Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 6 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.01 KB, 26 trang )


137
phạm vi định nghĩa tại Điều II: 1(b) của GATT 1994; thông qua các đợt
cắt giảm thuế quan theo một tỷ lệ đồng đều bắt đầu từ năm 1997 và hoàn
tất năm 2000, với nhận thức rằng việc kéo dài thời gian cắt giảm, và việc
mở rộng phạm vi sản phẩm trước khi thực thi, có thể là cần thiết trong
một số tình huống hãn hữu.
Bất kỳ Thành viên nào c
ủa WTO, hoặc quốc gia hay lãnh thổ thuế
quan riêng biệt đang trong quá trình gia nhập WTO đều có thể tham gia vào
việc phát triển thương mại thế giới đối với các sản phẩm công nghệ thông tin
theo những phương thức sau đây: mỗi bên tham gia sẽ đưa các biện pháp mô
tả trong khoản 2 của Tuyên bố vào Biểu nhân nhượng của mình kèm theo
Hiệp định GATT 1994, thêm vào đó, sẽ thực hiện ở cấp độ các dòng thuế của
mình hay cấ
p độ 6 số theo Hệ thống Hài hoà hoá (HS) năm 1996 trong biểu
thuế chính thức của mình hay trong bất kỳ biểu thuế nào được công bố mà
nhà xuất, nhập khẩu thường sử dụng; mỗi bên tham gia chưa phải là Thành
viên của WTO sẽ áp dụng những biện pháp này trên cơ sở tự nguyện, trong
thời gian chờ đợi hoàn tất việc gia nhập WTO, và sẽ đưa các biện pháp này
vào Biểu cam kết về thuế quan mở cử
a thị trường hàng hóa .
Các cam kết do mỗi bên tham gia đề xuất để điều chỉnh Biểu cam kết
về thuế quan mở cửa thị trường hàng hóa của mình sẽ có tính chất ràng buộc
và sẽ loại bỏ thuế quan và mọi khoản thuế và phí khác dưới bất kỳ dạng nào
đối với sản phẩm công nghệ thông tin như sau: trừ trường hợp các bên tham
gia có thoả thuận khác, việc loại bỏ thuế quan nh
ư vậy sẽ diễn ra thông qua
các đợt cắt giảm thuế suất đồng đều; trừ khi có thoả thuận khác, mỗi bên tham
gia sẽ ràng buộc tất cả thuế quan đối với các sản phẩm được liệt kê trong các
Danh mục đính kèm không muộn hơn ngày 1/7/1997, và sẽ tiến hành đợt


giảm thuế đầu tiên không muộn hơn ngày 1/7/1997, đợt giảm thuế thứ hai
không muộn hơn ngày 1/1/1998, và đợt giảm thuế thứ 3 không mu
ộn hơn
ngày 1/1/1999, và việc loại bỏ thuế quan sẽ hoàn thành không muộn hơn
ngày 1/1/2000; các bên tham gia nhất trí khuyến khích việc loại bỏ thuế quan
tự nguyện trước các mốc thời gian này; mức thuế suất cắt giảm trong mỗi giai
đoạn cần được làm tròn ở số thập phân thứ nhất; việc loại bỏ mọi khoản thuế
và phí khác dưới bất kỳ dạng nào, thuộc phạm vi định nghĩ
a của Điều II.1(b)
GATT 1994 sẽ được hoàn thành trước ngày 1/7/1997, trừ khi có quy định
khác ghi trong tài liệu mà một bên tham gia cung cấp cho các bên tham gia
khác để rà soát.

138
Mỗi bên tham gia sẽ nhanh chóng điều chỉnh Biểu thuế quốc gia của
mình để phản ánh những điều chỉnh đã đề xuất, ngay khi những điều chỉnh
này có hiệu lực.
Biểu đồ 3.2. Cơ cấu sản phẩm công nghệ thông tin chủ yếu (2002)


Nguồn: Bijit Bora, WTO ITA Symposium, 18 October 2004.
Các bên tham gia sẽ gặp gỡ định kỳ trong khuôn khổ Hội đồng
Thương mại Hàng hoá để rà soát phạm vi sản phẩm quy định trong các Danh
mục đính kèm, nhằm thoả thuận, trên cơ sở đồng thuận, về việc, do sự phát
triển công nghệ, do những kinh nghiệm trong việc áp dụng các nhân nhượng
thuế quan, hay do những thay đổi theo Danh mục HS, các Danh mục đính
kèm có cần được sửa đổi để b
ổ sung sản phẩm hay không, và thoả thuận tiến
hành tham vấn về các hàng rào phi thuế quan đối với thương mại các sản
phẩm công nghệ thông tin. Những tham vấn như vậy sẽ không làm tổn hại tới

các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp định WTO.
Các bên tham gia sẽ gặp gỡ ngay khi có thể được và trong bất kỳ
trường hợp nào cũng không muộn hơn ngày 01/04/1997 để rà soát tình trạng
các bên chấp nhận Hiệp định và để
đánh giá các kết luận rút ra từ đó. Các bên
tham gia sẽ thực thi các hành động dự kiến trong Tuyên bố với điều kiện là

