Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.5 KB, 26 trang )

Nguyên tắc đồng thuận nghịch hay đồng thuận phủ quyết
(Negative consensus) Là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của
Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO. Với nguyên tắc đồng thuận
nghịch thì các vấn đề sẽ khơng được thông qua nếu tất cả các Thành viên
của DSB nhất trí khơng thơng qua.
Phá giá (Price dumping): Một loại phá giá được xác định trong
các cuộc đàm phán Hiến chương Havana nay chịu sự điều chỉnh tại Điều
VI của GATT. Phá giá được dựa vào khái niệm là các nhà xuất khẩu bán
hàng hố ra nước ngồi với giá thấp hơn giá tại thị trường trong nước, và
điều này có thể gây ảnh hưởng có hại cho ngành cơng nghiệp ở nước
nhập khẩu sản xuất sản phẩm tương tự.
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển
hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Quyền liên quan đến quyền tác giả (quyền liên quan) là quyền
của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh khơng lành mạnh.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản
trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Ràng buộc thuế quan (Tariff binding): Cam kết không nâng thuế
suất vượt quá một mức cam kết. Một khi thuế suất được ràng buộc, một
nước tăng thuế phải bồi thường cho các đối tác thương mại bị ảnh hưởng.
Rào cản thương mại (trade barrier) là các công cụ nhằm hạn chế
hàng hóa xuất nhập khẩu (thường là nhập khẩu) bao gồm thuế nhập khẩu


và các công cụ phi thuế quan như hạn ngạch, trợ cấp,…

33


Sở hữu trí tuệ: quyền của chủ sở hữu đối với tài sản vơ hình là
thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể được
pháp luật quy định bảo hộ.
Sự công nhận (Recognition): Việc một nước công nhận chất
lượng, tiêu chuẩn và các yêu cầu về giấy phép của một nước khác. Việc
công nhận này có thể có ảnh hưởng đáng kể tới cách tiến hành thương
mại. Theo GATS, việc cơng nhận này có thể được tiến hành đơn phương,
song phương hoặc thông qua việc hài hịa. Nếu một nước cam kết cơng
nhận tiêu chuẩn, chất lượng, hoặc yêu cầu về cấp giấy phép của một
nước nào đó thì nước này khơng cần phải mở rộng sự công nhận này trên
cơ sở MFN. Tuy nhiên nước này cần phải dành cho các nước khác cơ hội
để các nước đó chứng minh rằng họ cũng có thể đáp ứng được tiêu chuẩn
yêu cầu..
Tạo thuận lợi cho thương mại (Trade facilitation): Là việc dỡ
bỏ những trở ngại đối với việc giao lưu hàng hoá qua biên giới (ví dụ
như đơn giản hố thủ tục hải quan).
Tham vấn trong đàm phán lại về ưu đãi. Thủ tục tham vấn này
được nêu tại Điều XXII GATT, theo đó mỗi Bên ký kết phải quan tâm
xem xét một cách thơng cảm và phải dành các khả năng thích ứng để giải
quyết đối với yêu cầu tham vấn của các Bên ký kết khác về bất kỳ vấn đề
nào liên quan tới việc thực hiện GATT nói chung và quy định về đàm
phán lại về ưu đãi nói riêng. Việc thực hiện Điều XXII này được chuyển
sang “Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp” (DSU).
Thủ tục thực hiện tham vấn được quy định cụ thể tại Điều 4 DSU (xem
chi tiết tại phần Giải thích thuật ngữ Chương 12).

Tham vấn trong giải quyết tranh chấp. Là giai đoạn đầu tiên
trong thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO, theo quy định của DSU.
Hoạt động tham vấn là việc các bên tranh chấp tiến hành đàm phán để
thoả thuận giải quyết tranh chấp trên tinh thần hợp tác, hoặc thơng qua
trung gian hồ giải của bên thứ ba. Trong trường hợp các bên tranh chấp
không đạt được giải pháp chung tại giai đoạn tham vấn thì giai đoạn tiếp
theo sẽ là việc thành lập Ban hội thẩm để giải quyết tranh chấp.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo (perfect competition market):
là thị trường bao gồm một số đặc tính sau:
34


- Có nhiều người mua và nhiều người bán một loại hàng hóa nào
đó trên thị trường và khơng một ai có thể tác động làm thay đổi
giá cả (cả người mua và người bán đều là người nhận giá).
- Chi phí gia nhập và thốt khỏi thị trường là bằng khơng.
- Thơng tin hồn hảo; tức là các tác nhân trên thị trường đều có
được thơng tin đầy đủ về đặc tính của nhau và về hàng hóa, dịch
vụ đang trao đổi.
Thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo (perfect competition
market): là thị trường khơng có các đặc tính mà thị trường cạnh tranh
hồn hảo có. Một số dạng của thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo bao
gồm: thị trường có một nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ (độc quyền bán),
thị trường có một số ít người cung cấp hàng hóa, dịch vụ (độc quyền
nhóm – oligopoly), thị trường cạnh tranh độc quyền, hiệu ứng ngoại sinh,
thông tin bất đối xứng,…
Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR): Được thành lập năm
1994, bao gồm Argentina, Brazil, Paraguay và Uruguay. Chile gia nhập
ngày 1 tháng 10 năm 1996, Bolivia gia nhập ngày 1 tháng 3 năm 1997.
Thông tin bất đối xứng (asymmetric information) xảy ra khi các

bên tham gia giao dịch có những thơng tin khơng giống nhau về các đặc
tính của mỗi bên và về các hàng hóa và dịch vụ giao dịch. Thơng tin bất
cân xứng có thể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Các bên
tham gia giao dịch cố tình che đậy thơng tin, người mua khơng có thơng
tin xác thực, đầy đủ và kịp thời nên trả giá thấp hơn giá trị đích thực của
hàng hóa. Hậu quả là người bán cũng khơng cịn động lực để sản xuất
hàng có giá trị và có xu hướng cung cấp những sản phẩm có chất lượng
thấp hơn chất lượng trung bình trên thị trường. Rốt cuộc trên thị trường
chỉ còn lại những sản phẩm chất lượng xấu- những “trái chanh” bỏ đi,
hàng tốt bị loại bỏ, dẫn đến lựa chọn bất lợi (adverse selection) cho cả
hai bên. Như vậy, hiện tượng lựa chọn bất lợi đã cản trở việc giao dịch
trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Thơng tin bất cân xứng cịn gây ra hiện
tượng tâm lý ỉ lại (moral hazard) sau khi hợp đồng đã được giao kết
nhưng một bên có hành động che đậy thơng tin mà bên kia khó lịng
kiểm sốt, hoặc muốn kiểm sốt thì cũng phải tốn kém chi phí.
35


