Tải bản đầy đủ (.doc) (226 trang)

tài liệu chuẩn ôn thi ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 226 trang )

TÀI LIỆU CHUẨN ÔN THI NGỮ VĂN
CÁC NHÀ VĂN NÓI VỀ TÁC PHẨM CỦA MÌNH
NHÂN VẬT A PHỦ
Thứ hai, 10 Tháng 9 2007 21:35
Bấy giờ đương Tết cả của người Mông trên núi. Tết không một ngày mà hàng
tháng. Gặt hái đã xong, trời rét, lại đợi mưa để làm mùa, thế là nghỉ ngơi, ăn chơi. Từng
nhà làm tết, hôm nay cả xóm chén ở nhà này, mai nhà khác mổ lợn, tiết canh cả chậu
xắn từng miếng cứ linh đình, ăn tết lần lượt mỗi nhà một hôm cho đến hết mọi nhà. Rộn
rã khắp núi, trai gái ném pa pao – một kiểu bóng chuyền thô sơ
Câu chuyện kể lại bây giờ đã ngót năm mươi năm về trước. Mùa thu
1952, trong chiến dịch Tây Bắc, khi Nghĩa Lộ đã được giải phóng, tôi lên các khu du
kích ở huyện Văn Chấn là vùng trạm Tấu, sang huyện Phù Yên là Bản Thái, khu du kích
người Mông. Người Mông, người Dao trên dãy núi bí danh là 99 (do viết tắt bến Pắc
Lừm, Pắc Ngà, hai chữ P giống con số 9) chỗ ấy bí mật qua sông Đà sang Sơn La.
Bấy giờ đương Tết cả của người Mông trên núi. Tết không một ngày mà hàng
tháng. Gặt hái đã xong, trời rét, lại đợi mưa để làm mùa, thế là nghỉ ngơi, ăn chơi. Từng
nhà làm tết, hôm nay cả xóm chén ở nhà này, mai nhà khác mổ lợn, tiết canh cả chậu
xắn từng miếng cứ linh đình, ăn tết lần lượt mỗi nhà một hôm cho đến hết mọi nhà. Rộn
rã khắp núi, trai gái ném pa pao – một kiểu bóng chuyền thô sơ. Trẻ em đánh quay, con
quay gỗ to bằng cái bát. Hay là đuổi bắt chim sẻ, chim sâu, con chim nhỏ bay trên bạt
ngàn núi đá chỉ một lúc đã mỏi cánh ngã lăn xuống, chỉ việc nhặt về nướng ăn.
Ở trạm Tấu, tôi gặp A Phủ cùng vợ sắp về ăn tết bên Tà Sùa ở Phù Yên. (Tiếng
Mông nói lơ lớ Phử tôi viết là Phủ cho dễ đọc). Tiếng Mông nhiều chữ gốc Hán. Con
trai thường tên là Páo (do chữ Bảo), co gái là Mỵ hoặc Mỷ (do chữ Mỹ). Tôi đương
muốn sang Phù Yên rồi vào các khu du kích Sơn La lên Điện Biên trên Lai Châu. Thế là
tôi cùng sang Phù Yên với vợ chồng A Phủ.
Từ trạm Tấu đi Tà Sùa đường núi chỉ một hai ngày. Chúng tôi đã đi lâu cả hai
phiên chợ. Vì gặp nhiều nhà nương, đến nhà nương nào có người cũng nán lại ăn tết.
Làng kháng chiến trên núi, cai đồn Pháp hay lùng lên đốt phá. Cho nên mỗi nhà đều làm
nương bí mật trong rừng sâu. Những cái nhà nương một gian vững chãi xinh xắn, nho
nhỏ như cái nhà của trẻ con chơi. Những chân cột ngoàm nâng sàn đứng con – con hổ,


con gấu không trèo lên được. áp mái, kho đựng ngô. Ngoài nương trước mặt các thức ăn
hàng ngày. Rau cải, đậu răng ngựa, bụi chuối. Cây ớt, búi gừng, cụm hành, hẹ, lá sả…
Săn con chuột, con nhím đã có bẫy, nỏ. Thịt khô phơi xếp trên sàn bếp, hiếm muối, thịt
ướp rễ chanh đậm mà chát.
Những cái nhà nương, lều nương này đều có ở suốt truyện Vợ chồng A Phủ. Năm
1970 tôi có dịp đi lâu vùng Luang Prabang – bên Thượng Lào, những cái nhà nương
quyến luyến tôi vẫn thấy nhiều trong tiểu thuyết Họ Giàng ở Phìn Sa.
A Phủ không phải là sự tích một người thật việc thật. Tất cả tai nghe mắt thấy và
những trải biết của tôi từ những sự thật ấy tổng hợp vào sáng tạo. Dọc đường A Phủ đã
kể những gian truân của vợ chồng anh và mọi sinh hoạt, khó khăn ở khu du kích đã bao
năm. Tôi đã đến dự một đêm xử người bẻ trộm ngô, hệt như đám xử kiện khủng khiếp
đã miêu tả trong truyện và trong phim Vợ chồng A Phủ mà nhà văn Kim Lân đã đóng vai
pụ pạng (thằng mõ) rất xuất sắc. Chỉ có điều là người đứng ra xử kẻ trộm ngô không
phải là thống lý Pá Tra mà là cán bộ ta. Mới giải phóng, địa phương có chủ trương giữ
mọi phong tục tập quán không phân biệt là tốt hay là lạc hậu, dã man.
Người cán bộ kết nghĩa anh em với A Phủ là những hoạt động thật của cán bộ
địch hậu Chi Mai, cán bộ phụ trách khu du kích Phù Yên. Chi Mai quê ở Hà Đông đã
xung phong công tác Tây Bắc. Và phần nào trong tinh thần người cán bộ hậu địch có cả
tôi. Tôi đi với Chi Mai, nhiều xóm muốn giữ tôi lại làm thày giáo. Trong bữa rượu,
người ta hay đọ cánh tay, nếu dài bằng nhau mà lại bằng tuổi thì nhất định chúng tôi
phải kết làm anh em. Phong tục “ăn sùng” này gốc của người Tày, người Thái, một nếp
sống vui và có ý nghĩa, nhiều dân tộc khác đã bắt chước.
Câu chuyện A Phủ kể, tôi đã ngẫm nghĩ mọi mặt tư tưởng, tình cảm của đối tượng
và của tội, tất cả đã sáng tạo nên Vợ chồng A Phủ mà các bạn đã đọc. Có một quang
cảnh khác là khu du kích trạm Tấu và bên bản Thái đều ở sâu trong rừng không trông
được xuống núi như trong truyện kể. Cũng chuyến đi ấy, tôi đã sang nhà lão du kích
Triệu Văn Khìn người Dao, ở mường Cơi. Đồn Tây dưới cánh đồng đã đánh lên núi,
mấy lần bị bố con ông Khìn lăn đá xuống, chết mấy đứa, không dám lên nữa. Ở chỗ
nương nhà ông Khìn trông xuống thung lũng, đồn mường Cơi rõ mồn một. Hôm ấy uống
rượu ủ bột báng nhắm thịt phượng hoàng đất ông Khìn vừa đi bắn được, tôi nhìn xuống

và quyết định đưa cái động trông thấy ở mường Cơi sang cánh đồng dưới chân núi nhà
nương của vợ chồng A Phủ.
Câu chuyện này nếu không nói bạn đọc có thể khó hiểu. Truyện Vợ chồng A Phủ,
những lần in đầu – năm 1954, có nhân vật thống lý Chống Lầu. Các lần in sau và bây
giờ, tôi đổi tên là thống lý Pá Tra. Tại sao vậy? Chống Lầu là tên ông thống lý ở Háng
Chu, tôi đã nhiều lần đến chơi, ông thết khách thịt ngựa không muối. Tên ông Chống
Lầu cũng điển hình tên con người ở tầng lớp trên. Ông không biết chữ, lại ở khu du kích
hẻo lánh thế này, ông biết đâu tôi mượn tên ông.
Năm 1954 miền Bắc giải phóng, ông Chống Lầu được cử ra làm phó chủ tịch khu
tự trị Tây Bắc, cơ quan ở thủ phủ Sơn La. Anh Hoàng Nó bấy giờ là bí thư tỉnh ủy Sơn
La đã nhắn tôi viết hỏng rồi. Nếu đứa nào xấu mách ông Chống Lầu là thằng nhà báo
năm ấy đã viết sách bảo Mo Chống Lầu là phản động thì nguy quá. Các buổi phát thanh
tiếng Mường ở Sơn Dương đọc Vợ chồng A Phủ đều phải bỏ.
Một lần đi huyện Than Uyên, tôi mượn quyển sổ ghi tên các người tù đương bị
giam ở đây. Tôi nhặt ra tên một người tù là Pá Tra. Tôi đổi là thống lý Pá Tra từ ngày
ấy, chắc không lo trùng tên
TRÒ CHUYỆN VỀ BÀI THƠ "TRÀNG GIANG"
Thứ ba, 04 Tháng 9 2007 21:39
Một chiều thu 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái (sông Hồng), bằng xe đạp, có
đoạn dắt xe đi bộ, thấy buổi chiều trên đê và trên sông đẹp quá: Nắng chiều đã nhạt, mây
đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa như xa vời
quạnh hiu
Nhà thơ HUY CẬN
Một chiều thu 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái (sông Hồng), bằng xe đạp,
có đoạn dắt xe đi bộ, thấy buổi chiều trên đê và trên sông đẹp quá: Nắng chiều đã nhạt,
mây đùn phía núi xa và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa như xa vời
quạnh hiu. Tôi dừng ở quãng bến Chèm (bây giờ là chân cầu Thăng Long) và vang lên
trong tâm tưởng mấy câu lục bát:
Tràng Giang sóng gợn mênh mông
Thuyền trôi xuôi mái, nước song song buồn

Rêu trôi luồng lại nối luồng
Về đâu bèo dạt, mây lồng núi xa
Tôi còn định làm tiếp bài thơ bằng lục bát và đặt tên bài là Chiều trên sông
Nhưng đạp xe về nhà (ở số 40 Hàng Than) lại vang trong đầu nhạc điệu của thơ
bảy chữ, âm hưởng Đường luật như quyến rũ tai tôi, cổ họng tôi và tôi liền chuyển mấy
câu đầu sang thể bảy âm, bắt được ngay hai câu đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Hai câu đầu này sẽ đứng vững nguyên cho đến bản thảo cuối cùng
Rồi tôi viết tiếp. câu thứ 3 không khó, nhưng đến câu thứ 4 thì thôi xao
Một chiếc bèo đơn lạc giữa dòng
Một cánh bèo đơn lạc giữa dòng
Củi một cành trôi lạc mấy dòng
Sau cùng đến bản thảo thứ 14 mới bật ra Củi một cành trôi khô lạc mấy
dòng vừa tự nhiên vừa hàm ý sâu (đã chết khô rồi mà còn lạc mấy dòng). Chữ khô hơn
hẳn chữ đơn, vì cái ý cô đơn sẽ toát lên từ toàn bài.
Đoạn 2 cũng phải tìm, nhưng có sẵn cảnh trước mắt: Các cồn nhỏ giữa sông gió
hiu hiu và lại có trong tâm trí 2 câu của Chinh phụ ngâm,
Non Kỳ lặng lẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gờ
Cho nên tôi viết ngay được câu Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu nhờ bà Đoàn Thị
Điểm gà cho nửa câu
Đoạn thứ tư thì tôi học được chữ đùn trong bài Thu hứng của Đỗ Phủ (bản dịch
của Nguyễn Công Trứ) Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Và tôi viết Lớp lớp mây cao đùn núi
bạc. Cả khổ thơ thứ tư thì tôi buồn hơnThôi Hiệu nên mới hạ 2 câu

Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nhớ câu Yên ba giang thượng sử nhân sầu cốt để nói mình buồn hơn,
cần gì phải có khói, sóng mới nhớ nhà.