139
tới thời điểm đó, các bên tham gia chiếm khoảng 90% thương mại thế giới
2

đối với sản phẩm công nghệ thông tin đã thông báo chấp nhận, với điều kiện
là các bên tham gia nhất trí về các bước cắt giảm. Khi đánh giá có thực thi các
hành động dự kiến trong Tuyên bố không, nếu tỷ trọng của các bên tham gia
trong thương mại thế giới đối với sản phẩm công nghệ thông tin chỉ đạt dưới
90% một chút, các bên tham gia có thể tính tới mức độ tham gia của các quốc
gia hay lãnh thổ thuế
quan riêng biệt chiếm tỷ trọng lớn của thương mại các
sản phẩm này. Tại cuộc họp này, các bên tham gia sẽ xác định các tiêu chuẩn
này có được đáp ứng hay không.
Các bên tham gia sẽ họp thường xuyên khi cần thiết và không muộn
hơn ngày 30/09/1997 để xem xét bất kỳ sự bất đồng nào giữa họ trong việc
phân loại sản phẩm công nghệ thông tin. Các bên tham gia nhất trí về mục
tiêu chung để, khi thích hợp, đạt được một cách phân lo
ại chung cho những
sản phẩm này theo danh mục HS hiện tại, sau khi đã cân nhắc các diễn giải và
phán quyết của Hội đồng hợp tác Hải quan (WCO). Trong bất kỳ trường hợp
nào có sự bất đồng trong phân loại, các bên tham gia sẽ cân nhắc việc nên gửi
một kiến nghị chung cho WCO để cập nhật danh mục HS hiện hành hay giải
quyết sự bất đồng trong diễn giải danh mục HS.

3.3.2. Quan điểm củ
a Việt Nam về thương mại sản phẩm công
nghệ thông tin
Thứ nhất, phát huy mọi nguồn nội lực của đất nước kết hợp với
hợp tác quốc tế hiệu quả để mở rộng, phát triển thị trường. Tiếp tục xoá
bỏ những lĩnh vực độc quyền doanh nghiệp, chuyển mạnh sang thị
trường cạnh tranh, tạo điều kiệ
n cho mọi thành phần kinh tế tham gia các
hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn thông, Internet trong mối quan hệ giữ
vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Thứ hai, tích cực khai thác thị trường trong nước, đồng thời vươn
ra hoạt động trên thị trường quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
theo lộ trình đã được cam kết đa phương và song phương.
Thứ ba,
đổi mới doanh nghiệp theo mục tiêu “năng suất, chất lượng
hiệu quả”; nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động

2.
Tỷ trọng này sẽ được Ban Thư ký WTO tính toán trên cơ sở dữ liệu sẵn có vào thời điểm
tiến hành họp.


140
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tin học. Phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, hình thành các tập đoàn bưu chính, viễn thông, tin học
mạnh, tạo thế và lực để hội nhập, cạnh tranh quốc tế thắng lợi.
Thứ tư, phát huy mọi nguồn lực của đất nước, tạo điều kiện cho
tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển bưu chính, viễn thông,
tin học trong môi tr
ường cạnh tranh công bằng, minh bạch do Nhà nước

quản lý với những cơ chế thích hợp. Phát triển nhanh, chiếm lĩnh và
đứng vững ở thị trường trong nước, đồng thời chủ động vươn ra hoạt
động kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Thứ năm, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển đi đôi với
đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, góp phần bảo vệ vữ
ng chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cung cấp cho xã hội, người tiêu dùng các
dịch vụ bưu chính, viễn thông hiện đại, đa dạng, phong phú với giá cả
thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực.
Thứ sáu, phát triển nhanh, đa dạng hoá, khai thác có hiệu quả các
loại hình dịch vụ trên nền cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia nhằm cung cấp
cho người s
ử dụng các dịch vụ bưu chính, viễn thông, Internet với chất
lượng cao, an toàn, bảo mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương mức bình
quân của các nước trong khu vực, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cuối cùng, đẩy nhanh tốc độ phổ cập các dịch vụ bưu chính, viễn
thông, Internet trong cả nước. Bên cạnh các dịch v
ụ cơ bản cố định, đẩy
mạnh phát triển dịch vụ di động, Internet, thương mại điện tử, dịch vụ
phục vụ Chính phủ điện tử, dịch vụ công, dịch vụ cộng đồng và các dịch
vụ giá trị gia tăng khác.
Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định Công nghệ thông tin
“nhiều bên” (từ “nhiều bên” có nghĩa là chỉ một số Thành viên WTO đã
ký Hiệp định này). Như vậy, nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông
tin vào Việt Nam sẽ không phải chịu thuế nhập khẩu. Một số trường hợp
thì thuế suất 0% sẽ có hiệu lực áp dụng ngay lập tức, trong các trường
hợp khác thì thuế suất sẽ được giảm dần về mức 0% vào năm 2010 cho
tới năm 2014
18

.

18
- 62k

141


Chương IV
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Trường Đại học Ngoại thương
4
4
.
.
1
1
.
.