Thuế chống bán phá giá tạm thời (Provisional anti-dumping
duties): Thuế hoặc phí bị tính khi có bằng chứng về một trường hợp bán
phá giá. Các quy định của WTO về các biện pháp chống bán phá giá
cho phép các Chính phủ được đánh thuế chống bán phá giá tạm thời theo
ba điều kiện: (a) có điều tra xác đáng, (b) xác định sơ bộ chắc chắn là có
phá giá và kết quả là gây ra thiệt hại đối với ngành công nghiệp trong
nước, và (c) cơ quan thẩm quyền cho rằng các biện pháp này cần thiết để
ngăn ngừa những thiệt hại gây ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp
về thuế chống bán phá giá tạm thời có thể không vượt quá biên độ bán
phá giá được ước tính tạm thời. Tuy nhiên các quy định của WTO nhấn
mạnh rằng việc yêu cầu đền bù bằng tiền mặt hoặc trái phiếu là thích hợp
hơn. Về nguyên tắc, thuế bán phá giá tạm thời nên được áp dụng không

quá 4 tháng, mặc dù nó có thể được mở rộng tới tận 9 tháng trong một số
trường hợp.
Thuế đỉnh (Tariff peaks): Là mức thuế cao tương đối so với các
mức thuế thấp nói chung, thường áp dụng đối với các sản phẩm “nhạy
cảm”. Đối với các nước công nghiệp thuế suất từ 15% trở lên nói chung
được coi là thuế đỉnh.
Thương mại dịch vụ (Trade in services): Là khái niệm chỉ các
hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, tức là các hoạt động cung
cấp dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Theo quan điểm của
GATS, thương mại dịch vụ là tất cả các hoạt động thương mại được thực
hiện dựa trên bốn phương thức cung cấp dịch vụ là cung cấp dịch vụ qua
biên giới, tiêu dùng dịch vụ ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại và hiện
diện của thể nhân.
Thương mại đa phương (Multilateral Trade): Hệ thống thương
mại đa phương xuất hiện với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT 1947). Thương mại đa phương là thương mại giữa
các Thành viên của GATT trước đây và WTO ngày nay trên qui mơ tồn
cầu được điều chỉnh bởi các qui tắc của GATT trước đây và WTO ngày
nay. Thương mại đa phương khác với thương mại song phương và
thương mại trong khu vực thương mại tự do. Thương mại song phương là
thương mại giữa hai nước hay giữa hai nền kinh tế. Thương mại trong
khu vực thương mại tự do là thương mại trong nội khối của khu vực
36


thương mại tự do. Thương mại song phương và thương mại trong khu
vực tự do được điều chỉnh bởi các hiệp định Thương mại song phương
hoặc các hiệp định Thương mại khu vực.
Thương mại quốc tế (International Trade): Thương mại quốc tế
được định nghĩa là việc trao đổi qua biên giới quốc gia (hoặc lãnh thổ hải

quan) hàng hoá, dịch vụ, yếu tố sản xuất (lao động và vốn). Tổ chức
Thương mại Thế giới còn đưa thêm vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
vào nội dung của thương mại quốc tế.
Tiêu chuẩn (Standards): Các biện pháp để đảm bảo các quy cách
kỹ thuật, các thuộc tính, đặc tính thống nhất cho một sản phẩm hoặc một
ngành dịch vụ. Các tiêu chuẩn này được chia thành các tiêu chuẩn về kỹ
thuật (ví dụ: kích cỡ tối đa, tối thiểu, mầu sắc, cấu thành, v.v...) hoặc các
tiêu chuẩn về tính năng (sản phẩm hoặc dịch vụ cần phải có ít nhất một
tính năng đặc biệt nào đó). Thêm vào đó, các tiêu chuẩn có thể bắt buộc
hoặc tự nguyện.
Tiêu dùng ở nước ngoài (Consumption abroad): Là phương thức
thứ hai trong bốn phương thức cung cấp dịch vụ theo GATS, theo đó,
người tiêu dùng của một Thành viên sẽ sử dụng dịch vụ tại lãnh thổ của
Thành viên khác.
Trả đũa (Retaliation): Theo quy định của DSU, trả đũa là một
trong các biện pháp mà bên thắng kiện có thể áp dụng trong trường hợp
đã hết thời hạn thi hành phán quyết mà bên phải thi hành không tiến hành
điều chỉnh biện pháp thương mại vi phạm cho phù hợp với các nghĩa vụ
theo các hiệp định WTO và phán quyết của DSB. Nội dung của biện
pháp trả đũa là việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa
vụ khác. Trả đũa bao gồm trả đũa song hành và trả đũa chéo. Biện pháp
trả đũa chéo có hai loại: trả đũa chéo lĩnh vực và trả đũa chéo hiệp định.
Thứ tự áp dụng các biện pháp này là: trả đũa song hành, trả đũa chéo lĩnh
vực, trả đũa chéo hiệp định.
Trả đũa chéo hiệp định (Cross - agreement retaliation): Là biện
pháp do bên thắng kiện áp dụng khi bên thua kiện không tiến hành điều
chỉnh biện pháp thương mại vi phạm cho phù hợp với các nghĩa vụ theo
các hiệp định WTO và phán quyết của DSB khi đã hết thời hạn thi hành
phán quyết. Nội dung của biện pháp này là bên thắng kiện tạm hoãn thi
37



hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo một Hiệp định
khác có liên quan.
Trả đũa chéo lĩnh vực (Cross - sector retaliation): Là biện pháp
do bên thắng kiện áp dụng khi bên thua kiện không tiến hành điều chỉnh
biện pháp thương mại vi phạm cho phù hợp với các nghĩa vụ theo các
hiệp định WTO và phán quyết của DSB khi đã hết thời hạn thi hành phán
quyết. Nội dung của biện pháp này là bên thắng kiện tạm hoãn thi hành
những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác trong các lĩnh vực khác với
lĩnh vực mà quyền lợi của bên này bị thiệt hại nhưng trong cùng một hiệp
định.
Trả đũa song hành (Parallel retaliation): Là biện pháp do bên
thắng kiện áp dụng khi bên thua kiện không tiến hành điều chỉnh biện
pháp thương mại vi phạm cho phù hợp với các nghĩa vụ theo các hiệp
định WTO và phán quyết của DSB khi đã hết thời hạn thi hành phán
quyết. Nội dung của biện pháp này là bên thắng kiện tạm hoãn thi hành
những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác trong cùng một lĩnh vực mà
quyền lợi của bên này bị thiệt hại.
Trung tâm trọng tài Quốc tế Giải quyết Tranh chấp Đầu tư
(International Center for Settlement of Investment Dispute –ICSID):
Đây là một định chế của Ngân hàng Thế giới, được thành lập năm 1966
theo Công ước về Giải quyết Tranh chấp Đầu tư giữa Các Quốc gia và
Công dân của Các Quốc gia Khác (Công ước ICSID hay Cơng ước
Washington). Tính đến tháng Năm 2007, 155 nước đã gia nhập Cơng ước
ICSID. ICSID có một Hội đồng Quản trị, do Chủ tịch Ngân hàng Thế
giới làm chủ tịch, và một Ban Thư ký. ICSID cung cấp thể chế hoà giải
và trọng tài cho các tranh chấp đầu tư giữa công dân các nước (các nhà
đầu tư hay dự định đầu tư) và các quốc gia nhận đầu tư (hay dự định
nhận đầu tư).