Bài thơ không phải tả cảnh mà tả tâm hồn, trạng thái tâm hồn, hay nói
đúng hơn là mượn cảnh để nói lòng mình, hồn mình Nói đúng hơn nữa là: Hồn đã
nhập vào cảnh cho nến nói đến cảnh là nói đến hồn vậy.
Một gợi ý với người đọc: Cũng là cảnh trời nước mà sao trười nước
trong Tràng Giang thì vắng lạnh thế, xa vắng thế buồn thê lương thế. Mà trời trong bài
Đoàn thuyền đánh cá (mênh mông hơn vì là biển) mà không vắng lặng, mà lại vui, lại
xôn xao một niềm hào hứng như con người đã làm chủ đất trời
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Cho hay văn thơ là con người, là trạng thái hồn
NHỚ
VỀ TÂY TIẾN
Thứ sáu, 30 Tháng 11 2007 17:38
Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in kỷ niện sâu sắc hơn
cả. nhưng có lẽ nhiều người hay hỏi về bài thơ Tây Tiến của tôi viết ở giai đoạn này.
VŨ VĂN SỸ
(Ghi theo lời kể của nhà thơ Quang Dũng)

Tôi nhập ngũ đúng ngày cách mạng Tháng tám thành công. Năm đó tôi hai mươi
sáu tuổi. Trước cách mạng, tôi học Ban trung học trường Thăng Long. Tốt nghiệp, tôi đi
dạy học tư ở Sơn Tây để kiếm sống.
Những ngày đầu vào quân đội, tôi nhận công tác ở Phòng công vụ Bắc Bộ. Phòng
này do anh Nguyễn Văn Chân phụ trách. Tôi làm phái viên của phòng, có nhiệm vụ đi
thu mua vũ khí ở vùng Hà Nam – Sơn Tây. Thấy tôi có chút học hành, lại yêu mến văn
chương, anh Chân liền giới thiệu tôi lên chiến khu làm công tác báo chí. Ngày đó văn
hóa, văn nghệ, báo chí, uyên truyền trong quan niệm và cả trong công việc, ranh giới
không rõ. Như vậy là “sự nghiệp” văn chương của tôi bắt đầu bằng nghề báo. Tôi trở
thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc Khu II. Tờ báo do anh Văn
Phác phụ trách, sau này, anh Văn Doãn lên thay.
Tôi yêu thơ và làm thơ hoàn toàn ngẫu nhiên. Thời đi học tôi rất mê Đường chi
tam bách thủ, nhất là những bài dịch của nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say thơ mới như bất

cứ một học sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế lữ hơn cả, đặc biệt bài Nhớ rừng,
bởi tâm trang sơn dã của nó. Một nhà văn nữa là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết
văn mà còn dịch những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi tiếp thu được gì ở thơ ca
Pháp ngày ấy, cũng do đọc các bản dịch này. Khi làm công tác báo chí tôi lại càng thấy
thích văn phong của Thạch Lam. Hà Nội ba mươi sáu phố phương của Thạch Lam là
một tập bút ký giàu chất thơ. Nhưng phải nói đến một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga
Gôgôn: Tarax Bunba. Tôi yêu những con người Côdắc dũng cảm, yêu tự do, sống phóng
khoáng, gắn bó với thanh gươm, yên ngựa và những chiến công trên những thảo nguyên
mênh mông như những chiến khu di động chống lại bọn phong kiến xâm lược bảo vệ
nền độc lập dân tộc. Tôi thấy có một sự đồng cảm nào đó giữa mình với các nhân vật
của truyện. Sau này đi Tây tiến, tôi vẫn còn mang Tarax Bunba theo trong ba lô của
mình.
Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học Trường bổ túc Trung
cấp (tức Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây). Trường chuyên bổ túc kỹ thuật quân
sự cho cán bộ chuẩn bị nhận nhiệm vụ chiến đấu mới.
Việc mặc áo lính, và là một cán bộ trong quân đội, đối với tôi ngày ấy có ý nghĩa
thiêng liêng và tự hào lắm.

Những tháng học ở trường, tôi nhớ mãi hình ảnh vị giáo sư quân sự người Nhật
như một kiểu mẫu sĩ quan mà chúng tôi mơ ước và kính nể. Giáo sư có cái tên Việt Nam
là Lâm Sơn. Đại tá Lâm Sơn. Ông là sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy, thành lập từ ngày
đầu kháng chiến. Giáo sư lên lớp bằng tiếng Nhật, có người thông ngôn. Giọng ông sang
sảng nghe đầy uy quyền. Kỷ luật trong trường quân sự hồi đó rất nghiêm khắc, nếu như
bây giờ có thể gọi là “quân phiệt”. Giờ học đã đành, giờ nghỉ cũng rất “khuôn phép”. Có
lần tôi uống cà phê về muộn, cảnh vệ bắt được, cứ lo như ngày nhỏ trốn học bị thầy bắt
được. Anh biết sau đó tôi bị phạt thế nào không? Sangds thứ hai đầu tuần, sau lúc chào
cờ, đại tá bắt tôi bò bốn vòng quanh cột cờ. Tôi bò mộtcách tự giác, bởi nghĩa rằng , đã
mặc áo lính tất phải chịu nhữnh hình phạt đại loại như thế, nếu như mình vi phạm kỉ
luật.
Có lần Bác Hồ đến thăm trường. Tôi nhớ Bác còn nói cho chúng tôi nghe một

cuốn sách viết về chiế tranh du kích. Vốn giàu óc tưởng tượng về hành động chiến đấu
của người lính, tôi rất thú hình ảnh người du kích. Bac nói: “lại vô ảnh, khứ vô hình”,
nghĩa là đến và đi không ai thấy. Chỉ nội mấy cái âm chữ Hán, đọc lên nghe đã xuất quỷ
nhập thần rồi, chưa nói đến việc vận dụng nó vào chiến thuật quân sự.
Hôm bế mạc lớp, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng quân đội, và
đồng chí Đàm Quang Trung, có đến dự và nói chuyện.
Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn
làm Trung đoàn trưởng. Tôi ở đại đội bộ, làm đại độ trưởng. Tiểu đoàn 212 của tôi là
tiểu đoàn trước đây đã từng làm náo động các sân bay Cát Bi, Bạch Mai… bây giờ
chuyển sang nhận nhiệm vụ Tây Tiến.
Tây Tiến là mộ chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu IV lên Khu X tức là Tây Bắc,
vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Năm 1945 khi khắp nơi
nổi dậy cướp chính quyền thì nhân dân vùng này nhiều nơi vẫn chưa được giác ngộ cách
mạng. Nam 1946, trung đoàn Sơn La có đánh vào Tây Bắc, nhưng mới chỉ có ý nghĩa
thăm dò. Đầu năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các chiến sĩ
tình nguyện của Khu III, Khu IV và tự vệ Thành Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ
đô. Đợt Tây Tiến đầu tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng địch tập
trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của chúng tôi là mở đường qua đất Tây Bắc.
Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ
sự giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội trưởng, tôi còn dược cử làm
Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt.
Giai đoạn này Hà Nội đang có tiếng súng ở ngoại thành. Chúng tôi xuất phát từ
Sơn Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi bằng ô tô, các ôtô nổi tiếng lúc bấy giờ như của
hãng Con Thỏ, Trung Hà, Từ Đường, Mỹ Lâm… đều được Chính phủ công làm nhiệm
vụ quân sự. Chúng tôi đi qua đường số 6 qua suổi Rút. Thị trấn Hoà Bình năm ấy còn tự
do. Sau, chúng tôi chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến:
mơt rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những
chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc
biên cương những “nấm mồ viễn xứ”… tôi mô tả trong bait thơ Tây Tiến là rất thực, có
pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau này vô tình tôi mới nhận ra… trong

bài thơ Tây Tiến, tôi còn viết “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn
chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn, mình
lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ cũng chả được, nên bộ đội không njững bị ốm, mà
còn chết vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng
nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi.
Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng
vẳng tiếng cồng. Anh Như Trang hồi ấy là tiểu đoàn phó, có viết ca khúc tiếng cồng
quân y là vì vậy.
Đối với miền Tây, gay nhất là thuốc, vì đường tiếp tế rất khó. Tôi nhớ có lần được
thuóc từ Khu II gửi lên. Cụ Thi Sơn trong Mặt trận Liên Việt tặng thuốc (nguyên cụ Thi
Sơn là tướng của Đề Thám). Trong buổi lễ trao thuốc long trọng này, Anh Hồng Thanh,
chính uỷ Trung đoàn, đã thay mặt bộ đội nhận thuốc. Anh còn làm cả thơ. Tôi còn nhớ
mấy câu:
Một buổi sớm mọi người đều hoan hỉ
Từ bệnh nhân đến bác sĩ đều vui
Vì được tin kháng chiến chiến Khu II
Vừa gửi tặng 3.000 viên thuốc sốt…
Không hiểu cảm đọng vì có thuốc hay vì nghe thơ, mà anh Hồng Thanh đọc xong,
ai cũng rưng rưng nước mắt
Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn
ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói
“áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước
đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường.
Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù
Lưu Chanh (ten một tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc
trước Đại hội, được mọi người hoan nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại
biểu nhà văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay
ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả
có chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn một
thời gắn với lịch sưở kháng chiến anh dũng của dân tộc… Từ Tây Tiến trở đi tôi làm

nhiều thơ hơn. Các bài Đường mươi hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây
cũng là những bài thơ mà tôi thích.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng tiểu ban tuyên huấn
của Trung đoàn 52… Rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ. Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như
sau này được phân chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
V.V.S
ĐÔI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ "ĐẤT NƯỚC
ĐỨNG LÊN"
Thứ hai, 26 Tháng 11 2007 16:43
… Theo chỗ tôi được biết thường người đọc hay có sự tò mò muốn được biết
những “bí mật” có tính chất bếp núc của nhà văn trong công việc viết một cuốn sách.
Tôi nghĩ đó là một sự tò mò lành mạnh và chính đáng. Song nói thật tình, những”bí mật”
ấy chính tác giả cũng không biết được hết.
Nhà văn NGUYÊN NGỌC

Người mẹ làm sao biết được hết những bí mật trong suốt quá trình huyền diệu
hình thành và sinh ra đứa con. Ở khu vực này, tôi tin vậy, mãi mãi còn những bí ẩn chỉ
có thể ước đoán ra thông qua những dấu hiệu bên ngoài nào đó. Đôi điều “bí mật” tác
giả sẽ tiết lộ với bạn đọc sau đây cũng vậy. Xin các bạn xem như chừng nào đấy là
những ước đoán ít nhiều đáng tin cậy thôi.
Gần đây, có lẽ chủ yếu do chẳng viết được cái gì mới, có đôi lần tôi một mình lẩn
thẩn ngồi dở ra đọc lại quyển sách đã cũ mòn của mình. Cho phép tôi thú thật: tôi đọc…
say mê và cảm động. Và cũng buồn nữa. Tôi thấy hình như bây giờ tôi không còn có thể
viết được như ngày ấy. Ngày ấy tôi đã viết được những trang, đã viết được một cuốn
sách thật giản dị, trong sáng. Và đẹp. Một vẻ đẹp, chừng mực nào đó gần như đến hoàn
chỉnh. (Bây giờ mình có thể sâu sắc hơn, từng trải hơn nhưng cũng lại rắc rối hơn, phức
tạp và tối tăm hơn).
Tôi cứ tự hỏi: cái gì đã làm nên được sự giản dị, trong sáng, đáng quý đó?