T
T


N
N
G
G



Q
Q
U
U
A
A
N
N


V
V




T
T
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G



M
M


I
I


D
D


C
C
H
H


V
V




4.1.1. Dịch vụ là gì?
Cho đến nay cũ
ng chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ.
Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các

loại hình dịch vụ làm cho việc nêu ra một định nghĩa rõ ràng về dịch vụ
trở nên khó khăn. Hơn nữa, các quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch
vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi
quố
c gia. Ngay cả Hiệp định GATS cũng không nêu khái niệm về dịch
vụ mà chỉ liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn và 155 phân ngành khác
nhau nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định
19
. Cuốn “Balance of
Payment Manual” fifth edition - BPM5 (Cân bằng cán cân thanh toán –
xuất bản lần thứ năm) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hướng dẫn cách
phân loại và thống kê số liệu về xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đã
liệt kê dịch vụ thành 3 nhóm lớn là vận tải, du lịch và các dịch vụ thương
mại khác. Mỗi nhóm này lại được chia thành các mục nhỏ hơn.
Khi nghiên cứu và tiếp cận khái niệm d
ịch vụ trên nhiều khía
cạnh nhằm đi đến sự thống nhất về khái niệm và nội hàm của dịch vụ,
trên cơ sở đó có thể đi sâu phân tích những vấn đề có tính lý luận và
những khía cạnh thực tiễn về thương mại dịch vụ và dịch vụ thương mại,
có thể thấy rằng, dù có nhiều cách tiếp cận nhưng cách định nghĩa kinh
điể
n dựa trên tính chất của dịch vụ là định nghĩa chuyển tải được những
nội dung cơ bản và đầy đủ nhất về dịch vụ: Dịch vụ là các hoạt động của
con người, được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và không thể

19
Xem danh mục GNS/W/120- Services Sectorial Classification list (Danh mục phân loại
các khu vực dịch vụ) của WTO trong phần 4.4.2



142
cầm nắm được. Định nghĩa này nêu lên được hai đặc điểm cơ bản của
dịch vụ. Thứ nhất, dịch vụ là một “sản phẩm”, là kết quả của quá trình
lao động và sản xuất nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người.
Thứ hai, khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch vụ là vô hình, phi vật
chất và không thể lưu trữ được. Dịch vụ không tr
ực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất dưới dạng những sản phẩm hữu hình nhưng chúng lại tạo ra
giá trị thặng dư do có sự khai thác sức lao động, tri thức, chất xám của
con người. Dịch vụ kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như
tài chính, vận tải, bảo hiểm, kiểm toán, kế toán, tư vấn pháp lý v.v.
Khác với hàng hóa là cái hữu hình, dịch v
ụ là vô hình và phi vật chất.
Chính điểm khác nhau cơ bản này giữa sản phẩm hàng hóa hữu hình với
sản phẩm dịch vụ vô hình đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới cách thức tiến hành
các hoạt động thương mại hàng hóa và hoạt động thương mại dịch vụ ở
phạm vi từng quốc gia cũng như ở phạm vi quốc tế. Vì dịch vụ là vô hình
nên các quốc gia cũng
đã tốn không ít công sức và thời gian để xây dựng
được các quy chuẩn pháp lý điều chỉnh các hoạt động cung cấp dịch vụ
nói chung, các hoạt động mua bán, trao đổi các dịch vụ cũng như các quy
định về mở cửa thị trường dịch vụ trong phạm vi quốc tế nói riêng.
4.1.2. Đặc điểm của dịch vụ
Thứ nhất, dịch vụ là vô hình nên khó xác định.
Quá trình sản xuất hàng hóa tạo ra nh
ững sản phẩm hữu hình có
tính chất cơ, lý, hoá học, nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và
do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác với hàng hóa, sản phẩm
dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể,
không cầm nắm được, không nhìn thấy được và do đó không thể xác

định chất lượng dịch vụ
trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được
lượng hóa. Chính vì vậy, các công tác lượng hoá, thống kê, đánh giá chất
lượng và quy mô cung cấp dịch vụ của một công ty, nếu xét ở tầm vi mô
và của một quốc gia, nếu xét ở tầm vĩ mô, trở nên khó khăn hơn so với
hàng hoá hữu hình rất nhiều.
Thứ hai, quá trình sản xuất (cung cấp) dịch vụ và tiêu dùng
dịch vụ thường xảy ra
đồng thời.
Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu thông
và tiêu dùng. Do đó hàng hóa có thể được lưu kho để dự trữ, có thể vận

143
chuyển đi nơi khác theo cung cầu của thị trường. Khác với hàng hóa, quá
trình cung cấp dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ, với dịch vụ tư
vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư cung cấp dịch vụ tư vấn cũng là lúc
người sử dụng dịch vụ tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn do
người chuyên gia này cung cấp. Thông thường, vi
ệc cung cấp dịch vụ đòi
hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ.
Thứ ba, dịch vụ không lưu trữ được.
Do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể
sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
Với cách hiểu đó, dịch vụ là sản phẩm không lưu trữ
được và trong cung
cấp dịch vụ không có khái niệm tồn kho hoặc dự trữ sản phẩm dịch vụ.
Đây là những đặc điểm cơ bản để phân biệt sản phẩm dịch vụ vô
hình với sản phẩm hàng hóa hữu hình. Tuy nhiên cần phải thấy rằng sẽ
không tồn tại một sự phân biệt tuyệt đối. Chẳng hạn, một số loại hình dịch
vụ

, khi kết thúc quá trình cung cấp sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất
như bản photocopy (đối với dịch vụ photocopy). Hệ thống dịch vụ trả lời
điện thoại tự động không đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp giữa người cung cấp
và người tiêu dùng và, về một khía cạnh nào đó, có thể coi đó là sản phẩm
“lưu trữ” được. Hầu như trong mọ
i hoạt động cung cấp dịch vụ đều có sự
xuất hiện của các sản phẩm hữu hình như là các yếu tố phụ trợ.
4.1.3. Thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ (tiếng Anh là trade in services) là khái niệm
chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ, hay, nói chính xác
hơn, là khái niệm được dùng để nhấn mạnh khía cạnh thương mại, tính
ch
ất thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Với cách hiểu này, người ta
thường phân biệt thương mại dịch vụ với thương mại hàng hóa. Nếu như
đối tượng mua bán trong thương mại hàng hoá là hàng hoá - các sản
phẩm hữu hình thì trong thương mại dịch vụ, đối tượng mua bán lại là
dịch vụ - các sản phẩm vô hình, “là những thứ mà khi đem bán không thể
rơi vào chân bạn”
20
. Chính đặc điểm này đã làm nên sự khác biệt trong