Tự vệ trong thương mại quốc tế. Tự vệ là các biện pháp mang
tính tạm thời được các nước áp dụng nhằm bảo vệ nền kinh tế trong
nước. Theo quy định của WTO, các quốc gia Thành viên khi thực hiện
các biện pháp tự vệ phải tuân thủ theo các điều kiện và thủ tục nhất định.
Uỷ ban về các biện pháp tự vệ. Điều 13 Hiệp định về các biện
pháp tự vệ quy định: Uỷ ban về các biện pháp tự vệ được thành lập trực
38


thuộc Hội đồng thương mại hàng hoá. Uỷ ban này sẽ để ngỏ cho bất kỳ
Thành viên nào có nguyện vọng tham gia vào Uỷ ban. Các chức năng
của Uỷ ban:
(i) Theo dõi và báo cáo hàng năm cho Hội đồng thương mại hàng
hố về tình hình thực hiện Hiệp định về các biện pháp tự vệ và
đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện tình hình;
(ii) Theo yêu cầu của Thành viên bị ảnh hưởng, điều tra sự tuân
thủ biện pháp tự vệ theo các yêu cầu về mặt thủ tục của Hiệp
định về các biện pháp tự về và báo cáo kết quả cho Hội đồng
thương mại hàng hoá;
(iii) Hỗ trợ các Thành viên, nếu họ yêu cầu, trong quá trình tham
vấn theo các quy định của Hiệp định về các biện pháp tự vệ;
(iv) Kiểm tra các biện pháp nêu tại Điều 10 và khoản 1 Điều 11
Hiệp định về các biện pháp tự vệ, giám sát tiến độ thực hiện
của các biện pháp này và báo cáo cho Hội đồng thương mại
hàng hố khi thích hợp;
(v) Theo yêu cầu của Thành viên áp dụng biện pháp tự vệ, rà sốt
xem liệu các đề nghị đình chỉ các nhượng bộ hay các nghĩa vụ
khác có phải “cơ bản tương đương” khơng và khi thích hợp
báo cáo cho Hội đồng thương mại hàng hoá;
(vi) Thu thập và xem xét lại tất cả các thông báo quy định tại Hiệp

định về các biện pháp tự vệ và khi thích hợp báo cáo cho Hội
đồng thương mại hàng hoá;
(vii) Thực hiện chức năng khác có liên quan tới Hiệp định về các
biện pháp tự vệ, do Hội đồng thương mại hàng hoá quyết
định.
Để hỗ trợ cho Uỷ ban thực hiện chức năng giám sát của mình,
Ban Thư ký sẽ chuẩn bị báo cáo hàng năm về thực tế thực hiện Hiệp định
về các biện pháp tự vệ dựa trên các thông báo và thông tin tin cậy khác.

39


Phần thứ Nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

40


41


Chương I.
TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
PSG.TS. Nguyễn Như Bình
Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế,
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
1.1. HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG:
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1.1. Thương mại quốc tế và hội nhập tồn cầu

Thương mại quốc tế có lịch sử lâu đời. Từ thời trung cổ đã có
hoạt động giao lưu buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi từng khu
vực cũng như giữa Đông và Tây. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư
bản đã dẫn đến sự bùng nổ của thương mại quốc tế, gắn liền với chủ
nghĩa thực dân cũ cướp bóc và nô dịch thuộc địa. Trong suốt các thế kỷ
16, 17 và 18, lý thuyết trọng thương có vai trị thống trị trong việc giải
thích về thương mại quốc tế. Thế kỷ 19 với sự ra đời của lý thuyết lợi thế
tuyệt đối của Adam Smith, nhất là lý thuyết lợi thế so sánh của D.
Ricardo, thương mại thế giới đã được dẫn dắt theo một chiều hướng
khác: chuyên môn hóa và trao đổi, điều đó sẽ mang lại lợi ích cho các
quốc gia tham gia thương mại quốc tế và cho nền kinh tế thế giới.
Hệ thống thương mại đa phương đã được thiết lập cùng với việc
ký kết Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại vào năm 1947
(GATT 1947). Các lý thuyết thương mại quốc tế đã dẫn dắt và cổ vũ cho
xu hướng tự do hóa thương mại trong hệ thống thương mại đa phương.
Kể từ năm 1948 đến nay, thương mại quốc tế đã có những bước phát
triển nhảy vọt. Năm 1948, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thế
giới đạt 58 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 62 tỷ USD. Các con
số tương ứng về tổng kim ngạch xuất khẩu và tổng kim ngạch nhập khẩu
của năm 1980 là 2.034 tỷ USD và 2.075 tỷ USD, năm 1990 là 3.449 tỷ

42


USD và 3.550 tỷ USD, năm 2000 là 6.452 tỷ USD và 6.724 tỷ USD, và
năm 2005 là 10.431 tỷ USD và 10.783 tỷ USD1.
Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng
của tồn cầu hóa. Xu hướng tồn cầu hóa đang diễn ra do nhu cầu hợp tác
ngày càng gia tăng giữa các quốc gia trên thế giới. Tồn cầu hóa nói chung
đã thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Ngược lại trên thực tế

thương mại quốc tế, đặc biệt với sự xuất hiện của hệ thống thương mại đa
phương, đã có đóng góp rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến trình
tồn cầu hóa. Theo tác giả Bordo, Taylor và Williamson 2, đứng trên giác
độ sự vận động của các luồng thương mại, vốn và di cư, trong lịch sử cận
đại đã có bốn làn sóng tồn cầu hóa với những đặc trưng khác nhau. Làn
sóng thứ nhất diễn ra từ năm 1870 cho đến khi bắt đầu chiến tranh thế giới
lần thứ nhất. Làn sóng thứ hai diễn ra trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới. Làn sóng thứ ba diễn ra từ năm 1945 cho đến khoảng năm
1980. Làn sóng thứ tư từ năm 1980 cho đến nay.
Đặc trưng của làn sóng tồn cầu hóa thứ nhất là việc giảm chi phí
vận tải nhờ sự phát triển của hệ thống đường sắt và vận tải biển và việc
giảm các rào cản thương mại. Nhờ đó thương mại quốc tế được mở rộng
mạnh mẽ thông qua việc trao đổi hàng hóa ở khoảng cách xa hơn và
xuyên lục địa. Thời kỳ này còn chứng kiến sự di chuyển vốn quốc tế và
những làn sóng di cư từ châu Âu sang châu Mỹ và châu Úc.
Thời kỳ của làn sóng tồn cầu hóa thứ hai là thời kỳ của những
rối loạn và khủng hoảng kinh tế. Chủ nghĩa bảo hộ đã làm suy giảm
thương mại và di chuyển vốn quốc tế. Trong làn sóng tồn cầu hóa thứ
ba tự do hóa thương mại được phục hồi dẫn đến sự tăng trưởng vượt bậc
của thương mại và đầu tư quốc tế. Tuy nhiên trong khi thương mại giữa
các nước phía Bắc (các nước công nghiệp phát triển) được tự do hóa một
cách căn bản thì thương mại Bắc-Nam cịn bị ngăn cản bởi những rào cản
cả ở các nước đang phát triển và các nước công nghiệp, nhất là đối với
các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm công nghiệp nhẹ. Thương
mại Bắc-Bắc chủ yếu là thương mại nội bộ ngành còn thương mại NamBắc chủ yếu là thương mại của việc trao đổi khống sản và nơng sản để
đổi lấy các mặt hàng công nghiệp.
1
2

Nguồn: />Bordo,Taylor and Williamson, 2003 và World Bank, 2002.