Ông Đinh Núp
nguyên mẫu anh hùng Núp

Ở đây tôi có thể tiết lộ với các bạn một điều “bí mật” (mà trước đây, thật buồn
cười và xấu hổ thay, do những thứ giữ gìn vô lý nào đó, ta – và chính tôi – thường thấy
“không tiện nói ra”):
Tôi đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc, có thể đến tận máu thịt mình, của văn học, hay
nói cho thật chính xác hơn, của văn chương Pháp. Văn chương Pháp được học trong các
trường “Thực dân” thời bấy giờ. Cả một nền văn chương lớn, với những Anatole France
và Alphonse Daudet, Chateaubriand, Victor Hugo và Balzac, Flaubert và Stendhal, Guy
De Maupassant và George Sand, Lamartine và Alfred De Musset…
Tôi nghĩ mãi mãi nghĩ có một thời gian khá dài chúng ta đã nói quá là lôi thôi lẩn
thẩn về cái gọi là nội dung và hình thức trong nghệ thuật. Những câu văn chương tôi đã
từng đọc trong tác phẩm của họ, từng từ, các từ của nó, từ này đứng cạnh từ kia, câu này
nói theo câu nọ, cả những chỗ đọc nối giữa các từ nữa… là nội dung hay là hình thức?
Quả thật tôi không biết. Tôi chỉ biết nó đã tạo nên tâm hồn tôi, con người và văn chương
tôi, về sau này, có lẽ, cả một thế hệ chúng tôi. Thế hệ, hầu hết, ít năm sau sẽ đi vào cách
mạng và kháng chiến, trở thành những người lính nồng nàn yêu nước, trung thành với
nhân dân, với cách mạng…
Kể cũng lạ – nhưng ngẫm kỹ lại thì cũng rất phải, rất tất yếu thôi – chính cái nền
văn chương Pháp vĩ đại được dạy trong các trường”Thực dân” ấy, ít nhất cũng có góp
phần tạo ra – cả một thế hệ thanh niên cách mạng kiên cường và trung thành ở nước ta,
thế hệ chúng tôi.
Văn chương là một cái gì đó vừa hiển nhiên vừa bí ẩn như vậy đó. Nó tạo nên con
người, có khi định hướng cả cuộc đời con người bằng những con đường nào đó vừa tất
yếu vừa có gì như là nghịch lý vậy.
Có lúc đã nghĩ lẩn thẩn: giá như tôi đã được “tạo nên” từ buổi ban đầu của đời
mình không phải một phần hết sức quan trọng bằng nền văn chương Pháp ấy mà chẳng
hạn bằng văn chương Nga – một nền văn chương hình như sâu sắc hơn và cũng nặng nề,
bệ vệ hơn – thì rồi ra tôi sẽ trở nên thế nào nhỉ? Có thể tôi sẽ trở nên một người tốt hơn

nhiều, hoặc thế nào khác đó… Nhưng sẽ là tốt một cách khác, thế nào đó một cách
khác…

Vở nhạc kịch Đất nước đứng lên do diễn viên trường ĐH VHNT Quân đội thể
hiện
Tôi nói điều này có thể là hơi lạ với ai đó: khi bắt đầu cầm bút tôi đã viết bằng cái
“lối” văn chương “Pháp” đó, tất nhiên nó đã được khúc xạ, qua tôi. Tôi đã viết Đất nước
đứng lên bằng cái văn chương ấy. Hoặc nói cho chặt chẽ, chỉn chu hơn: viết bằng cái lối
tâm hồn đã được tạo nên một phần rất quan trọng bằng văn chương ấy.
Bấy giờ có lẽ đến lúc nói về sự khúc xạ. Anh sáng khúc xạ khi nó đi từ một môi
trường này sang một môi trường khác.
Ở trường hợp của tôi hồi bấy giờ, môi trường kia, môi trường mới, là Tây
Nguyên. Đó là một môi trường rất mạnh. Bất cứ ai đến đó, đi vào đó, lập tức chịu ngay
một sức cuốn hút mãnh liệt, không gì cưỡng lại nổi. Nói đến Tây Nguyên người ta
thường hay nghĩ, nói ngay đến thiên nhiên, núi non, rừng rú, cảnh quan lạ lùng của nó.
Tất nhiên cái đó là đúng và cũng tác động mạnh đến người mới bước chân tới đây.
Nhưng còn quan trọng hơn hiều, theo tôi, là nền văn hóa của nó.
Có nhiều cách nói khác nhau về văn hóa. Riêng tôi, tôi thích diễn đạt khái niệm
này như trong một số ngôn ngữ phương Tây: Culture. Tôi hiểu trong cách diễn đạt đó,
người ta muốn coi văn hóa là tất cả những gì con người “cấy trồng” nên trái đất này.
Trước khi có con người, chưa có những cái đó. Con người làm cho trái đất trở thành một
trái đất khác bằng toàn bộ sự “cấy trồng” của mình, đời này qua đời khác, thế hệ này qua
thé hệ khác.
Các dân tộc Tây Nguyên đã “cấy trồng” trên đất đai núi rừng của mình một nền
văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững. Tôi không dám cả gan phát
biểu về những đặc điểm khái quát của nền văn hóa ấy. Song dẫu sao cũng xin thử nói đôi
điều riêng tôi cảm nhận được, thấm thía yêu mến và kính trọng ở đây.
Có lẽ trước hết là ở đây con người hài hoà gần như đến tuyệt đối với tự nhiên, với
thiên nhiên, con người đồng hòa mình, với thiên nhiên và đồng hóa thiên nhiên với
mình, gần như không còn chút cách biệt, chút ranh giới nào. Thiên nhiên cũng hữu trí,

hữu tình như con người và con người lại cũng vô trí, vô tình như thiên nhiên. Đây là một
thê giới sống động lạ thường, trong đó con người vì gắn liền khăng khít, thân tình, hòa
hợp đến cùng với tự nhiên, cho nên nó cũng được hưởng tất cả sức mạnh và vẻ đẹp có
khi như man dại của chính tự nhiên. Sức mạnh, sự hùng dũng của núi cao, đá lớn, sông
dữ, rừng thẳm, của những cây đại thụ trường sinh và của muôn loài cầm thú… cũng là
sức mạnh, sự hùng dũng của con người. Vẻ yêu kiều của mây nước, của trăm vạn loài
chim trời, của sông suối, của gió rừng… Cũng là vẻ yêu kiều của con người.
Và con người ở đây trong sạch, lành mạnh, tự do, thanh thản như chinh thiên
nhiên vậy.
Ở Tây Nguyên mối quan hệ hài hòa đến tuyệt đối, tuyệt diệu giữa tự nhiên và con
người bao trùm, chi phối sâu sắc tất cả các mối quan hệ khác, kể cả những mối quan hệ
xã hội phức tạp nhất: gia đình, tình yêu, xóm làng, cộng đồng, xã hội, đất nước, kẻ thu…
đi vào đây, bỗng vừa giản lược hóa đi vừa sâu đậm thêm, được tắm đẫm và hòa nhập
trong cái tinh thần tự do vừa nguyên sơ vừa luôn luôn mới mẻ trường tồn đó.
Tinh thần thượng võ Tây Nguyên cũng là bắt nguồn từ đó.
Các cô gái Tây Nguyên phơi bộ ngực trần vừa mơn mởn vừa mãnh liệt của
mình ra giữa thanh thiên bạch nhật; các pho tượng nhà mồ tuyệt vời của Tây Nguyên
vừa cổ sơ vừa hết sức hiện đại cứ như là chân dung của một con người, những con người
mà là chân dung của cả loài người và của cả tự nhiên, của thế giới của cuộc đời; những
nóc nhà rông Tây Nguyên uyển chuyển mà mạnh mẽ đến quyết liệt Tất cả cái văn hoá
thấm sâu một triết lý bền vững không có tên gọi nào đó, lại chính là cái cơ sở bất khả
chiến thắng của quá trình cuộc chiến đấu cách mạng và kháng chiến suốt mấy chục năm
ở đây
Tôi có may mắn hạnh phúc được sống với bà con các dân tộc Tây Nguyên gần
suốt thời chiến tranh chống thực dân Pháp, được cùng tham gia cuộc chiến đấu gian nan
anh hùng của họ. Nhưng có lẽ điều còn quan trọng hơn đối với tôi là đã dần tự “đồng
hoá” mình cùng với họ, được tắm mình trong cái văn hoá kỳ diệu ấy.
Tây Nguyên cũng tạo nên cho tôi, tâm hồn, cuộc đời, và rồi văn chương của tôi.
Có một nhà văn bạn tôi rất tinh vi trong nghề bảo rằng điều đáng chú ý nhất trong
Đất nước đứng lên là ở chỗ tôi đã tạo nên được một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật riêng,

mà về sau hình như ai có viết về miền núi cũng sẽ ít nhiều phụ thuộc vào đó.
Còn tội, tôi nghĩ rằng chính nền văn hoá Tây Nguyên mà tôi có hạnh phúc được
thấm đẫm đã tạo chho tôi hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật ấy, gần như là một cách hoàn
toàn tự nhiên, trưc giác vậy.
Có lẽ, nói cho đúng hơn, ở trong tôi cái văn hoá Tây Nguyên, với cái mà tôi đã
gọi trên kia là “nền văn chương Pháp” tốt đẹp tôi từng hưởng từ bé – đã hoà quyện với
nhau, từ lúc nào đó, bằng cách nào đó chính tôi cũng không rõ hết được. Sự hoà quyện
may mắn ấy đã tạo thành một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật riêng, vừa cũ vừa mới, vừa
có vẻ thô sơ tự nhiên mà cũng không đến nỗi cách xa với cái hiện đại.
Tôi nghĩ rằng sở dĩ câu chuyện về anh Núp của tôi đến được với tâm hồn người
đọc là vì nó đã được kể, hay đúng hơn, nó vận động trong hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật
đó. Nó ăn khớp được với hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật đó.
Theo tôi đó là điều quan trọng nhất cần chú ý trong khi tiếp cận một cách nghệ
thuật tác phẩm này.
Nói về quá trình hình thành một tác phẩm của chính mình, đối với người cầm bút,
bao giờ cũng là một sự tự thú. Tôi đã cố gắng làm một cuộc tự thú chân thành.
Không biết nó có giúp được chút gì cho ai đó quan tâm trong khi tiếp cận quyển
sách đầu tay đã cũ của tôi không? Mong bạn đọc sẽ lượng thứ nếu nhỡ ra nó vô ích đối
với bạn sau khi bạn đã bỏ công đọc những dòng muộn mằn này.
Nghệ thuật trần thuật mang tính hài của vũ trọng phụng trong tiểu thuyết số
đỏ
Th.S Hoàng Diệu Thuý

Trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có vai trò quan trọng, góp phần làm
thêm tài năng, phong cách nhà văn. Theo từ điển thuật ngữ văn học, "Trần thuật"
phương diện cơ bản của phương thức tự sự là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh,
miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần
thuật nhất định ( ). Thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật mà chức năng của
nó còn là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại
tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả ( ). Trần

thuật gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm. (tr 246 - 247).
Trong nghệ thuật trần thuật của Vũ Trọng Phụng ở tiểu thuyết số đỏ, người đọc
có ấn tượng về tiếng cười vô song của ông từ năm 1943, Vũ Ngọc Phan đã công nhận:
"Số đỏ không ai nhịn được cười". Năm 1992, Hoàng Thiếu Sơn cũng chung một cảm
tưởng ấy: "Đọc số đỏ, người nghiêm đến mấy, người buồn đến đâu, ai mà chẳng cười".
Người ta có thể so sánh tiếng cười của ông Nguyễn Công Hoan và tiếng cười Vũ Trọng
Phụng. Nguyễn Công Hoan rất sở trường trong công việc tạo tác những truyện ngắn trào
phúng. Chính ông đã từng tự bạch về kinh nghiệm của mình: Ông luôn biết "Ăn dè" cốt
truyện. Mỗi truyện ngắn của ông chỉ triển khai trên cái nền một tình huống trào phúng,
một mâu thuẫn trào phúng, hướng tới một chủ đề nhất định nào đó. Sở trường của Vũ
Trọng Phụng lại nghiêng về trường thiên, nên tác phẩm của ông thường là một chuỗi
những tình huống, mâu thuẫn trào phúng kế tiếp nhau, móc xích với nhau với nhiều tầng
nghĩa tạo ra một hệ thống phong phú, phức tạp.
Việc các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tiếng cười ghê gớm của kiệt tác
Số đỏ quả là điều dễ hiểu. Vì Số đỏ tiêu biểu nhất cho hình thức nghệ thuật trần thuật
mang tính hài của thiên hướng Vũ Trọng Phụng.
1. Nghệ thuật xây dựng các tình huống trào phúng
Là một nhà văn hiện thực, Vũ Trọng Phung luôn quan tâm sâu sắc đến môi
trường, luôn nhìn môi trường như là cơ sở để giải thích tính cách nên ông rất chú ý xây
dựng những tình huống trào phúng làm nền cho nhân vật hài xuất hiện. Có thể làm bảng
phân loại các tình huống trào phúng khá tiêu biểu Vũ Trọng Phụng trong số đỏ như sau:
Tình huống ngẫu nhiên (rủi hoá may, may hoá rủi), tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa
lý của nhân vật tình huống "Chiếu tướng" nhân vật một cách đột ngột, tình huống hiểu
lầm (ông nói gà, bà nói vịt).
2. Sự kết hợp giữa cái ngẫu nhiên và cái tất yếu
Ngẫu nhiên được xem như một nguyên tắc xây dựng cốt truyện hài, trở thành một
mô típ phổ biến trong sáng tác Vũ Trọng Phụng nói chung, "Số đỏ" nói riêng. Song cái
ngẫu nhiên cũng là con giao hai lưỡi: hoặc tạo ra những đột ngột , bất ngờ, lạ lầm gây
hứng thú thẩm mỹ cho người đọc, hoặc gây tính giả tạo, gò ép cho cốt truyện. Tài năng
của Vũ Trọng Phụng là đã tìm ra hạt nhân hợp lý của cái ngẫu nhiên trong cái xã hội

nhiễu loạn tạo nên sự thật về cái nhìn "vô nghĩa lí" trước "xã hội chó đểu" (tự dưng của
Vũ Trọng Phụng). Số đỏ rất tiêu biểu cho sự kết hợp giữa thật - giả, ngẫu nhiên tất yếu
này. Đó là cái ngẫu nhiên mang vận đỏ trùm lên cuộc đời nhân vật Xuân. Con đường
tiến thân vùn vụt của Xuân từ hạ lưu đến thượng lưu thật quá sức tưởng tượng, như toàn
được lót bằng chiếu hoa của sự ngẫu nhiên may mắn. Nhưng ngẫm kỹ Xuân tóc đỏ may
mắn đâu chỉ là chuyện "chó ngáp phải ruồi", tất cả đều có tính quy luật của nó. Theo
cách lý giải của Vũ Trọng Phụng một phần là ở tư tưởng định mệnh (là số tử vi mở đầu
tác phẩm đã dự báo vận đỏ của Xuân). Song toát lên từ hình tượng nghệ thuật của tác
phẩm đó là quy luật hiện thực. Cái xã hội thường lưu tưởng giả bịp bợm, giả dối, lố lăng
đã là môi trường tốt cho những tính cách lưu manh như Xuân nảy nở.
3. Đối lập các hình diện quan sát, miêu tả
Đối lập các hình diện quan sát, miêu tả với Vũ Trọng Phụng cũng là hình thức
tương phản để tạo hài. Bởi vì cái hài vốn là một tương phản: nội dung xấu lẩn vào hình
thức đẹp, cái nhếch nhác lẩn vào cái trang nghiêm Nghệ thuật đẩy tương phản lên tính
thẩm mĩ, gây khoái cảm nhận thức. Vũ Trọng Phụng tạo ra tương phản bằng cách tạo ra
những đối lập lệch pha trong bản thân đối tươngj bị châm biếm, nhằm nêu bật cái cọc
cạch khấp khểnh ở đối tượng, buộc đối tượng phải phơi lưng trước tiếng cười. Trong
tiểu thuyết Số đỏ, Vũ Trọng Phụng tạo đối lập trong những trang miêu tả đám ma cụ cố
Tổ (chương hạnh phúc một tang gia). Nhà văn đã kết hợp hai hình diện quan sát của
điện ảnh: vừa diễn cảnh vừa cận cảnh và cho hai hình diện này đối lập nhau để tạo tiếng
cười.
4. Trần thuật không xuôi chiều
Đọc văn Vũ Trọng Phụng độc giả thấy đày những cú vấp, cú sốc lời văn kể
chuyện của ông không phẳng lặng mà luôn trồi lên những mâu thuẫn, nghịch lý, mâu
thuận nọ đẻ ra mâu thuẫn kia. Tiếng cười chưa kịp lắng xuống đã lại bùng lên, kết chuỗi
nhau, nhất là ở kiệt tác Số đỏ . Vì vậy mà nhiều người mệnh danh Số đỏ là "tiểu thuyết
cười dài", "vở đại hài kịch". Có thể kể ra rất nhiều những cuộc xung đột, những màn hài
kịch mà sự kiện mở đàu và kết thúc là một chuỗi những tình huống kế tiếp nhau tạo
thành dây kịch tính. Chúng tôi gọi nó là dạng xung đột kịch "bền vững" nên tiếng cười
của thiên hư họ Vũ không bao giờ chịu tắt.

5. Kết thúc bất ngờ đầy hài hước
Tính kịch và tính hài trong kết thúc của Vũ Trọng Phụng còn là ở sự bất ngờ của
nó. Kết thúc của Vũ Trọng Phụng luôn là sự hoà giải tạm thời của xung đột này để mở
ra một xung đột khác. Mở nút chỉ là cách tạm thời để xoa dịu những cú sốc. Số đỏ hài
hước trong từng chương và xuyên suốt cả tác phẩm. Chương XV tả đám ma nhà cụ Cố
Hồng kết thúc bằng một chi tiết hài đặc sắc: Ông con rể quý hoá bên ngoài thì khóc
thương người chết đến mức "lả vặt người đi" nhưng lại dúi nhanh vào tay Xuân tóc đỏ
"cái giấy bạc năm đồng gấp tư" để trả công Xuân về việc đã làm cụ cố tổ chết và ông ta
được chia một món hời. Kết thúc cuốn tiểu thuyết cũng thật thú vị: Xuân tóc đỏ một tên
ma cà bông thành anh hùng cứu quốc, bà phó Đoan dâm đãng được nhận bảng "Tiết
hạnh khả phong xiêm la"; Cụ cố Hồng Được gả Tuyết cho Xuân sung sướng đến ngứa
ngáy chỉ muốn ai đấm vào mặt mình Không ai lường trước được một kết cục lạ lùng
hư thế. Tính bất ngờ của nó gây nên tiếng cười giòn giã. Cùng với một số cây bút hiện
thực tiêu biểu khác như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tam Lang , kịch hoá trần thuật
là một nỗ lực đổi mới hình thức tự sự của Vũ Trọng Phụng. Nhờ nét mới mẻ này, tiếng
cười họ Vũ mang giá trị nhân bản và dân chủ sâu sắc hơn. Nghệ thuật trần thuật độc đáo
đã góp phần tạo nên giá trị của kiệt tác Số đỏ. Nó cũng góp phần tạo nên phong cách tài
năng Vũ Trọng Phụng và là đóng góp quí giá cho nghệ thuật tự sự của văn học Việt
Nam hiện đại.
Những nhận xét thú vị về tác phẩm và tác giả trong chương trình PT
Tớ lập topic này nhằm sưu tầm những nhận xét hay về các tác phẩm và các
tác giả trong chương trình phổ thông,từ đó giúp các bạn viết văn hay hơn.Vì khi
viết về 1 tác phẩm mà chúng ta biết cách vận dụng những nhận xét của những nhà
phê bình đưa vào bài của mình thì chắc chắn bài viết sẽ thuyết phục hơn nhiều.
Chúc các bạn có được những bài văn thật hay
Mờ đầu
NHỮNG NHẬN ĐỊNH VỀ TẬP "NGỤC TRUNG NHẬT KÍ":
-" Thơ thiên nhiên trong tập Ngục trung nhật kí thật sự có những bài viết rất
hay.Có những phác học sơ sài,chân thực và đậm đà,càng nhìn càng thú vị,như 1 bức
tranh thủy mặc cổ điển.Có những cảnh lộng lẫy sinh động như những tấm thảm thêu nền