20
Handbook on “Liberalizing international Transactions in Services” of the United Nations
and the World Bank, 1994, tr.1

144
cách điều chỉnh của pháp luật quốc gia, pháp luật khu vực và thậm chí là
của pháp luật quốc tế về thương mại dịch vụ so với thương mại hàng hóa.
Nói cách khác, thương mại dịch vụ là khái niệm rộng dùng để chỉ
tất cả các hành vi cung cấp các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích

thu lợi nhuận. Trong cách hiểu này cần chú ý rằng chỉ các dịch vụ
được
đem ra mua bán, trao đổi nhằm thu lợi nhuận thì các hành vi trao đổi đó
mới được coi là mang tính chất thương mại và nằm trong khái niệm
thương mại dịch vụ.
Ngày nay, mặc dù ở một số nước đang phát triển, tỷ trọng đóng
góp của các ngành dịch vụ trong GDP đã tăng đáng kể (ví dụ, ở Hàn
Quốc là 60%, ở Braxin: 60%, ở Zambia: 50%, ở Uganda: 40%
21
)
nhưng, các nước này cũng đang rất thận trọng với việc phổ cập quan
điểm thương mại hóa các ngành dịch vụ, kể cả các dịch vụ được coi là lợi
thế cạnh tranh của các nước đang phát triển như dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, dịch vụ du lịch… Do có truyền thống là các dịch vụ này được
Chính phủ cung cấp phi thương, cho nên, việc thương m
ại hóa các dịch
vụ y tế, dịch vụ giáo dục… ở các nước đang phát triển, các nước có nền
kinh tế chuyển đổi hiện đang bị chỉ trích mạnh mẽ cả về lý luận lẫn thực
tế. Nhận thức về vấn đề này cũng chưa phát triển, kể cả ở các cấp chính
quyền lãnh đạo. Đây chính là một trong những đặc điểm về
phương pháp
tiếp cận đến khía cạnh thương mại trong việc cung cấp dịch vụ của các
nước đang phát triển mà hiện nay, thực tế này vẫn là phổ biến.
4.1.4. Vai trò của thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế
- Tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại trong nước và
quốc tế ngày càng tăng: Vai trò của thương mại dịch vụ
được thể hiện qua
việc tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại ở từng nước cũng như ở
phạm vi quốc tế ngày càng tăng. Ở các nước phát triển, giá trị sản lượng
kinh tế của nhiều ngành dịch vụ đã vượt xa những ngành công nghiệp

truyền thống như năng lượng, chế tạo. Trong thương mại thế giới, giá tr
ị và

21
Dự án VIE 97/016 của UNDP và CIEM : Gia nhập WTO – thách thức và tác động đến
khung pháp lý của Việt Nam, Hà Nội 2000, tr.4

145
tỷ trọng của thương mại dịch vụ cũng liên tục gia tăng, năm 2002 đạt 2.900
tỷ USD, chiếm hơn 20% tổng giá trị thương mại thế giới
22
.
- Xuất khẩu thương mại dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao: Tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm của xuất khẩu dịch vụ thương mại luôn
vượt tốc độ phát triển bình quân hàng năm của xuất khẩu hàng hóa. Tính
chung cả giai đoạn 1980-2002, hàng năm thương mại dịch vụ trên thế giới
tăng trung bình 9%, cao hơn tốc độ 6% của thương mại hàng hoá
23
.
- Thương mại dịch vụ góp phần thay đổi cơ cấu thương mại
quốc tế: Vai trò của dịch vụ trở nên đậm nét hơn từ thập kỷ 80, khi dịch
vụ đã góp phần thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế. Dịch vụ chiếm vị trí
ngày càng quan trọng trong từng nền kinh tế quốc dân cũng như nền kinh
tế thế giới, th
ể hiện ở tỷ trọng trong GNP không ngừng tăng lên nhờ
những cuộc cải cách cơ cấu từ cuối thập niên 80. Đến nay, tỷ trọng dịch
vụ trong GNP đạt khoảng 60-70% ở các nước phát triển, xấp xỉ 40% ở
các nước kém phát triển hơn và có chiều hướng tiếp tục tăng. Về đầu tư,
trên một nửa giá trị đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệ
n nay thuộc về lĩnh

vực dịch vụ.
- Các ngành dịch vụ tạo ra nhiều cơ hội việc làm: Lĩnh vực dịch
vụ ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều lao động. Trong xu thế kinh tế
tăng trưởng khá cao và vững chắc, mức độ tạo công ăn việc làm trong
các ngành dịch vụ tăng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối. Tại nhiều
quốc gia trên thế
giới, nhất là các quốc gia phát triển, tỷ trọng lao động
trong các ngành dịch vụ so với toàn bộ lực lượng lao động chiếm khoảng
60 - 70%. Chẳng hạn, ngành du lịch thu hút 204 triệu lao động trên toàn
thế giới (hay cứ 9 lao động thì có 1 người làm việc trong lĩnh vực du
lịch), chiếm 10,6% lực lượng lao động thế giới, tạo ra 10,2% GNP toàn
cầu
24
. Thực tế cho thấy, ngay cả ở Việt Nam, việc đưa người cung cấp
dịch vụ ra nước ngoài đã góp phần giúp Việt Nam giảm áp lực về thị
trường lao động. Những khoản tiền từ nước ngoài chuyển về có thể là