43


Ở làn sóng tồn cầu hóa thứ tư, các rào cản thương mại Nam-Bắc
được dỡ bỏ một cách đáng kể và các nước đang phát triển tham gia mạnh
mẽ vào thương mại quốc tế. Đặc trưng nữa của giai đoạn này là thương
mại của thế giới tăng trưởng nhanh hơn GDP của thế giới. Cơ cấu thương
mại cũng có sự thay đổi một cách căn bản. Rất nhiều nước đang phát
triển đã thốt khỏi tình trạng xuất khẩu nơng sản và khống sản để đổi
lấy hàng cơng nghiệp. Bởi vậy tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo trong
hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển đã tăng lên một cách đáng
kể. Trong giai đoạn này đầu tư nước ngoài cũng có những tăng trưởng
vượt bậc. Tuy nhiên thành quả tồn cầu hóa khơng phải được chia đều
cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển và kém phát
triển chưa tham gia mạnh mẽ và có hiệu quả vào q trình tồn cầu hóa,
do vậy chưa được hưởng lợi nhiều từ tồn cầu hóa. Một số nghiên cứu
cho rằng tồn cầu hóa hiện nay đang có dấu hiệu chững lại.3
Như vậy tồn cầu hóa bên cạnh việc mang lại những lợi ích và cơ
hội phát triển mới cho các quốc gia cịn làm nảy sinh những khó khăn và
thách thức cho các nước, đặc biệt là các nước nghèo. Những khó khăn và
thách thức nổi bật đó là làm thế nào để phát triển năng lực sản xuất một
cách bền vững, cần đa dạng hóa sản xuất như thế nào để bù đắp lại sự
suy giảm của hệ số thương mại, bằng cách nào để đáp ứng được nhu cầu
năng lượng ngày càng gia tăng, làm thế nào để khai thác những tiến bộ
khoa học và công nghệ để đẩy nhanh sự phát triển. Các tổ chức quốc tế
cũng như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang có những nỗ lực
giúp các nước nghèo được hưởng lợi từ q trình tồn cầu hóa.
1.1.2. Thương mại và các hiệp định thương mại
Mục này sẽ phân tích các lý do về mặt kinh tế khiến một nước

tham gia các hiệp định Thương mại quốc tế và trình bày một cách tổng
quan về lịch sử của các hiệp định Thương mại quốc tế cũng như vai trò
của chúng đối với thương mại quốc tế. Các hiệp định Thương mại quốc
tế đã có lịch sử lâu đời, tuy nhiên với mục tiêu của cuốn sách, tác giả chỉ
giới hạn sự xem xét của mình ở trình bày các hiệp định Thương mại
được ký kết sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Đồng thời trong phạm vi
của chương này, tác giả cũng khơng đi sâu trình bày các qui tắc của
3

Giorgio Barba Navaretti (2006).

44


GATT và WTO liên quan đến các hiệp định Thương mại khu vực, bởi vì
nhiệm vụ này sẽ được giải quyết ở các chương sau của cuốn sách.
Trên góc độ kinh tế, có hai lý do chính để một nước tham gia các
hiệp định Thương mại quốc tế:
Thứ nhất, xét về mặt lịch sử, trước Chiến tranh Thế giới lần thứ
II, các nước đua nhau bảo hộ thương mại và thực thi các chính sách mà
kinh tế học quốc tế gọi là “chính sách lợi mình hại người” (beggar-thyneighbor, các chính sách biến hàng xóm thành kẻ ăn mày). Các hiệp định
Thương mại đa phương được ký kết sau chiến tranh có thể giúp các nước
giảm thiểu được ảnh hưởng tiêu cực của các chính sách này, cũng có
nghĩa là tăng lợi ích của các nước tham gia Hiệp định thương mại. Sự
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực và tăng lợi ích đó có được nhờ sự ràng
buộc của việc thực thi các cam kết và các qui tắc trong GATT và WTO.
Chẳng hạn như là việc thực thi các cam kết giảm thuế, đặt ra các ràng
buộc về thuế quan, dỡ bỏ hạn ngạch, giảm thiểu các rào cản phi thuế
quan, thực thi nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch và có thể dự
đốn, ưu đãi hơn cho các nước đang và kém phát triển v.v…

Thứ hai, việc tham gia các hiệp định Thương mại sẽ thúc đẩy tự
do hóa nền kinh tế, làm cho thương mại trở thành một động lực quan
trọng của tăng trưởng kinh tế. Điều đó được minh chứng bởi các lý
thuyết kinh tế học cũng như thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó trên thực tế các Chính phủ
thường gặp nhiều khó khăn khi đưa ra một quyết sách về thương mại liên
quan đến khu vực tư nhân. Những quyết sách đó có thể ảnh hưởng tới
quyền lợi của một nhóm lợi ích. Chẳng hạn quyết định giảm bảo hộ bằng
cách giảm thuế nhập khẩu và cho phép phía nước ngoài gia nhập thị
trường nội địa tự do hơn. Những quyết định như vậy thường gặp phải sự
chống đối mãnh liệt của các doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp
này việc tham gia các hiệp định quốc tế sẽ giúp Chính phủ dễ dàng hơn
trong việc đưa ra các quyết định, các chính sách về thương mại liên quan
đến khu vực tư nhân. Đây cũng là một lý do quan trọng của việc gia nhập
WTO của Việt Nam cũng như của nhiều nước khác.
Hợp tác thương mại truyền thống trước Chiến tranh Thế giới lần
thứ II chủ yếu là hợp tác song phương giữa các quốc gia với nhau. Sau
Chiến tranh Thế giới lần thứ II xuất hiện thêm các hình thức hợp tác mới
45


là hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại đa phương. Hợp
tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại song phương (một hình
thức của hợp tác thương mại khu vực) có vai trị bổ sung và củng cố cho
hợp tác thương mại đa phương. Nhờ đó hệ thống thương mại hoạt động
có hiệu quả hơn và trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng và
phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của các hợp tác thương mại khu vực
và hợp tác thương mại song phương cũng đặt ra những thách thức đối với
hệ thống thương mại đa phương, như việc quản trị mối quan hệ giữa các
hợp tác thương mại khác trong hệ thống thương mại đa phương, sự ưu