gấm chữ vàng.Cũng có những bài thơ làm cho người đọc nghĩ tới những bức sơn mài
thâm trầm ,rộn rịp "(Đặng Thai Mai)
-" Toàn bộ tập thơ đó là 1 tuyên ngôn về tự do viết với tấm lòng yêu thưong,tinh
thần kiên quyết ,với khí phách anh hùng của 1 người cộng sản vĩ đại"(Hoàng Trung
Thông)
-"Trong thơ bác ,trữ tình và tự sự ,lãng mạn và hiện thực,cổ động và giáo
dục,phản ánh và triết lí đã kết hợp với nhau thật chặt chẽ,1 cách nghệ thuật"(Hoàng
Trung Thông)
" Điều quan trọng là ,với tất cả phẩm chất của 1 nghệ thuật lớn ,Nhật kí trong tù
đã sống cuộc sống xứng đáng của nó,đã gieo trồng được những giá trị văn minhvà nhân
đạo cao nhất vào đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam.Biết bao người ,trong đó có
không ít nhà văn hóa lớn ,hoặc nghệ sĩ tên tuổi ở trong nước và trên thế giới đã nói về
giá trị lớn của tập thơ "(Phong Lê)
NHẬN ĐỊNH VỀ "MỘ "(CHIỀU TỐI):
-"HCM rất Đường mà không Đường 1 tí nào.Với 1 chữ 'hồng',Bác đã làm sáng
rực lên toàn bộ bài thơ,đã làm mất đi sự mệt mỏi ,sự uể oải,sự vội vã,sự nặng nề đã diễn
tả trong 3 câu đầu ,đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cco em sau khi xay ngô tối .Chữ
'hồng'trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt" thơ (thi nhã hoặc nhãn
tự) ,nó bùng sáng lên,nó cân lại chỉ 1 chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng đến mấy đi
chăng nữa.
Với chữ 'hồng'đó có ai còn cảm giác nặng nề,mệt mỏi,nhạc nhằn nữa đâu mà chỉ
thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm,cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu
kia.Đó là màu đỏ của tình cảm Bác"(Nguyễn Trung Thông)
-"Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ đầu thì thơ HCM không khác gì thơ Liễu Tông
Nguyên đời Đường:
Thiên sơn điêu phi tận
Vạn kính nhân tông diệt
Cô thuyền xuy lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Nghìn non chim bay hết

Muôn nẻo dấu người mất
Trên thuyền cô độc lão già
Một mình cầu sông tuyết lạnh)
(Hoài Thanh)
Về “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”:
-Bác có nói:”Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo được bài viết hữu ích như
lần này”
-Đồng chí Trường Chinh nhận xét:”Về văn phong ,cách nói và cách viết của Hồ
Chủ Tịch có những nét rất độc đáo :nội dung khảng khái ,thấm thía đi sâu vào tinhf cảm
của con người ,chinh phục cả trái tim và khối óc con người ta : hình thức sinh động
,giản dị ,giàu tính dân tộc và tính nhân dân.”
NAM CAO là nhà văn hiện thực lớn ,cũng đã có biết bao nhà phê bình và cũng
đã tốn biết bao bút giấy để viết về ông.Nhân đây giới thiệu với mọi người một vài nhận
định về con người này và văn chương của ông.
Đây là những nhận định về con người Nam Cao:
-“Nam Cao lạnh lung quá ,kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó
nhọc(…)thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”(Nhận xét của nhà văn Tô
Hoài)
-"Con người Nam Cao mảnh khảnh,thư sinh,ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt
rè,mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh
liệt"(Nguyễn Đình Thi)
-Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình ,tự đem mình ra quat dưới
than hồng "(Nguyễn Minh Châu)
-"Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"(Nguyễn Minh
Châu)
-"Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai,năm năm trung thành với hướng
đi không nghiêng ngả năm năm cày xới để tự biếm họa ,tự khẳng định,để có Nam Cao
như hiện nay ta có"(GS Phong Lê)
Nhận xét về văn của Nam Cao:
-“Dù viết về đề tài nào ,truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng

chung:nổi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm
do cuộc sống đói nghèo đẩy tới”(?)
-“Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo,Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ
xẻ tất cả,không né tránh như Thạch Lam; không cực đoan,phiến diện như Vũ Trọng
Phụng ,cũng không thi cị hóa như Nhất Linh,Khái Hưng ,ngòi bú của Nam Cao luôn
luôn tỉnh táo đúng mực”( Hà Minh Đức)
-“Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng,nghĩa là không đếm xỉa gì đến
sở thích của độc giả.Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn
mới sâu xa,chua chát và tàn nhẫn ,thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng của
mình,thiên chức của mình”(Hà Minh Đức)
-“Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những nhân vật chính
hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt
buộc người ta phải bộc lộ mình ra ,trước hết là tâm lí ,nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là
cái nỗi đau khôn nguôi của con người”(Nguyễn Minh Châu)
-“Trong văn xuôi trước cách mạng,chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo,gân guốc
soi mói như của Nam Cao”( Nhà văn Lê Định Kỵ)
NHỮNG NHẬN XÉT VỀ THƠ XUÂN QUỲNH VÀ THƠ CỦA CHỊ:
-"Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân
trong nắng nôi dông bão của cuộc đời
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và
yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng .Ở đó trái tim
thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về ,mệt nhòai giữa biến
động và yên định ,bão tố và bình yên,chiến tranh và hòa bình,thác lũ và êm trôi ,tình
yêu và cách trở ,ra đi và trở lại,chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan,tổ ấm và dòng
đời,sóng và bờ,thuyền và biển,nhà ga và con tàu ,trời xanh và bom đạn,gió Lào và cát
trắng ,cỏ dại và nắng lửa,thủy chung và trắc trở,xuân sắc và tàn phai,ngọn lửa cô đơn và
đại ngàn tối sẫm " (Chu Văn Sơn)
-"Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất
thành thật ,thành thật trong quan hệ bạn bè,với xã hội và cả tình yêu .Chị quanh co
không giấu diếm một điều gì .Mỗi dòng thơ,mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm

,một suy nghĩ của chị .Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị .Thành thật,đây là
cốt lõi thơ Xuân Quỳnh" (Võ Văn Trực)
Về Vũ Trọng Phụng và”Số đỏ”:
-Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng :”Trên trang viết Vũ
Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời VTP càng chân thành bấy nhiêu.Con
người ấy không giết quá một con muỗi .Nhưng thật kì diệu,văn chương của con người
ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình,kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”
-Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét:” Đây là cái bi của người chết ,cái
hài của xã hội ,cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình
người”
Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều:
Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá
trắng và người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới.
(Sheakespear)
*Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều:
Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy
khiến ai đọc cũng thấm thía ngậm ngùi.
(Mộng Liên Đường)
*Bình luận về tuổi trẻ Việt Nam:
Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.Tuổi trẻ là mùa xuân
của xã hội.
(Hồ Chí Minh)
*Hoài bão thời trai trẻ của cụ Phan Bội Châu:
Muốn vượt bể đông theo chiều cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiến ra khơi.
(Phan Bội Châu)
*Ca ngợi mùa xuân:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới,
Bạn đời ơi vui chút với trời hồng!
Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa đông.

(Tố Hữu)
*Ca ngợi tình bạn:
-Sống không có bạn là chết cô đơn.
(Giooc-giơ Hê –be)
-Mỗi người thêm nhiều con mắt
Mỗi người thêm nhiều cảm rung
Trời cũng thêm nhiều màu sắc
Đất cũng thêm chiều mênh mông.
(Trần Lê Văn – Bạn)
*Kết hợp giữa tài và đức:
Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó.
(Hồ Chí Minh)
*Tự hào về đất nước:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp hơn.
(Nguyễn Đình Thi)
*Đặc điểm của ngôn ngữ:
-Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với
các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của Văn học.
-Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ
càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng 1 ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau
dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.
-Ngôn ngữ nhân là “tiếng nói nguyên liệu “ còn ngôn ngữ văn học là “ tiếng nói
đã được bàn tay thợ nhào luyện.
(Gorki)
*Sử dụng ngôn ngữ thơ để tạo hình:
Nhịp điệu của câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu náo nức xôn
xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình.
(Tố Hữu)

*Tính chính xác của ngôn ngữ văn học:
Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó.
(Môpat xăng - Pháp)
*Nhận xét về bài thơ Thu Vịnh:
Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh,
cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh
mùa thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu.
(Xuân Diệu)
*Nhận xét về Thu Điếu:
Bài thơ Thu Vịnh có thần hơn hết nhưng ta vẫn phải công nhận bài Thu điếu là
điển hình ơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.
(Xuân Diệu)
*Quan niệm về văn chương:
- Đối với tôi văn chương không phải là 1 cách đem đến cho người đọc sự thoát ly
hay sự quên ; trái lại, văn chương là 1 thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có
để tố cáo và thay đổi 1 cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch
và phong phú hơn.
(Thạch Lam)
-M.Gorki nói: văn học “ giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm
tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.”
-Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh
trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
(Nam Cao – Trăng sáng)
* Bút chiến với nhóm Tự lực văn đoàn:
Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng
như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời.
(Vũ Trọng Phụng)
*Nhận định về”chất thép”trong thơ Hồ Chí Minh:
Khi Bác nói trong thơ có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ.Có lẽ
phải hiểu 1 cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép

mới có tinh thần thép.
* Ý kiến về văn chương:
Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.
(Nguyễn văn Siêu)
* Vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ:
-Thơ phát khởi trong lòng người ta.(Lê Quý Đôn)
-Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.(Ngô Thì Nhậm)
*Quan điểm nghệ thuật văn chương:
-Văn hoá nghệ thuật là 1 mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.(Hồ
Chí Minh)
-Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo 1 vài kiểu mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.
(Nam Cao-Đời thừa)
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “ĐỜI THỪA” CỦA NAM CAO – NGUYỄN
HOÀNH KHUNG
Được đăng Tháng Ba 17, 2010 VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG (DÀNH
CHO HỌC SINH CỦA TÔI) 21 Comments
Thẻ:nam cao, nguyễn hoành khung, đời thừa
Đời thừa là truyện về một nhà văn nghèo bất đắc dĩ. Đề tài ấy không thật mới:
đương thời, đã có Mực mài nước mắt (Lan Khai), Nợ văn (Lãng Tử), nhiều trang tuỳ bút
của Nguyễn Tuân, nhiều vần thơ của Tản Đà, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân…, hai câu
thơ rất quen thuộc của Xuân Diệu: “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt – Cơm áo không đùa
với khách thơ”… Tất cả đều đã nói thấm thía về cảnh nghèo túng đáng thương của
người cầm bút.
Đời thừa cũng như một số sáng tác của Nam Cao gần gũi với nó về đề tài, giọng
điệu, tư tưởng: Trăng sáng, Nước mắt, Sống mòn… – đã ghi lại chân thật hình ảnh buồn
thảm của người tri thức tiểu tư sản nghèo. Tuy không đến nỗi quá đen tối, “tối như
mực” lắm khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân -, như cuộc sống của quần