22
World Trade Organization. Press/300 on Services Negotiations for benefits of developing
countries in WTO. Geneva 2002, tr.12
23
Tài liệu đã dẫn, tr.13
24
World Trade Organisation. Annual Report. WTO Secretariat, Geneva 2002, tr.78

146
một nguồn thu nhập đáng kể. Cụ thể, riêng năm 2005, khoản tiền kiều
hối chuyển về Việt Nam đã lên đến gần 4 tỷ USD, tăng từ 20 – 25% so
với năm 2004
25

.
- Dịch vụ thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông,
phân phối hàng hoá, thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong
phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
Dịch vụ chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra”
trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Sự ra đời và phát
triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ
, đường không, đường biển
đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu
thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa từ quốc
gia này tới quốc gia kia, từ khu vực địa lý này đến khu vực địa lý khác.
Trong quá trình chuyên chở hoặc lưu thông, hàng hóa luôn bị đe dọa bởi
những rủi ro có thể gây thiệt hại về vật chất, các dịch vụ bảo hiểm hàng
hóa sẽ gánh đỡ bớt những rủi ro đó và làm cho thương mại trở nên an
toàn hơn, ít tổn thất hơn. Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu
thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu
và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ
viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương
mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng củ
a
người tiêu dùng. Các dịch vụ kinh tiêu như dịch vụ đại lý, bán buôn, bán
lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng
đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời
gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn
để đầu tư tái sản xuất. Như vậy dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các
hoạt động thương mại hàng hóa. Ở Vi
ệt Nam, khi chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, các dịch vụ thương mại đã góp
phần thúc đẩy thị trường lưu thông hàng hóa phát triển một cách đầy đủ
và toàn diện hơn.


25
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế. Bản tin nội bộ: Hội nhập và phát triển. số
89, tháng 02/2006, tr.15.

147
Tóm lại, vai trò của thương mại dịch vụ trong nền kinh tế thế giới
cũng như nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia đang ngày càng được
khẳng định.


4
4
.
.
2
2
.
.


C
C
Á
Á
C
C


R

R
À
À
O
O


C
C


N
N


V
V
À
À


S
S




C
C



N
N


T
T
H
H
I
I


T
T


P
P
H
H


I
I


C
C



I
I


C
C
Á
Á
C
C
H
H


4.2.1. Các rào cản và tác động của các rào cản đến sự phát
triển của dịch vụ
4.2.1.1. Rào cản là gì?
Rào cản (Barriers) là thuật ngữ được sử dụng trong thương mại
quốc tế để chỉ các quy định, các biện pháp, các hành động gây cả
n trở sự
phát triển của thương mại quốc tế. Rào cản trong thương mại quốc tế
xuất hiện ở hầu hết mọi lĩnh vực với các quy định, biện pháp hàm chứa
trong các chính sách điều tiết thương mại quốc gia, kể cả hành động của
các Chính phủ. Để bảo hộ ngành sản xuất trong nước cũng như doanh
nghiệp nước mình, các nước thườ
ng quy định rất nhiều biện pháp nhằm
hạn chế hoặc giảm thiểu sự thâm nhập của hàng hóa, dịch vụ nước ngoài
vào nước mình. Các biện pháp này thường rất đa dạng, phức tạp và tinh
vi, như biện pháp thuế quan, biện pháp phi thuế quan, các quy định về

môi trường, về trợ cấp, về hạn chế mở cửa thị trường v.v…
Tuy nhiên, khác với thương mại hàng hóa, trong thương mại dị
ch
vụ, không thể áp dụng bất kỳ một loại thuế nào khi sản phẩm dịch vụ
thâm nhập vào lãnh thổ của một quốc gia khác. Vì vậy, rào cản thuế quan
thường không có ý nghĩa trong thương mại dịch vụ. Muốn hạn chế hoạt
động của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và bảo hộ các nhà cung
cấp dịch vụ trong nước, nước chủ nhà thường quy định các biện pháp,
nhữ
ng điều kiện nhất định để khống chế các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài tại hai thời điểm. Đó là:
- Khi nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài muốn được phép cung cấp
dịch vụ và muốn được có mặt tại nước chủ nhà để cung cấp dịch vụ.
- Sau khi nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã được phép cung cấp
dịch vụ và đã có mặt tạ
i nước chủ nhà.

148
Đối với thời điểm thứ nhất, nước chủ nhà thường đưa ra các điều
kiện, mà nếu không đáp ứng được thì nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
sẽ không được phép cung cấp dịch vụ tại nước chủ nhà. Đây chính là các
rào cản hạn chế mở cửa thị trường, hạn chế khả năng tiếp cận thị trường
của các nhà cung cấp d
ịch vụ hoặc các sản phẩm dịch vụ nước ngoài
(xem hộp 4.1).
Hộp 4.1
Các điều kiện (biện pháp hạn chế) mà các nước có thể áp dụng để hạn chế
khả năng tiếp cận thị trường:
- Các hạn chế về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ các ngân hàng
nước ngoài không được đặt quá 10 chi nhánh tại nước chủ nhà).

