều phải cho bất động 3-4 tuần, sau đó mới tập vận động.
Cần lưu ý cho bệnh nhân tập duỗi cho hết. Trường hợp không nắn
vào được là do kẹt khớp, bị gãy xương nội khớp, chèn phần mềm,
khi đó phải phẫu thuật đưa về vị trí giải phẫu.
Nếu sau nắn trật, kiểm tra mạch không bình thường cũng cần phẫu
thuật để kiểm tra, cắt nối chỗ giập, ghép tĩnh mạch. Tổn thương

thần kinh có thể bị một trong ba sợi là thần kinh giữa, thần kinh trụ
và thần kinh liên cốt trước. Hầu hết các trường hợp thần kinh chỉ bị
đụng giập nhẹ, hồi phục nhanh. Tuy nhiên khi gặp bệnh nhân bị
liệt quá 3 tháng cần phẫu thuật thăm dò thần kinh, hoặc bị liệt sau
nắn khớp cần mổ thăm dò ngay.
Trật khớp kèm gãy xương: gãy mỏm trên lồi cầu trong, mảnh gãy
rất hay bị kẹt vào khớp. Phát hiện được nhờ vào dấu hiệu: sau khi
nắn xong thì cử động khớp không mềm mại. Lúc này cần kiểm tra
Xquang để phát hiện mảnh xương kẹt vào khớp, nếu thấy thì mổ
lấy bỏ mảnh xương kẹt.
Trật khớp kèm gãy mỏm khuỷu: gãy không lệch, bó bột để khuỷu
duỗi. Gãy có di lệch thì mổ kết hợp xương mỏm khuỷu.
Trật khuỷu kèm gãy mỏm vẹt: độ 1, bất động 3-4 tuần rồi tập phục
hồi chức năng ; độ 2-3: phẫu thuật cố định mảnh gãy với lỗ khâu
xuyên xương, vỡ mảnh to cố định với vít.
Trật khuỷ kèm gãy chỏm xương quay: nếu mảnh gãy di lệch dưới
2mm thì điều trị bảo tồn. Nếu gãy vụn chỏm thì cắt bỏ chỏm ở
người lớn, hoặc thay bằng chỏm kim loại. Ở trẻ em cố gắng bảo
tồn bằng kết hợp xương với vít cỡ bé.
Điều trị trật khớp khuỷu cũ (trật khớp trên 3 tuần).
Trật khớp khuỷu cũ thường ở tư thế xấu, khuỷu duỗi 0 độ, cẳng tay
mất chức năng, do đó phải phẫu thuật để điều trị. Phẫu thuật đặt lại
xương nếu thời gian dưới 3 tháng; hoặc làm cứng khớp ở tư thế cơ
năng: để khuỷu gấp 90 độ, cẳng tay trung gian, vì trật khớp quá lâu
nếu đặt lại khớp sẽ biến dạng ở tư thế xấu và giảm cơ năng vận
động.
Một nghiên cứu cho thấy: trật khớp khuỷu gặp thứ 3 sau trật khớp
vai và trật khớp ngón tay, chiếm 20-25% tổng số trật khớp. Bệnh
gặp nhiều ở trẻ em trên 5 tuổi: 68%, nữ nhiều hơn nam, tay trái
nhiều hơn tay phải. Ở người dưới 20 tuổi, trật khớp khuỷu gặp

nhiều hơn trật khớp vai 7 lần. Trật khớp kèm gãy xương chiếm
khoảng 12% các trường hợp

×