chúng lao động thường xuyên đói rét thê thảm, nhưng cuộc sống của những người “lao
động áo trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng toàn một màu xám nhức nhối:
“không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” (Xuân Diệu). Vì nghèo túng triền miên, vì “chết
mòn” về tinh thần.
Trong bức tranh chung về cuộc sống người tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã góp
vào những nét bút rất mực chân thật và sắc sảo, làm cho hình ảnh vừa bi vừa hài của lớp
người này trở nên đầy ám ảnh.
Trong mảng sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có một vị trí
đặc biệt. Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ngòi bút Nam
Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật
cơ bản của nhà văn. Có điều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không xảy ra
trên bề rộng mà chủ yếu tập trung đi vào bề sâu.
Giá trị của Đời thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thật cuộc sống nghèo
khổ, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải
với ngòi bút vuốt ve, thi vị hoá, mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ v.v…
Cách nói đó dường như xác đáng, song chỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp thứ nhất, lớp
bên trên của tác phẩm. Mà với Nam Cao, cách nhìn như vậy thật tai hại, vì nó “bất cập”,
vô tình thu hẹp và hạ thấp rất nhiều tầm tư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có
nhiều lớp nghĩa, tư tưởng truyện không phải luôn trùng khít với nội dung cuộc sống
đựơc phản ánh trong truyện. Trong khi dựng lại chân thật tình cảnh nhếch nhác của
người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần
của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc.
Chuyện Hộ “mê văn”, có “hoài bão lớn” về văn chương và khao khát tên tuổi
chói sáng, là một hiện tượng phổ biến, có ý nghĩa điển hình.
[…]
Với Đời thừa (sau đó là Sống mòn), Nam Cao đã đề cập gần như trực diện tới vấn
đề cá nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân – vấn đề mà lâu
nay, người ta tưởng đâu chỉ đặt ra trong văn học lãng mạn đương thời.
Quả là chủ đề cá nhân không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công

Hoan, nhưng lại là chu đề tâm huyết của Nam Cao. Và niềm khao khát được làm đầy
trái tim, khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, chói sáng, vượt lên trên cái bằng phẳng
tầm thường, sự ghê sợ điệu sống mòn mỏi, đơn điệu, vô vị…, là những điều da diết ở
tác giả Phấn thông vàng, Kinh cầu nguyện của những kẻ đi làm, tác giả Thiếu quê
hương, Tuỳ bút (I, II), Chiếc lư đồng mắt cua…, nhưng cũng chính là những điều nung
nấu ở tác giả Đời thừa, Sống mòn. Chủ đề ấy chính là một biểu hiện mới mẻ của chủ
nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam thế kỷ XX này. Có điều là, nếu như phần nhiều
cái “tôi” trong văn học lãng mạn trong khi giãy giụa “nổi loạn” “chống lại xã hội thù
địch với nó, nó càng ngày càng khép kín, chỉ còn tự thực hiện và tự “phát triển” trong
sự đối lập với xã hội; thì ở Nam Cao, yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân luôn gắn
liền với trách nhiệm xã hội, hướng theo lí tưởng nhân tạo tiến bộ. Hoài bão cá nhân mà
Hộ say mê đạt tới để tự khẳng định trước cuộc đời là một sự nghiệp văn chương, nhưng
là thứ văn chương chân chính, mang tinh thần nhân đạo cao đẹp, “nó ca ngợi tình
thương, lòng bác ái, sự công bình”…
Có lẽ trong văn học đương thời, không ai ngoài Nam Cao đã đặt ra vấn đề cá
nhân một cách đúng đắn và tiến bộ như vậy.
Nhưng cái xã hội ấy nếu kích thích sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì đồng thời, đã
đẩy cá nhân vào tình trạng bị đè bẹp. Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm
trong đời sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó.
“Hoài bão lớn” mà Hộ quyết đạt tới bằng một ý chí phi thường đã không thể thực
hiện được. Hộ gặp Từ giữa lúc người con gái bất hạnh đó đang “đau đớn không bờ
bến”: bị một gã Sở Khanh bỏ rơi với đứa bé mới đẻ… Hộ đã “cuối xuống nỗi đau khổ
của Từ (…) mở rộng đôi cánh tay đón lấy Từ”. Trước số phận đau khổ của con gnười,
anh không còn có thể coi “nghệ thuật là tất cả” mà đã hành động như một con người
chân chính. Nhưng điều đó đã gây nên nguy cơ phá hỏng sự nghiệp của anh. Từ khi
“ghép cuộc đời của Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo”. Hộ
không thể “khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất” như trước đây, mà trái lại, phải ra
sức kiếm tiền. Và “những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí nhưng không thể không nghĩ tới,
ngốn một phần lớn thì giờ của hắn”. Nhưng không phải chỉ thì giờ.
Vì phải kiếm tiền – trong điều kiện, khả năng của Hộ, cách kiếm tiền duy nhất là

sáng tác – Hộ không thể viết thận trọng, nghiêm túc theo yêu cầu của nghệ thuật chân
chính. Anh “phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng (…) phải viết những bài báo để
người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Đây là điều vô cùng đau đớn với một người
như Hộ. Không phải anh không được viết, mà là phải viết thứ văn chương mà một
người có lí tưởng nghệ thuật cao đẹp, có lương tâm nghề nghiệp, có khát vọng vươn tới
đỉnh cao nghệ thụât như anh, không thể nào chấp nhận được. Thế là, Hộ đã phản bội lại
chính mình. Nhà văn chân chính nơi anh cảm thấy hết sức đau đớn, nhục nhã chứng
kiến gã “bất lương”, “đê tiện” cũng chính là anh đang làm thứ hàng giả: “Chao ôi! Hắn
đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất
nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá
ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến cho văn chương”.
Là người hiểu rất rõ viết văn là một hoạt động sáng tạo không ngừng, phải “khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”, Hộ cay đắng nhận ra rằng
mình “là một kẻ vô ích, một người thừa”, bởi vì, “hắn chẳng đem một chút mới lạ gì
đên cho văn chương”. Người nghệ sĩ sáng tạo trước đây trong Hộ đã chết. Hộ đau buồn
vô hạn vì cảm thấy đời mình đã bỏ đi, không gì cứu vãn được: “Thôi thế là hết! Ta đã
hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”. Tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ là ở đó.
Đây không phải chỉ là bi kịch của một nhà văn không thành đạt, cũng không phải
là bi kịch “vỡ mộng” của những chàng trai nghèo tỉnh lẻ cay cú muốn nhập vào xã hội
thượng lưu Pari nhưng bị ném trả tàn nhẫn trong tác phẩm của Banzắc. Đây là bi kịch
của con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn vươn lên một cuộc sống chân chính,
trong đó cá nhân được phát triển bằng sự nghiệp tinh thần có ích cho xã hội, nhưng đã
bị nhấn chìm trong lối sống mà anh ta rất khinh ghét vì không xứng đáng với con người.
“Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì để nâng cao giá trị đời sống
của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Trong
Sống mòn, cuốn tiểu thuyết dày dặn đã triển khai một cách hệ thống chủ đề này, tiếng
kêu đó lại cất lên một cách thống thiết: “Đau đớn thay những kiếp sống khao khát muốn
lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất!” Cũng như nhà văn Hộ, anh giáo Thứ đau đớn
vì cuộc đời khốn nạn cứ bắt anh phải sống “cái lối sống quá ư loài vật, chẳng biết một
việc gì ngoài cái việc đổ thức ăn vào dạ dày”! Đó là nỗi đau tinh thần to lớn, không

nguôi và không gì có thể xoa dịu được đối với người trí thức khát khao sáng tạo, khát
khao khẳng định trước cuộc đời “khao khát muốn lên cao”…
Xoáy sâu vào bi kịch tinh thần này, Nam Cao đã lên án sâu sắc cái hiện thực tàn
nhẫn đã vùi dập mọi ước mơ, hoài bão của con người, tước đi ý nghĩa sự sống chân
chính thật sự xứng đáng với con người.
*
* *
Nhưng tấn bi kịch tinh thần của nhà văn Hộ không chỉ có thế. Từ cái bi kịch đau
đớn dai dẳng vì phải sống cuộc “đời thừa”, Hộ cũng đã lâm vào một bi kịch thứ hai
cũng rất đau đớn, thậm chí, đau đớn hơn nữa. Đó là bi kịch của con người coi tình
thương là nguyên tắc, là đạo lí cao nhất, nhưng lại vi phạm vào chính nguyên tắc, đạo
lí thiêng liêng đó của mình.
Trước mắt Hộ, có một con đường giải thoát: thoát li vợ con. Có thế anh mới có
thể rảnh rang theo đuổi sự nghiệp văn chương là lẽ sống của đời anh. Tức là để đạt được
“hoài bão lớn”, thực hiện được lí tưởng mà anh hằng say mê, anh phải tự gỡ bỏ sợi dây
ràng buộc của tình thương. Đã có cả một triết lí cao siêu, đầy hấp dẫn bênh vực, khuyến
khích anh làm điều đó. Một triết gia nổi tiếng phương Tây đã ném ra câu nói hùng hồn:
“Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Câu nói có giọng điệu của chủ nghĩa
siêu nhân của Nitsơ, tư tưởng gia tiền bối của chủ nghĩa phát xít đó, không phải không
có sức hấp dẫn đối với những kẻ đang khát khao “sống cho mạnh mẽ”, khao khát khẳng
định cá nhân như Hộ.
Nhưng mặc dù nỗi đau đớn vì “đời thừa” to lớn đến đâu, nỗi mong mỏi được giải
thoát mãnh liệt đến đâu. Hộ vẫn không thể lựa chọn cách giải quyết ấy. Bởi vì, thoát li
vợ con để rảnh thân – dù là vì gì chăng nữa – vẫn cứ là tàn nhẫn, vứt bỏ lòng thương.
“Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương;
có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người”. Như
vậy là, với Hộ, tình thương là tiêu chuẩn xác định tư cách làm người; không có tình
thương, con người chỉ là “một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái”. Khi cuộc đời tàn
nhẫn buộc anh phải lựa chọn một trong hai thứ: nghệ thuật và tình thương, anh đã hi
sinh nghệ thuật để giữ lấy tình thương, hi sinh lẽ sống thứ nhất cho lẽ sống thứ hai, dù