- Các hạn chế về tổng giá trị của các giao dịch dịch vụ (ví dụ không cho
phép được tái bảo hiểm quá 10% v
ới các công ty nước ngoài);
- Các hạn chế về tổng số lượng nhân viên nước ngoài có thể được tuyển
dụng (ví dụ đa số Thành viên của Ban giám đốc của doanh nghiệp liên doanh
phải là người của nước chủ nhà);
- Các hạn chế về cổ phần góp vốn nước ngoài (ví dụ hạn chế tỷ lệ cổ phần
tối đa là 49%).
Điều XVI Hiệp định GATS
Đối với thời điểm thứ hai, các điều kiện được nêu ra thường là
những biện pháp hạn chế về đối xử quốc gia, tức là các biện pháp phân
biệt đối xử giữa các nhà cung cấp hoặc các sản phẩm dịch vụ của nước
chủ nhà với các nhà cung cấp hoặc sản phẩm dịch vụ nước ngoài.
4.2.1.2. Tác động của các rào cản đến sự phát triển củ
a dịch vụ
Những rào cản nêu trên đã làm chậm sự phát triển của nhiều khu
vực dịch vụ của nước chủ nhà và làm tăng sự phụ thuộc vào các dịch vụ
nhập khẩu.
Chính sách đóng cửa của các nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển, cũng như sự chậm đổi mới trong nhận thức của các nước về vai trò
của khu vực dịch v
ụ trong thương mại quốc tế đã làm cho việc xuất khẩu
dịch vụ của những nước này bộc lộ nhiều yếu kém. Đó là những yếu kém
về hạ tầng cơ sở cho ngành dịch vụ (đặc biệt là hạ tầng cơ sở của các
dịch vụ truyền thông, tài chính, giáo dục v.v…); sự thiếu nguồn nhân lực

149
có trình độ, có khả năng phổ biến được những bí quyết kỹ thuật; sự tồn
tại của những mảng tri thức đóng kín đến mức lãng phí nguồn lực ngăn
trở phần còn lại của nền kinh tế được sử dụng chúng một cách hiệu quả.

Bên cạnh đó, quá trình chậm hướng ngoại với những rào cản được
dựng lên làm cho dịch vụ sả
n xuất trong nước bị tách biệt khỏi các tín
hiệu thị trường. Những động lực của cung cầu không được chú ý cũng
làm giảm khả năng các dịch vụ của nhà sản xuất được ứng dụng ở quy
mô quốc gia cũng như ở quy mô doanh nghiệp. Điều này sẽ làm giảm
sức cạnh tranh cũng như giá trị gia tăng của dịch vụ.
4.2.2. Sự cần thiế
t phải cải cách (giảm thiểu các rào cản)
4.2.2.1. Vì sao phải cải cách?
Sự cần thiết phải giảm thiểu các rào cản đối với thương mại dịch
vụ được giải thích bởi những lý do sau đây:
- Nhu cầu ngày càng tăng về một môi trường cạnh tranh bình
đẳng hơn do đòi hỏi của quá trình quốc tế hóa nhằm nới lỏng cơ chế để
tạo đà phát triển cho nhữ
ng ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao hơn,
đáp ứng tốt hơn các hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm ở phạm vi
từng nước cũng như ở phạm vi toàn cầu.
- Giảm thiểu các rào cản, mở cửa thị trường dịch vụ đem lại lợi
ích cho tất cả các nền kinh tế, bao gồm cả các nước phát triển lẫn các
nước đang phát tri
ển. Đối với tất cả các nền kinh tế, lợi ích có được từ tự
do hóa thương mại dịch vụ là lớn hơn nhiều so với lợi ích có được từ tự
do hóa thương mại hàng hóa. Mở cửa thị trường dịch vụ cũng tăng khả
năng tiếp cận các công nghệ nước ngoài.
4.2.2.2. Lợi ích tiềm năng của cải cách
Mở cửa thị trường d
ịch vụ đem tới rất nhiều lợi ích và tiềm năng
cho các nước, trong đó có các nước đang phát triển. Ví dụ, trong lĩnh vực
xây dựng, 51 trong 150 công ty đứng đầu thế giới năm 2004 về doanh

thu ở thị trường nước ngoài là các công ty cung cấp dịch vụ xây dựng của
Trung Quốc, Hàn Quốc, Braxin và Ai Cập. Ấn Độ hiện đã xuất khẩu
công nghệ thông tin tới các nước phát triển. Công ty Aptech và Công ty
NIIT (Ấn Độ
) là hai công ty có thương hiệu mạnh trong việc cung cấp
các dịch vụ đào tạo công nghệ thông tin cho các khách hàng của