tiên lựa chọn của các nước Thành viên đối với hợp tác song phương và
hợp tác khu vực khi đàm phán trong hệ thống thương mại đa phương rơi
vào bế tắc.
Các hình thức hợp tác thương mại khác nhau nêu trên được củng
cố và phát triển nhờ các hiệp định thương mại. Một cách tổng quan, các
hiệp định Thương mại được phân ra các hiệp định Thương mại đa
phương và các hiệp định Thương mại ưu đãi hay các hiệp định Thương
mại khu vực (gồm Hiệp định Thương mại của khu vực thương mại tự do,
liên minh hải quan, liên minh kinh tế). Căn cứ để phân loại các hiệp định
Thương mại này là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN), hay nói đúng
hơn là cách thức thực thi nguyên tắc MFN, của GATT và WTO. Hiệp
định Thương mại đa phương dựa trên qui tắc chung của nguyên tắc tối
huệ quốc, có nghĩa là khi một nước mở cửa thị trường cho một Thành
viên thì phải mở cửa thị trường ngay lập tức và không điều kiện cho tất
cả các Thành viên khác mà khơng u cầu phải có sự đàm phán của mọi
đối tác thương mại. Tuy nhiên qui tắc tối huệ quốc cũng cho phép được
duy trì các ngoại lệ ưu đãi hơn trong các hiệp định Thương mại khu vực
(RTAs) mà các nước đã ký với nhau trước khi gia nhập GATT/WTO.
Đối với các hiệp định Thương mại khu vực, việc thực thi nguyên tắc
MFN đạt được thông qua đàm phán và thỏa thuận của mọi đối tác thương
mại để đi đến một Hiệp định chung.
Các hiệp định Thương mại đa phương gắn liền với việc ra đời của
GATT 1947. Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại được ký kết
vào năm 1947 có thể coi là Hiệp định Thương mại đa phương đầu tiên.
Việc kết thúc Vòng đàm phán Uruguay vào năm 1994 dẫn đến sự ra đời
của WTO đã đánh dấu một bước phát triển về chất của hệ thống Hiệp
46


định Thương mại đa phương. Trong khuôn khổ của WTO, một loạt các

hiệp định đa phương và các hiệp định nhiều bên đã được ký kết và có
hiệu lực trên thực tế. Các hiệp định này đã tạo cơ sở pháp lý cũng như
thể chế hoá và củng cố hệ thống thương mại đa phương.
Vai trò của các hiệp định Thương mại khu vực đối với thương
mại khu vực thể hiện ở hai điểm: thứ nhất, nó khuyến khích tự do hố
thương mại; thứ hai, nó tạo cơ sở pháp lý cho việc ra đời các khối thương
mại. Cơ sở pháp lý cho việc ra đời các khối thương mại còn được củng
cố nhờ các qui tắc của GATT và WTO. Trong GATT (cũng như trong
các hiệp định của WTO) có các điều khoản ngoại lệ về ưu đãi khi thực
hiện nguyên tắc MFN. Điều XXIV của GATT còn đưa ra các điều kiện
cho việc hình thành các liên minh hải quan và khu vực thương mại tự do.
Một trong các khối thương mại ra đời sớm nhất vào năm 1951 là
Cộng đồng than thép châu Âu (ESCC), gồm sáu nước Đức, Hà Lan, Bỉ,
Lucxembourg, Ý và Pháp. ESCC phát triển thành Cộng đồng kinh tế
châu Âu (EEC) vào năm 1958. Với việc ký kết Hiệp định Maastricht để
thành lập Liên minh châu Âu (EU) vào năm 1992, EU đã ra đời thay thế
EEC và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 1 tháng 11 năm 1993.
Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) được ký kết vào năm
1992 dẫn đến sự ra đời của khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ gồm
Canada, Mỹ và Mêhicô. Năm 1992 các nước ASEAN ký kết Hiệp định
thành lập khu vực thương mại do ASEAN (AFTA). Hiệp định chính thức
có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1993. Đến nay khu vực thương mại
tự do ASEAN, về cơ bản, đã hình thành với việc bảy nước ASEAN (Thái
Lan, Xingapore, Indonesia, Malaysia, Brunây, Philippines và Việt Nam)
đã hoàn thành chương trình cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các hàng
hóa trừ một số ít hàng hóa thuộc diện tạm thời chưa cắt giảm và loại trừ
hoàn toàn. Các khối thương mại và kinh tế điển hình khác gồm: Cộng
đồng Andex (ANCOM), Liên minh châu Phi (AU), Thị trường chung
Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng và thị trường chung Caribê
(CARICOM), Cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Mỹ (CEMAC), Thị

trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng Đông Phi
(EAC), Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Trung Phi (ECCAS), Khu
vực thương mại tự do các nước châu Mỹ (FTAA), Khu vực thương mại
tự do Mỹ latinh (LAFTA), Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR),
47


Hiệp định Thương mại của các quốc đảo Thái Bình Dương (PICTA), và
Cộng đồng hợp tác khu vực Nam Á (SAARC). Sự gia tăng ký kết các
hiệp định Thương mại khu vực đã làm cho thương mại nội vùng trở nên
rất quan trọng, chiếm tới 40% nhập khẩu của thế giới vào năm 2000 và
50% vào năm 20054.
Hiệp định Thương mại song phương là Hiệp định được ký kết
giữa hai thực thể chính trị, bởi vậy chỉ có giá trị ràng buộc hai bên ký kết.
Các quốc gia và các khối kinh tế - thương mại chủ chốt của thế giới hiện
nay như Mỹ, EU, Nhật Bản, Singapore, v.v… đều có khuynh hướng coi
trọng ký kết các hiệp định Thương mại song phương và Hiệp định
Thương mại tự do song phương. Mỹ đã ký kết các hiệp định Thương mại
tự do với nhiều nước như Israel, Jordanie, Morocco, Chilê, Singapore,
Hàn Quốc, Úc.5 Đến nay EU đã ký các hiệp định Thương mại tự do với
nhiều nước và vùng lãnh thổ như Đan Mạch, Thụy Sỹ, Mêhicô, Nam Phi,
Israel v.v…6 Ở Đông Á, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết
Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA).
Để xúc tiến việc thi hành Hiệp định này, các nước ASEAN và Trung
Quốc đã thống nhất thực hiện chương trình thu hoạch sớm (EHP). Khi
khu vực thương mại tự do này trở thành hiện thực thì đây sẽ là khu vực
thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Việt Nam, theo Vụ Pháp chế, Bộ Thương mại, đến nay đã ký kết
74 Hiệp định Thương mại song phương với các nước và vùng lãnh thổ.
Trong số các hiệp định đó, Hiệp định Thương mại song phương Việt

Nam - Hoa Kỳ (BTA) là một trong các hiệp định có vai trò quan trọng
nhất đối với sự tăng trưởng thương mại của Việt Nam. Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết vào tháng 7 năm 2000 và có hiệu
lực vào tháng 12 năm 2001. Với Hiệp định này, thuế suất đánh vào hàng
hoá nhập khẩu từ Việt Nam trong biểu thuế của Hoa Kỳ đã chuyển từ cột
2 (không ưu đãi MFN) sang cột 1 ở mức ưu đãi chung (MFN), với mức
giảm bình quân khoảng 40%. Bởi vậy BTA đã tạo ra sự nhảy vọt trong
xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ hiện nay là nước nhập
4