đây là sự hi sinh quá lớn đối với anh. Như vậy là, một lần nữa, người nghệ sĩ say mê lí
tưởng nghệ thuật, có thể hi sinh tất cả cho nghệ thuật ấy, đã hi sinh nghệ thuật cho tình
thương, cái mà anh còn thấy cao hơn cả nghệ thuật. Việc dứt khoát đặt tình thương,
trách nhiệm đối với con người lên trên nghệ thuật như vậy, cũng như lời phát biểu của
Hộ về thế nào là một tác phẩm văn chương “thật giá trị” cho thấy cái gốc nhân đạo sâu
vững của nhà văn lớn Nam Cao.
Sự lựa chọn của Hộ ở đây khó khăn, phức tạp và cao hơn sự lựa chọn của Điền
trong Trăng sáng. Ở Điền là sự lựa chọn giữa hai con đường nghệ thuật: lãng mạn thoát
li và hiện thực nhân đạo; lựa chọn giữa hai lối sống: hưởng lạc, phù phiếm, chạy theo sự
quyến rũ của những “người đàn bà nhàn nhã ngả mình trên những cái ghế xích đu, nhún
nhẩy”, phản bội lại vợ con và tất cả những người nghèo khổ lam lũ lầm than, hay trở về
chỗ đứng giữa họ, chung thuỷ với họ. Từ bỏ nghệ thuật lãng mạn thoát li để đến với
nghệ thuật hiện thực, với Điền, là cưỡng lại sự quyến rũ tội lỗi, là sự thức tỉnh của
lương tâm, sự giác ngộ của tâm hồn. Sự lựa chọn ấy đem đến cho Điền niềm yên tâm và
sức mạnh mới.
Ở Hộ có khác. Anh từ bỏ nghệ thuật không phải như từ bỏ một đam mê tội lỗi,
cũng không phải như từ bỏ một sở thích, sở nguyện. Nghệ thuật với anh có ý nghĩa lớn
lao, thiêng liêng hơn nhiều. Đó là lẽ sống đời anh, là lí tưởng anh hằng theo đuổi, là cái
chứng tỏ sự có mặt của anh trên cõi đời này. Chính vì vậy mà, tuy Hộ không băn khoăn
nhiều khi phải lựa chọn tình thương, trách nhiệm thay cho nghệ thuật, khi từ chối lời
kêu gọi thoát li vợ con để được “sống cho mạnh mẽ” và thực hiện “hoài bão lớn” của
đời mình, nhưng sau sự lựa chọn ấy anh không thể yên tâm thanh thản mà vẫn đau khổ
dai dẳng, lúc ngấm ngầm âm ỉ, lúc nhói lên dữ dội. Và anh cứ bị giày vò bởi mặc cảm
cay đắng là đang sống một cách vô ích, vô nghĩa, là “một người thừa”. Con người “khao
khát bay lên cao” và không thiếu tài năng và ý chí để thực hiện khao khát của mình ấy
làm sao không đau khổ u uất trong tình cảnh đó? Hộ đã cố hi vọng sau vài năm bỏ phí
để kiếm tiền, cho người vợ có được cái vốn con để làm ăn, anh lại có thể trở lại với con
đường sự nghiệp của mình. Nhưng cuộc sống cơm áo ngày càng chẳng dễ dàng khiến
cho hi vọng của Hộ trở thành hão huyền và tình cảnh của Hộ trở nên hoàn toàn bế tắc.
Gánh nặng cơm áo chẳng hề nhẹ đi mà cứ ngày càng nặng thêm mãi: “Đứa con này

chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài,
quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. (…) Hộ điên người lên vì
phải xoay tiền”. Và những “bận rôn tẹp nhẹp vô nghĩa lí” đó chẳng những làm tiêu tan
hi vọng về sự nghiệp của Hộ mà còn thường xuyên phá hoại sự yên tĩnh, thư thái của
tâm hồn là điều rất quan trọng đối với người trí thức sáng tạo: “ Hắn còn điên lên vì con
khóc, nhà không lúc nào yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá,
bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ
ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà,
hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra
phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Đi ra phố để thoát khỏi “không khí bực tức ở trong nhà”
hay tìm người bạn nào để nói chuyện văn chương cho vơi nỗi lòng, nhưng chẳng đi đâu
trốn được bản thân mình, Hộ chỉ càng nung nấu thêm tâm sự u sầu: “Hắn lặng lẽ nghĩ
đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ
phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ
quê hương (…) Lòng hắn rũ buồn”…
Như một thông lệ, người nghệ sĩ bất đắc chí ấy tìm đến sự giải sầu giải uất trong
men rượu. Nhưng cả rượu cũng chẳng làm vơi đi mà chỉ như càng làm cho anh thấm
thía thêm nỗi khổ sở đắng cay của mình. Và anh trút nó vào vợ con mà anh thấy là
nguồn gốc trực tiếp của tình cảnh bế tắc của đời anh. Con người giàu tình thương, đã
từng hi sinh những gì quý giá, thiêng liêng của mình cho tình thương và trách nhiệm đối
với vợ con đó, đã hơn một lần đối xử phũ phàng thô bạo với vợ con mình, như một gã
vô lại. Anh đã gây khổ cho người vợ rất đáng thương, “rất ngoan, rất phục tùng, rất tận
tâm” đối với anh và cũng khổ sở không kém gì anh. Tức là anh đã vi phạm vào nguyên
tắc, đạo lí làm người cao nhất của chính mình.
Thành ra muốn “nâng cao giá trị sự sống” bằng cao vọng về sự nghiệp thì cứ phải
sống như một kẻ “vô ích”, một “người thừa”; chỉ còn cò thể cố giữ lấy tình thương như
là lẽ sống cuối cùng thì lại cứ tàn nhẫn, luôn gây khổ cho những người cần được yêu
thương, đáng được yêu thương.
Cái bi kịch thứ nhất – không thực hiện được hoài bão lớn – tuy rất đau đớn nhưng
còn lí do để an ủi: hi sinh sự nghiệp vì tình thương,c òn bi kịch thứ hai này – lẽ sống

tình thương bị vi phạm – thì không có gì an ủi, biện hộ được. Và nếu Hộ phải từ bỏ con
đường sự nghiệp là do áp lực của hoàn cảnh, thì sự vi phạm vào nguyên tắc tình thương
lại trực tiếp do bản thân anh. Vì thế mà nó chua xót vô cùng,. Tỉnh rượu, nhớ lại hành vi
của mình, Hộ hối hận tới đau đớn. Khi rón rén bước lại gần người vợ đang nằm bế con
ngủ mệt trên võng, nhận ra từ cái “dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não”, “cái tướng
vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ”, từ khuôn mặt xanh xao, có cạnh, có đôi mắt thâm
quầng, đến bàn tay “xanh trong xanh lọc”, “lủng củng rặt những xương”…, tất cả đều
“lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả”, “một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật
vật”, Hộ đã “khóc núc nở”, nước mắt “bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp
mạnh”… Anh đau đớn vì nghĩ đến lối cư xử tồi tệ của mình đối với người vợ đáng phải
được anh an ủi, che chở đó… Tiếng khóc của Hộ, cũng giống như tiếng khóc của nhân
vật Thứ trong Sống mòn – nghe tin Đích ốm nặng, Thứ thầm mong Đích chết, và ngay
lúc ấy, Thứ đã khóc -, là những tiếng khóc “khóc cho cái chết của tâm hồn”. Hộ nghẹn
ngào nói với Từ, giọng nói đẫm nước mắt: “Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn
nạn”. Anh không thể nào tha thứ cho mình.
Trong sáng tác, Nam Cao đã nhiều lần đề ập và ca ngợi nuớc mắt. Nhân vật tiểu
tư sản của ông có không ít tật xấu và lỗi lầm, nhung thường là những người hay bị hối
hận giày vò và thường khóc vì hối hận. Đó không phải là thứ “hối hận” ồn ào hời hợt
của những kẻ lấy việc xỉ vả mình để khoe khoang; cũng không phải thứ hối hận có chu
kì củ nhiều kẻ tiểu tư sản dùng để xoa dịu cái lương tâm rách nát của mình trong khi
vẫn buông mình theo cái xấu. Mà đó là sự giằng xé chảy máu của những tâm hồn trung
thực, khát khao hướng thiện. Với Nam Cao, nước mắt là biểu tượng của tình thương và
ông gọi nước mắt là “giọt châu của loaì người”, là “miếng kính biến hình vũ trụ”. Giọt
nước mắt của Hộ lúc này đã thanh lọc tâm hồn, nâng đỡ nhân cách của anh, giữ anh lai
trước vực thẩm sa ngã.
Điều đáng chú ý là trong khi miêu tả rất chân thực tình trạng con người bị đẩy
vào chỗ phải tàn nhẫn, Nam Cao vẫn dứt khoát lên án cái ác, bảo vệ tình thương. Nếu
đương thời, không ít cây bút gọi là “tả chân”, là “xã hội”, đã đồng tình, biện hộ và đề
cao những nhân vật vứt bỏ lương tâm, vứt tình thương yêu đồng loại, tự cho phép làm
điều ác nhân danh sự trả thù xã hội bất công tàn bạo, thì Nam Cao trước sau không bao

giờ chấp nhận cái ác. Nhân vật của ông dù lâm vào tình thế bi kịch bế tắc, vẫn vật vã
quằn quại cố vươn lên lẽ sống nhân đạo.
Song, nước mắt chỉ là… nước mắt; nó đâu phải là sức mạnh vạn năng để có thể
xoay lại cuộc đời, cứu được loài người! Nhân vật của Nam Cao vẫn bế tắc và bi kịch
của họ không cách gì gỡ ra được. Tác phẩm của Nam Cao không mở ra triển vọng cho
sự giải thoát. Và thực ra, làm cho con người “thoát khỏi những xiềng xích của cái đói và
cái rét” (Sống mòn), để không chỉ hoạt động kiếm sống trong “vương quốc tất yếu” mà
còn có thể bước ra hoạt động trong “vương quốc tự do” – the cách nói của Mác – để con
người có thể phát triển tự do và toàn diện, là việc mà lịch sử không dễ dàng thực hiện.
Nhưng, từ những câu chuyện sinh hoạt thường nhật bề ngoài tầm thường Nam Cao đã
gióng lên tiếng chuông báo động về sự huỷ diệt giá trị sự sống và nhân cách. Đó cũng là
lời kêu cứu thống thiết: hãy bảo vệ tình thương để cứu lấy con người, và con người hãy
tự cứu lấy mình!
[…] Xây dựng nhân vật Hộ, Nam Cao không quan tâm đến việc khắc hoạ tính
cách bằng những nét cá tính độc đáo gây ấn tượng đậm – khác với đám nhân vật trong
Giông tố, Số đỏ, Tắt đèn và cả Chí Phèo. Ông tập trung đi sâu vào đời sống nội tâm
nhân vật và làm nổi bật bi kịch tinh thần của người trí thức đó. Và ở đây, nổi bật sở
trường miêu tả, phân tích tâm lí con người của nhà văn, nhất là khi miêu tả sự diễn biến
tâm lí và cho thấy quy luật tâm lí con người. Có thể nói, trong đội ngũ tác giả văn xuôi
đông đảo nhiều tài năng đương thời, chưa có ai có được ngòi bút tinh tế, sâu sắc trong
việc khám phá, thể hiện tâm lí như Nam Cao. Sức hấp dẫn nghệ thuật của Đời thừa – và
của mảng sáng tác về người tiểu tư sản của Nam Cao – một phần quan trọng cũng là ở
đó.
ĐÔI LỜI VỀ THƠ LORCA – HOÀNG HƯNG
Được đăng Tháng Một 17, 2011 PHÊ BÌNH VẰN HỌC Leave a Comment
Thẻ:Lorca
ĐÔI LỜI VỀ THƠ LORCA

“Con hoạ mi Andalusia đã bị sát hại!” Tiếng kêu ấy truyền đi khắp các trung
tâm văn hoá châu Âu một ngày mùa thu năm 1936 báo hiệu mở màn cuộc tàn phá

nền văn minh nhân loại. Sau đó là Guernica… là Ban Lan… là chiến tranh thế giới…

Federico Garcia Lorca, nhà thơ lỗi lạc của Tây Ban Nha, là một trong những
nạn nhân đầu tiên của chủ nghĩa phát xít. Bị bọn tướng lĩnh phản bội nền Cộng hoà
bắt giữ ngày 17-8-1936, thi thể anh được tìm thấy trong đống xác 15.000 người bị
bắn ngày 19-8 trên miệng một vực sâu ở ngoại vi thành phố. Granada của đời anh,
của sự nghiệp anh, nơi anh sinh ra, nơi anh về để nhận cái chết thảm khốc. “Nếu có
ngày, nhờ Trời, tôi được vinh quang, thì vinh quang ấy phân nửa là thuộc về
Granada, nơi đã tạc nặn nên cái tạo vật tôi: thi sĩ bẩm sinh không thể cái hồi”.