150
Microsoft, Peoplesoft và Computer Associates. 5 trong số 20 nước có
dịch vụ cảng container có trọng tải bốc xếp hàng đầu trên thế giới là các
nước Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Hồng Kông (nay
là Trung Quốc).
4.2.2.3. Nội dung cải cách
Cải cách trong lĩnh vực dịch vụ là một nhiệm vụ không dễ dàng.
Lợi ích và tiềm năng có được từ cải cách sẽ bị giảm hoặc không đạt được
kết quả như mong muốn nế
u không quan tâm tới mục tiêu và nội dung
của công cuộc cải cách.
Mục tiêu của cải cách là tự do hóa thương mại dịch vụ, là dỡ bỏ
những rào cản, cản trở sự phát triển của thương mại dịch vụ (cả ở trong
nước và quốc tế), là loại bỏ mọi biện pháp, quy định, chính sách hạn chế
cạnh tranh trong dịch vụ, dịch vụ thương mại và thương m
ại dịch vụ.
Để đạt mục tiêu trên, cải cách trong lĩnh vực dịch vụ cần đặt ra
các nội dung cụ thể sau đây:
- Xây dựng chính sách cạnh tranh công bằng nhằm thúc đẩy khu
vực dịch vụ phát triển.
- Giảm thiểu tới mức tối đa sự độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ.
- Tăng cường thực thi pháp luật điều tiết cạnh tranh, để pháp lu
ật

cạnh tranh phải thật sự “sống” trong những nước có cơ chế chuyển đổi.
- Có chính sách quản lý phù hợp, hiệu quả trong trường hợp mở
cửa thị trường dịch vụ.
- Tiếp tục đàm phán về mở cửa các khu vực dịch vụ theo hướng
vừa đảm bảo yêu cầu của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại dịch vụ,
vừa phù hợp vớ
i thực tiễn phát triển khu vực dịch vụ trong nước.


4
4
.
.
3
3
.
.


C
C
Á
Á
C
C


C
C
U

U


C
C


Đ
Đ
À
À
M
M


P
P
H
H
Á
Á
N
N


V
V
Ò
Ò
N

N
G
G


U
U
R
R
U
U
G
G
U
U
A
A
Y
Y























































































V
V




T
T
H
H
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G

G


M
M


I
I


D
D


C
C
H
H


V
V




Vì dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại
quốc tế, tại Vòng đàm phán Uruguay, các nước Thành viên của GATT đã
đồng ý đưa dịch vụ vào nội dung đàm phán. Vòng đàm phán Uruguay bắt

đầu năm 1986 tại Punta del Este, Uruguay và kết thúc tại Thụy Sĩ năm

151
1994. Mở cửa thị trường dịch vụ là một trong những nội dung quan trọng
của Vòng đàm phán này. Việc đàm phán về thương mại dịch vụ trong
Vòng Uruguay có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
4.3.1. Đàm phán về nghĩa vụ và các quy tắc chung
Đàm phán về nghĩa vụ và các quy tắc chung về thương mại dịch
vụ cũng dựa trên các nguyên tắc cơ bản củ
a GATT nhưng có cân nhắc
đến một số đặc thù của lĩnh vực thương mại dịch vụ. Cụ thể:
- Theo nghĩa vụ đối xử MFN, đây là nghĩa vụ bắt buộc trong
thương mại dịch vụ, theo đó, các nước cam kết dành cho nhau những “ưu
đãi” đối với mọi lĩnh vực dịch vụ, ngoại trừ những lĩnh vực đã được đư
a
vào danh mục loại trừ (ngoại lệ) MFN. Mục tiêu của các loại trừ này
nhằm đảm bảo rằng lợi ích của một nước trong thỏa thuận đặc biệt với
một nước nào đó sẽ không tự động dành cho các nước khác không thuộc
đối tượng của thỏa thuận đó hưởng.
- Theo nghĩa vụ đối xử quốc gia (NT), các nước đàm phàn đã đi
đến nhấ
t trí rằng các nước Thành viên chỉ có nghĩa vụ tuân theo nguyên
tắc này khi nước đó có cam kết cụ thể về việc cho phép các công ty nước
ngoài tiếp cận thị trường nước mình, các nước có quyền không tuân theo
nguyên tắc này trong các lĩnh vực không cam kết. Ngay cả trong trường
hợp có cam kết thì các nước cũng vẫn có quyền quy định một số hạn chế
đối với việc áp dụng nguyên tắc NT.
4.3.2. Đàm phán các cam kết cụ thể v
ề mở cửa thị trường
Trong Vòng Uruguay, theo đề nghị của các nước đang phát triển,

các cam kết về mở cửa thị trường sẽ được đàm phán phù hợp với cách
hiểu về thương mại dịch vụ được các nước thống nhất. Các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài bắt buộc phải chấp nhận cách hiểu thống nhất về
thương mại dịch v
ụ này.
Các nước Thành viên cũng đã thống nhất đưa vào Điều XIX.2
nguyên tắc như sau: “Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ sẽ được
thực hiện với sự xem xét đúng mức đến các mục tiêu chính sách quốc gia
và mức độ phát triển của mỗi nước Thành viên, cả về tổng thể lẫn trên
từng lĩnh vực. Sẽ có sự linh hoạt thích hợp cho phép mỗi nước đ
ang phát
triển được mở cửa ít lĩnh vực hơn, tự do hóa ít loại dịch vụ hơn, mở rộng

152
từng bước khả năng tiếp cận thị trường phù hợp với tình hình phát triển
của họ và khi cung cấp khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài, được gắn thêm các điều kiện nhằm đạt được
mục tiêu đã được đưa ra trong Điều IV của Hiệp định GATS”.
4.3.3. Đàm phán về các phụ lục
- Phụ lụ
c về vấn đề di chuyển của thể nhân
Phụ lục này quy định việc đàm phán về quyền của cá nhân nước
này được tạm trú ở nước khác để cung cấp dịch vụ. Phụ lục cũng quy
định rằng thỏa thuận đạt được không áp dụng đối với những người làm
việc dài hạn hoặc đối với các điều kiện nhập quốc tịch hoặ
c thường trú.
Thành viên chấp thuận Phụ lục này vẫn được tự do điều chỉnh việc đi lại
của người nước ngoài nhưng với điều kiện phải tôn trọng các cam kết về
quy chế đi lại của các thể nhân cung cấp dịch vụ.
- Phụ lục về dịch vụ vận tải hàng không