Mina Mashayekhi and Taisuke Ito: 2005. “Multilatilateralism and Regionalism: The New
Interface”. Tr.3. />5
Nguồn: />6
Nguồn: />
48


khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang xúc tiến đàm phán
để ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Nhật Bản.
1.1.3. Chức năng của hệ thống thương mại đa phương
Như đã nhắc tới ở phần trên, với việc ký kết Hiệp định GATT, hệ
thống thương mại đa phương đã chính thức được khai sinh. Đây là hệ
thống thương mại có phạm vi tồn cầu với sự tham gia của các nước và
các nền kinh tế của các châu lục. Khác với thương mại khu vực và
thương mại song phương, được điều chỉnh bởi các qui tắc được qui định
trong các hiệp định Thương mại khu vực và song phương, hệ thống
thương mại đa phương được điều chỉnh bởi các qui tắc được qui định
trong GATT trước đây và trong các hiệp định của WTO ngày nay. Hệ
thống thương mại đa phương có các chức năng cơ bản sau:
- Xóa bỏ sự phân biệt đối xử. Việc xóa bỏ sự phân biệt đối xử

này được bảo đảm bằng qui tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối
xử quốc gia (NT) được quy định trong Hiệp định GATT năm
1947 và trong các hiệp định của WTO. Khơng phân biệt đối xử
đặc biệt có lợi cho các nước đang phát triển và kém phát triển, là
những nước có vị thế yếu trên trường thương mại quốc tế.
- Ràng buộc các nước Thành viên trong một khuôn khổ chung
bởi các qui tắc tự do hóa thương mại. Thực tế từ năm 1947 đến
nay hệ thống thương mại đa phương đã vận hành theo xu hướng
này thông qua việc các Thành viên của WTO thống nhất cắt giảm
các rào cản thương mại và mở cửa thị trường.
- Giải quyết các tranh chấp thương mại. Trước Chiến tranh Thế
giới lần thứ II, chủ nghĩa bảo hộ hoành hành dẫn đến nguy cơ
không thể giải quyết được một cách hiệu quả các tranh chấp
thương mại. Hệ thống thương mại đa phương, do vậy, có chức
năng kiểm sốt các tranh chấp thương mại phát sinh trong hệ
thống. Trên thực tế, việc thực thi các cam kết trong khuôn khổ của
GATT và nhất là WTO đã xây dựng những cơ chế có hiệu quả để
thực hiện chức năng này.
- Hỗ trợ phát triển. Hệ thống thương mại đa phương tạo ra
những cơ chế phù hợp để mang lại lợi ích và các cơ hội phát triển
49


cho các Thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát triển và
kém phát triển. Tham gia vào hệ thống thương mại đa phương,
các Thành viên đang phát triển và kém phát triển sẽ có cơ hội
được hưởng những đối xử bình đẳng và cả những quy định có tính
đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang và kém phát
triển. Điều đó sẽ tạo ra những động lực mới cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở các nước này.

1.1.4. Lịch sử hình thành WTO
Trong lịch sử phát triển của mình, thương mại quốc tế đã trải qua
những giai đoạn thăng trầm và bị chi phối nặng nề bởi chủ nghĩa bảo hộ.
Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939), thương mại quốc
tế bị đình trệ do các biện pháp bảo hộ được áp dụng một cách tràn lan.
Thuế nhập khẩu cao là một đặc trưng nổi bật của thời kỳ này. Điển hình
là Đạo luật thuế quan Smooth Hawley năm 1930 của Mỹ. Trước khi Hiệp
định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ cũng bị áp thuế suất theo đạo luật này. Các biện pháp
phi thuế quan được áp dụng phổ biến đã tạo ra những rào cản ngăn cản
thương mại tự do. Điều đó dẫn đến sự trả đũa và tình trạng khơng kiểm
sốt được việc áp dụng các cơng cụ bảo hộ của chính sách thương mại
quốc tế. Hệ quả của nó là các cuộc chiến tranh thương mại và sự suy
thoái của thương mại quốc tế ở thập niên 30 của thế kỷ XX.
Vào thời điểm sắp kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, các
quốc gia chủ chốt trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm thiết lập những
định chế đa phương để giải quyết những vấn đề mang tính tồn cầu như
duy trì hịa bình thế giới và giải trừ quân bị, hỗ trợ công cuộc tái thiết và
phát triển, thúc đẩy thương mại quốc tế. Những nỗ lực đó đã dẫn đến sự
ra đời của một loạt các tổ chức quốc tế còn hoạt động đến ngày nay như
Liên hiệp quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(WB).
Về vấn đề thương mại quốc tế, xu hướng đẩy mạnh tự do hóa
thương mại đã nổi lên mạnh mẽ ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Vào
tháng 12/1945, đã có 15 nước bắt đầu bàn thảo về giảm thuế quan và đặt
50


ràng buộc thuế quan (binding). Tiếp theo đã có hơn 50 nước tham gia
đàm phán về việc thành lập một tổ chức, gọi là Tổ chức Thương mại

Quốc tế (ITO). ITO dự kiến hoạt động với tư cách là một cơ quan chuyên
môn của Liên hiệp quốc. Bản Hiến chương về việc thành lập ITO, Hiến
chương Havana, đã được soạn thảo tại Hội nghị Havana (Cuba) khai mạc
vào ngày 21/11/1947, và hoàn tất cũng tại Havana vào tháng 03/1948.
Tuy nhiên Hiến chương Havana đã khơng được nhiều nước, trong đó có
Hoa Kỳ, thơng qua. Do vậy ITO đã khơng thể hình thành với tư cách là
một tổ chức thương mại quốc tế.
Bên cạnh việc đàm phán thành lập ITO, 23 nước đã tiến hành đàm
phán về thương mại quốc tế và vào ngày 30 tháng 10 năm 1947, đã đi
đến ký kết Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
GATT bao gồm một bộ các qui tắc về thương mại và thỏa thuận cắt giảm
đối với 45.000 dòng thuế. 23 nước ký kết GATT được gọi là các bên ký
kết (CONTRACTING PARTIES). GATT chính thức có hiệu lực từ ngày
01/01/1948 với việc 8 trong số 23 Bên ký kết, trong Nghị định thư về
việc thực hiện tạm thời Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
(Protocol of Provisional Application of the General Agreement on Tariffs
and Trade), đã đồng ý tạm thời thực hiện GATT. Các bên ký kết khác sau
đó cũng đã sớm cam kết thực hiện GATT. Với lý do đó GATT vẫn được
coi là một Hiệp định tạm thời, nhưng thực tế đã tồn tại gần nửa thế kỷ (từ
năm 1948 đến khi WTO ra đời vào năm 1995), về thương mại và thuế
quan trong khi chờ đợi một tổ chức quốc tế về thương mại thay thế nó.
Tuy khơng phải là một tổ chức quốc tế về thương mại nhưng GATT là
một Hiệp định được soạn thảo và dự định sẽ vận hành trong khuôn khổ
của ITO, nếu ITO ra đời và đi vào hoạt động. Mặc dù cuối cùng không
đạt tới dự kiến ban đầu đó, nhưng việc ký kết GATT đã dẫn đến sự ra đời
của hệ thống thương mại đa phương và đồng thời tạo ra các qui tắc cho
hệ thống thương mại đó. Các qui tắc đó tiếp tục được hồn thiện và phát
triển qua tám vịng đàm phán của GATT.
Suốt 47 năm tồn tại của mình, GATT đã có vai trò quản trị hệ
thống thương mại đa phương và có những đóng góp to lớn cho sự tăng