Granada là một trong bốn thành phố lớn(1) của xứ Andalusia ở miền Nam Tây
Ban Nha, xứ sở của những nàng Carmen, những điệu nhảy và bài hát mê cuồng, của
những hội đấu bò tót làm máu đập thành tiếng trên vạn đôi môi, của những rặng ô-liu
ngăn ngắt, những vườn cam và hoa nhài ngát hương đêm hè khiến “những người
đang ngủ bỗng khát thèm từ bao lơn nhảy xuống”. Xứ sở đặc hữu sự giao hoà hai nền
văn minh Đông – Tây: nơi đây đã từng là “một trong những vương quốc đẹp nhất của
châu Phi” mà người A-ráp xây dựng nên, còn để lại bao dấu tích trong kiến trúc,
trong nghệ thuật, trong hồn người, để lại trong không gian một cái gì mơ hồ, xa xăm,
huyền bí…(2)

Sinh ra ở một làng quê gần thành Granada(3), trong một gia đình nông dân bậc
trung thuộc một dòng họ lâu đời, nhà thơ thừa hưởng ở người cha tâm hồn gắn bó với
đất đai, thiên nhiên, ở người mẹ trí thông minh và những năng khiếu nghệ thuật(4).
Tuổi thơ anh hoàn toàn “thôn dã” với “những đàn cừu, đồng ruộng, bầu trời, sự cô
tịch” như về sau anh kể lại. Đến năm 1909 gia đình anh mới dọn lên thành phố, và ở
Granada thủ phủ xưa của xứ Andalusia, Lorca đã trải qua thời cắp sách ở bậc trung
học và đại học. Một sự việc rất có ý nghĩa: ở khoa luật của đại học Granada, anh sinh
viên Lorca đã gặp được một người thầy, một người anh tinh thần, một người bạn lớn,
đó là giáo sư Fernando de los Rios, một nhà lí luận về chủ nghĩa xã hội, một niềm
vinh dự của nền đại học Tây Ban Nha lúc đó, và sau này là bộ trưởng giáo dục trong

chính phủ mặt trận bình dân.

Mùa xuân năm 1929, theo lời khuyên của giáo sư, Lorca lên Madrid trú ngụ ở
cư xá sinh viên, nơi đang mở rộng cửa đón nhận những tư tưởng triết học và mĩ học
mới mẻ nhất của thời đại. Chính ở đây Lorca đã bắt đầu tình bạn với Salvador Dali –
hoạ sĩ, Bunuel – nhà điện ảnh, Rafael Alberti, Pedro Salinas – nhà thơ… Và chính ở
nơi đây, thi tài của anh đã được khẳng định và chào đón trong nhiệt thành của những
người bạn trẻ. Bạn bè anh kể lại: Lorca có một sức quyến rũ lạ lùng, từ con người
anh với phong độ thanh quý, vẻ vui hoạt, đôi mắt u tối nhưng lại tươi cười, nước da
màu đồng, giọng nói như đồng, “một cái gì như chớp loá trong thể chất, một năng
lượng luôn luôn chuyển động, một niềm vui, một sự bộc phát mãnh liệt, một vẻ trìu
mến hoàn toàn siêu việt.

Con người anh kì diệu, màu nâu, kêu gọi sự toàn phúc” (Pablo Neruda), đến kì
tài ngẫu hứng của anh về nhạc, về hoạ, về sân khấu, về thơ, cả sáng tác lẫn thể hiện
(trước khi học văn và luật, Lorca đã say mê âm nhạc, anh còn là một hoạ sĩ có nét vẽ
duyên dáng, là một người chơi dương cầm đặc sắc).

Từ những đêm thơ nhạc trong khuôn viên cư xá sinh viên, tiếng tăm nhà thơ
trẻ Andalusia vang ra khắp thủ đô. Giữa làng thơ Madrid lúc đó đang ồn ào những
khuynh hướng thâm nhập từ Paris, đặc biệt là trường phái siêu thực – mà biến dạng
của nó tại các nước nói tiếng Tây Ban Nha có tên gọi là “sáng tạo chủ nghĩa”
(créationnisme) hay “cực đoan chủ nghĩa” (ultraisme) – giữa lúc nhiều người ầm ĩ
kêu gọi “Âu hoá Tây Ban Nha”, mà để chống lại, nhà thơ lớp cũ Unamuno bèn
xướng lên điều ngược lại “Phi hoá châu Âu” – thơ Lorca nổi bật lên xu hướng trở về
khai thác dân ca, tìm lại những truyện thơ trữ tình và lịch sử còn lưu truyền trên
miệng người dân quê tỉnh lẻ. Thế hệ thơ anh đã tìm thấy ở anh người mang sứ mệnh
đẹp đẽ: Tìm lại tâm hồn Tây Ban Nha đang có nguy cơ bị quên lãng, nối kết cái
truyền thống với cái thời đại.


Tập thơ đầu tay của Lorca ra đời năm 1921 đã báo hiệu sự hình thành thi tài,
phong cách và hướng đi của anh. Nhưng phải đến những bài thơ sáng tác từ năm
1921 trở đi (sau này được tập hợp trong tập “Thơ và bài hát”) mới định hình cái
giọng hót riêng quyến rũ của con “hoạ mi Andalusia”. Thời gian này Lorca say mê
tìm tòi, ghi chép, thu thanh dân ca, đến nỗi có người bạn gọi anh là “chàng hát rong
thời trung cổ”. Năm 1922, anh cùng với nhạc sĩ Manuel de Falla tổ chức hội Cante
Hondo ở Alhambra (nơi có cung điện quốc vương A-rap của vương quốc Granada
xưa). Cante Hondo (có nghĩa là bài hát sâu trầm) là loại dân ca độc đáo của miền
Andalusia. Qua hội này, anh đã khai thác được hàng trăm bài Cante Hondo với “lời
ca say đắm”, “giai điệu cũ xưa”, tha thiết và ám ảnh như tiếng “một con hoạ mi mù
ca hót”. (Người giật giải thưởng của hội là một ông cụ 73 tuổi!). Chính đây là khởi
nguồn những bài thơ tuyệt vời mười năm sau sẽ ra mắt trong tập “Thơ về những làn
điệu Cante Hondo” trong đó những thể dạng chủ yếu của loại dân ca này (Séguidilla,
Soléa, Saéta, Petenera) được nhân cách hoá, được diễn tả trong thế giới thích hợp với
từng thể, có các nhân vật và phong cảnh khác nhau.

Năm 1924 anh bắt tay viết những bài romance hiện đại. Romance là thể thơ có
nguồn gốc từ lâu đời ở các nước dùng ngôn ngữ La-tinh, nhưng đặc biệt phát triển ở
Tây Ban Nha, đó là những bài ca dân gian kể chuyện lịch sử, chuyện anh hùng hiệp
sĩ hay tình yêu. Năm 1928, Tập romance gi-tan ra đời đã thành công một cách phi
thường. Tên tuổi nhà thơ trẻ vượt biên giới quốc gia (tập thơ được dịch ra 20 thứ
tiếng), đồng thời nhiều bài romance lại quay về thâm nhập các làng quê Tây Ban Nha
và được lưu truyền như những bài dân ca, đặc biệt là trường hợp bài Cô nàng ngoại
tình. (Sau này trong khi đưa đoàn kịch La Barraca đi lưu diễn các miền quê, Lorca đã
có dịp được những cô gái làng đọc cho nghe từng đoạn trong những romance của
anh). Tập romance gi-tan được coi là tập thơ phổ biến rộng rãi nhất trong thơ ca hiện
đại Tây Ban Nha.

Lorca đã giải thích tên tập thơ của mình: “Tôi đặt tên tập romance này là “gi-
tan”, bởi vì trong đó tôi ca hát xứ Andalusia, mà chất gi-tan là biểu hiện thuần tuý

nhất, đích thực nhất của xứ sở ấy”.

Người gi-tan ở Tây Ban Nha, cũng như người digan ở Nga, người Bohemien ở
Tiệp, Pháp… có gốc Ấn Độ, làm thành những cộng đồng du cư độc đáo của châu Âu.
Và có lẽ chính ở vùng Andalusia, họ đã tìm thấy quê hương, cây ghi-ta và những vũ
điệu của giống người lang bạt đầy quyến rũ đã làm nên linh hồn của xứ này. Sau Tập
romance gi-tan, người ta gọi Lorca là “nhà thơ Gi-tan”. Được gọi thế anh cảm thấy
thích thú, có lúc anh còn nửa hư nửa thực gợi ra một giai thoại về “nguồn gốc gi-tan”
bí mật của mình.

Xứ sở Andalusia đã cho Lorca giọng điệu đích thực để hát về nó. Trong một
bức thư gởi nhà thơ Guillen, Lorca viết: “Tôi chỉ muốn nói với anh rằng tôi ghét
giọng đàn sáo réo rắt. Tôi yêu giọng con người, chỉ giọng con người mà tình yêu
phơi trần, giọng con người nổi bật lên giữa những phong cảnh giết người”.

Những phong cảnh giết người có sức cuốn hút mãnh liệt. Phải chăng cái dữ dội
của “cánh đồng dựng đứng dưới hai mươi mặt trời, những dòng sông chồm lên”, cái
đau đớn của “rặng Morena mạn sườn nhỏ máu”, cái “hoang vu lượn sóng” hấp dẫn ta
với vẻ đẹp nghiêm trầm, bạo liệt đầy nam tính?

… Và nổi lên, trần trụi, giọng con người

Con người thơ Lorca “miệng đầy nắng và đá lửa”, rên lên, kêu lên nỗi khao
khát đốt cháy cơ thể, “làn áo và thịt da hoá thành huyền đen thẫm”, mê cuồng như

×