trưởng vượt bậc của thương mại quốc tế. Vai trò quản trị thương mại
tồn cầu của GATT được thực hiện thơng qua hai chức năng cơ bản. Thứ
51


nhất, với tính chất là một đạo luật quốc tế, GATT qui định các nghĩa vụ
chung buộc các bên ký kết phải tính đến trong q trình hoạch định chính
sách thương mại của mình. Ngồi ra, với việc thực thi các nghĩa vụ và
qui tắc được qui định trong GATT cũng như trong các văn kiện sau này
đạt được thông qua các vòng đàm phán, các bên ký kết trên thực tế đã
chịu sự điều phối chung của GATT. Thứ hai, GATT đã tạo ra một diễn
đàn cho các cuộc đàm phán thương mại đa phương.
Tổng cộng GATT có tám vòng đàm phán. Thời gian và nội dung
cơ bản của các vịng đàm phán đó được trình bày ở Bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. Các vòng đàm phán thương mại của GATT
Năm

Địa điểm/tên

Nội dung

Số nước
tham gia

1947

Geneva

Thuế quan


23

1949

Annnecy

Thuế quan

13

1951

Torquay

Thuế quan

38

1956

Geneva

Thuế quan

26

Thuế quan

26


Thuế quan và các biện
pháp chống bán phá giá

62

Thuế quan, các biện pháp
phi thuế quan, các hiệp
định khung

102

Thuế quan, các biện pháp
phi thuế quan, các qui tắc,
dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải
quyết tranh chấp, nơng
nghiệp, thành lập WTO
v.v...

123

1960-1961
1964-1967

1973-1979

1986-1994

Geneva
(Vịng Dillon)
Geneva

(Vịng Kennedy)
Geneva
(Vòng Tokyo)

Geneva
(Vòng Uruguay)

Nguồn: _e.htm
Như vậy, các nội dung đàm phán của GATT đã được mở rộng từ
vòng đàm phán thứ nhất tới vòng đàm phán thứ tám. Năm vòng đàm
phán đầu chỉ chuyên về cắt giảm thuế quan. Đàm phán trong thời kỳ này
52


tiến hành theo cách thức song phương và song song, mỗi nước đàm phán
song phương cùng một lúc với nhiều nước. Tuy nhiên, ngoài việc cắt
giảm thuế quan, vào năm 1961 trong khuôn khổ của GATT đã đạt được
Hiệp định ngắn hạn cho phép áp đặt hạn ngạch đối với xuất khẩu hàng
dệt may. Hiệp định ngắn hạn này đến năm 1962 trở thành Hiệp định dài
hạn và được áp dụng cho đến khi nó được thay thế bằng Hiệp định Đa
sợi (MFA) vào năm 1974. Vòng đàm phán Kennedy đã đạt tới việc cắt
giảm đến 50% thuế quan của các ngành công nghiệp chủ yếu, chỉ trừ một
số ngành đặc biệt. Về mức thuế, Vòng đàm phán này đã cắt giảm bình
qn được 35%. Vịng đàm phán Kennedy đã đưa vào vấn đề chống bán
phá giá và đã đạt được một Hiệp định chống bán phá giá của GATT.
Vòng đàm phán Tokyo tiếp tục các nỗ lực cắt giảm thuế quan đã đưa vào
một công thức cắt giảm thuế quan phức tạp hơn so với Vòng Kennedy,
với ưu tiên cắt giảm thuế đỉnh. Kết quả là đã cắt giảm bình qn một
phần ba mức thuế quan ở chín thị trường cơng nghiệp chủ chốt của thế
giới, nhờ đó thuế suất bình qn đối với các sản phẩm cơng nghiệp giảm

xuống chỉ cịn 4,7%. Ngồi ra, sự cắt giảm thuế đỉnh còn làm giảm đáng
kể sự khác biệt về mức thuế giữa các dịng thuế. Bên cạnh đó một loạt
các hiệp định về các biện pháp phi thuế quan cũng đã đạt được trong
Vòng đàm phán này.
Vòng đàm phán Uruguay kéo dài suốt tám năm và được coi là
Vòng đàm phán thương mại lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Q trình
đàm phán diễn ra khơng hề sn sẻ, nhiều khi tưởng chừng đổ vỡ, nhưng
cuối cùng đã đi đến thành cơng. Chương trình nghị sự lúc đầu của Vịng
đàm phán này gồm 15 vấn đề được đưa ra đàm phán gồm: thuế quan, các
rào cản phi thuế quan, tài nguyên thiên nhiên, dệt may, nông nghiệp, sản
phẩm nhiệt đới, các điều khoản của GATT, các văn kiện của Vòng đàm
phán Tokyo, chống bán phá giá, trợ cấp, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu
tư, giải quyết tranh chấp, hệ thống GATT và dịch vụ. Trong quá trình
đàm phán, nội dung đàm phán đã được mở rộng ra hầu như tất cả các vấn
đề liên quan đến thương mại. Đàm phán đã đi đến ký kết một bộ văn kiện
toàn diện về thương mại quốc tế, với nội dung thương mại được mở rộng
sang cả lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Vịng đàm phán này cũng đã
đạt tới sự thành công về cải cách thể chế thông qua việc thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiến chương của WTO, Hiệp định
53


Marrakesh, đã được ký kết vào ngày 15/04/1994. WTO chính thức được
khai sinh vào ngày 01/01/1995. WTO đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.
1.1.5. Lợi ích từ hợp tác thương mại toàn cầu đối với Việt
Nam
Hợp tác thương mại toàn cầu bao gồm cả hợp tác thương mại
song phương, hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại đa
phương. Tuy có những khác biệt nhất định giữa các hình thức hợp tác
này nhưng chúng có điểm chung là đều hướng tới tự do hố thương mại.

Có thể đánh giá lợi ích của hợp tác thương mại tồn cầu dựa trên quan
điểm của kinh tế học quốc tế và dựa trên thực tế thương mại quốc tế. Lợi
ích đó có thể được khái quát ở những điểm sau:
- Hưởng những đối xử ưu đãi mà các đối tác thương mại dành
cho nhau, nhờ đó mở rộng thị trường cho việc xuất khẩu các sản
phẩm sản xuất trong nước. Việc mở rộng thị trường thông qua
thương mại quốc tế giúp các ngành có thể tăng hiệu suất theo qui
mơ, giảm chi phí sản xuất bình qn, nhờ đó tăng hiệu quả sản
xuất và kinh doanh. Trong hợp tác thương mại khu vực ASEAN,
việc thực hiện Chương trình Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung
(CEPT) đã dẫn tới tạo ra khu vực thương mại tự do ASEAN. Về
lý thuyết, tham gia khu vực thương mại tự do có thể dẫn đến hiệu
ứng tạo lập thương mại cho các nước thành viên, mở rộng thị
trường trong khu vực. Việc ký kết Hiệp định Thương mại song
phương với Hoa Kỳ rõ ràng đã giúp mở rộng đáng kể thị trường
xuất khẩu của Việt Nam như được nói tới ở phần trên. Trở thành
Thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng những đối xử ưu đãi
của các Thành viên theo nguyên tắc tối huệ quốc. Dự kiến điều đó
sẽ dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu của Việt Nam
trong thời gian tới.
- Thương mại quốc tế giúp nền kinh tế Việt Nam chun mơn
hố sản xuất sâu hơn, tận dụng được lợi thế so sánh. Nhờ hợp tác
thương mại toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ khai thác có hiệu
quả hơn các nguồn tài nguyên, lao động và đất đai. Hiện nay, khu
54


vực sản xuất hướng về xuất khẩu của Việt Nam đã tạo ra hàng
triệu việc làm cho người lao động. Nếu khơng có thương mại
quốc tế, Việt Nam khơng thể đạt được sản lượng cao như hiện nay

ở các ngành sản xuất lúa gạo, cà phê, cao su, may mặc, giày da
v.v… Hợp tác thương mại, do vậy, giúp tăng thu nhập quốc dân
cũng như thu nhập của người dân, góp phần xố đói giảm nghèo,
biến đổi bộ mặt của đất nước.
- Hợp tác thương mại toàn cầu hướng tới thương mại tự do và
nỗ lực giảm thiểu các rào cản thương mại. Điều đó sẽ cho phép
các nền kinh tế Thành viên giảm chi phí sản xuất, giảm giá bán
đối với bán thành phẩm và thành phẩm dùng cho sản xuất và dịch
vụ, giảm giá hàng tiêu dùng, do vậy giảm được chi phí sinh hoạt.
Nhờ thương mại quốc tế những người tiêu dùng cũng như các nhà
sản xuất sẽ có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ cho tiêu
dùng cũng như các sản phẩm đầu vào và dịch vụ phục vụ cho sản
xuất. Điều đó được minh chứng qua thực tiễn của Việt Nam trong
suốt hai thập kỷ qua, mặc dù Việt Nam mới chỉ là Thành viên
chính thức của WTO từ tháng 01/2007.
- Thương mại quốc tế là một động lực tăng trưởng quan trọng
của nền kinh tế Việt Nam. Trong số các nhân tố góp phần vào
tăng trưởng kinh tế như cầu tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu thì đối
với Việt Nam cũng như Trung Quốc, xuất khẩu có vai trị cực kỳ
quan trọng. Trong suốt những thập niên gần đây, tốc độ tăng xuất
khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn tốc độ tăng GDP. Đóng góp của
thương mại đối với tăng trưởng kinh tế có được thơng qua việc
thương mại đã góp phần mở rộng qui mô sản xuất, ứng dụng công
nghệ tiên tiến, tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế, thu hút đầu
tư nước ngồi v.v…
- Được đối xử bình đẳng hơn trong các tranh chấp thương mại
quốc tế. Trong hợp tác thương mại đa phương, các hiệp định của
WTO đã đưa ra nguyên tắc bình đẳng trong thương mại quốc tế
và các qui tắc giải quyết tranh chấp. WTO còn lập ra các Cơ quan
55



Giải quyết tranh chấp với những quy định ưu đãi dành cho các
Thành viên đang phát triển. Nguyên tắc có đi có lại hay hai bên
cùng có lợi và cả nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cũng được lấy
làm nền tảng của hợp tác thương mại song phương hay khu vực.
Giải quyết tranh chấp trong loại hình hợp tác này tuy được dựa
trên các điều luật quốc tế nhưng những điều luật đó đều phù hợp
và phần lớn đều dựa trên các nguyên tắc và Hiệp định của WTO.
Do vậy hợp tác thương mại toàn cầu sẽ cho phép Việt Nam hưởng
sự đối xử bình đẳng trong giải quyết tranh chấp.
- Hợp tác thương mại toàn cầu giúp nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Trong
hợp tác thương mại đa phương, với vị trí là Thành viên của WTO,
Việt Nam có thể có tiếng nói của mình trong các diễn đàn cũng
như các cuộc đàm phán thương mại đa phương để hoạch định
chính sách thương mại quốc tế. Trong hợp tác thương mại khu
vực, Việt Nam có điều kiện để khẳng định vai trò và bảo vệ các
lợi ích của mình trong khu vực. Hợp tác song phương góp phần
tạo ra mối quan hệ bình đẳng giữa Việt Nam với các nước khác
trên thế giới.
- Thúc đẩy cải cách kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển nói: “Gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới tạo ra nhiều cơ hội. Cơ hội lớn
nhất là bằng cải cách hệ thống luật pháp và thể chế kinh tế,
chúng ta đã tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư tốt hơn…
khuyến khích mọi người dân vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
giải phóng năng lực của chính họ”6. Khi tham gia hợp tác thương
mại khu vực và song phương, đặc biệt khi là Thành viên của
WTO, Việt Nam phải cải cách thể chế kinh tế cho phù hợp với

các qui tắc chung cũng như các cam kết trong khối hoặc song
phương. Nhờ đó mơi trường kinh doanh trở nên minh bạch, có thể
Trương Đình Tuyển. Khơng có chuyện vào WTO là đổi đời ngay.
07/01/2007.

6

56


dự đoán và hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp trong nước
cũng như nước ngoài. Với trách nhiệm thực thi các qui tắc của
WTO và các cam kết với tổ chức này, Việt Nam sẽ khơng thể trì
hỗn mà phải đẩy mạnh các cải cách một cách toàn diện. Tiến
trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh sẽ phải đẩy nhanh
hơn, các thành phần kinh tế phải được đối xử một cách bình đẳng
v.v… Những cải cách kinh tế sẽ kéo theo các cải cách và sự hoạt
động có hiệu quả hơn của các cơ quan chính quyền các cấp. Thực
hiện nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO
sẽ góp phần chống tham nhũng một cách có hiệu quả.
- Tham gia hợp tác thương mại đa phương cũng như khu vực
Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ kết quả đàm phán chung. Trong
khuôn khổ WTO, nếu Vịng đàm phán Doha kết thúc thành cơng,
Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ các cam kết mở cửa thị trường,
đặc biệt là từ việc giảm thuế và cắt giảm trợ cấp đối với hàng
nông sản của các nước công nghiệp.

1.2. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
Những qui tắc chung nhất của WTO được qui định trong Hiệp
định về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định Marrakesh).

1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng và cơ cấu tổ chức của
WTO
1.2.1.1. Mục tiêu của WTO
Mục tiêu của WTO được nêu ra ở lời nói đầu của Hiệp định thành
lập Tổ chức Thương mại Thế giới. Các mục tiêu đó được kế thừa từ các
mục tiêu do Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT
1947) nêu ra và được phát triển và bổ sung trong những điều kiện mới
của kinh tế và thương mại thế giới. Các mục tiêu đó gồm:
-

57

Phát triển sản xuất và thương mại;


×