Phụ lục này quy định về các dịch vụ vậ
n tải hàng không theo lịch
trình, không theo lịch trình và các dịch vụ bổ sung. Theo Phụ lục thì mọi
cam kết, nghĩa vụ riêng trong khuôn khổ GATS đều không ảnh hưởng
đến các nghĩa vụ được quy định trong các hiệp định song phương và đa
phương hiện hành trong lĩnh vực này. Phụ lục xác định rõ là GATS cũng
được áp dụng đối với các dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng máy bay trong
giai đoạn không vận hành, mua bán và tiếp thị các d
ịch vụ vận tải hàng
không kể cả nghiên cứu thị trường, quảng cáo, phân bổ và các nội dung
tiếp thị khác, và hệ thống các dịch vụ đặt vé qua máy tính. Tuy nhiên,
GATS không áp dụng đối với các quyền không vận và các dịch vụ liên
quan đến việc thực thi quyền này. “Quyền không vận” được hiểu là
quyền vận chuyển hành khách, hàng hóa hoặc thư tín nhằm mục đích thu
tiền từ, đến, trong nội bộ hoặ
c xuyên lãnh thổ một quốc gia, kể cả các
điều kiện kỹ thuật, tài chính và các điều kiện khác có liên quan. Các
quyền này thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định song và đa
phương được đề cập ở trên.
- Phụ lục về dịch vụ tài chính
Phụ lục này chủ yếu áp dụng cho lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm
(liệt kê 16 hoạt động khác nhau) nhưng không áp dụng đố
i với các loại

153
dịch vụ do Chính phủ hoặc đại diện chính phủ cung cấp – tức là hoạt
động của các ngân hàng Trung ương, các loại bảo hiểm xã hội bắt buộc
hoặc các tổ chức công do Chính phủ tài trợ. Theo Phụ lục thì các Thành
viên được quyền áp dụng các biện pháp thực tế, chẳng hạn như các biện
pháp bảo hộ các nhà đầu tư, người gửi tiền, người được bảo hiểm, hoặc

bảo vệ hệ thống tài chính. Do các biện pháp này không cần phải tuân thủ
các quy định khác của Hiệp định nên chúng có thể được chọn áp dụng
trên cơ sở có sự phân biệt đối xử, nhưng chúng không được sử dụng
nhằm mục đích thoái thác cam kết.
- Phụ lục về dịch vụ vận tải hàng hải
Tháng 06/1996, Chính phủ các nước Thành viên WTO tham gia
đàm phán về dịch vụ vận tải hàng hải đ
ã thỏa thuận ngừng đàm phàn và
trên cơ sở những gì đã thỏa thuận được, sẽ nối lại và tiếp tục đàm phán
toàn diện hơn về thương mại dịch vụ. Vòng đàm phán này dự định sẽ bắt
đầu vào năm 2000. Vào thời điểm ngừng đàm phán đã có tới 42 Chính
phủ các nước tham gia; trong số đó có 24 Chính phủ đã đưa ra đề xuất
ban đầu.
- Phụ lục về viễn thông
Phụ lục này áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến
việc tiếp cận và sử dụng mạng lưới viễn thông và dịch vụ công cộng,
nhưng không áp dụng đối với các chương trình truyền hình cáp và phát
thanh. Theo Phụ lục, mỗi Thành viên phải đảm bảo để các nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông của Thành viên khác được tiếp cận và sử
dụng mạng
lưới dịch vụ viễn thông trên cơ sở các điều kiện hợp lý và không phân
biệt đối xử - đương nhiên là chỉ đối với việc cung cấp dịch vụ được quy
định trong lịch trình của mỗi Thành viên.
Một số điều kiện đặc biệt được áp dụng đối với các nước đang
phát triển. Một bình luận gia đã khái quát các điều kiện này nh
ư sau:
Hiệp định của WTO về tự do hóa thương mại dịch vụ trong dịch
vụ viễn thông cơ bản có hiệu lực vào tháng 02/1998. 72 nước Thành viên
WTO, những nước đã đồng ý mở cửa thị trường trong nước của họ cho
các công ty vào hoạt động, đã chiếm 93% trong tổng số 600 tỷ USD thu


154
nhập trong nước và quốc tế hàng năm trong lĩch vực viễn thông. Các dịch
vụ viễn thông được quy định trong Hiệp định này bao gồm điện thoại,
việc chuyển số liệu, telex, hệ thống dịch vụ di động và dịch vụ cố định,
dịch vụ dữ liệu di động, hệ thống nhắn tin và liên lạc cá nhân.
Kết thúc Vòng đàm phán Uruguay, các Thành viên GATT đã
thông qua được Hiệp đị
nh Chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), chính
thức đưa lĩnh vực quan trọng này vào hệ thống thương mại đa phương
với những quy tắc, luật lệ như quy định của GATT.
Hộp 4.2. Dịch vụ viễn thông

Các nước nhất trí là cần phải quan tâm đến lợi ích và nhu cầu
của các nước đang phát triển nhằm tăng cường năng lực dịch vụ viễn
thông cũng như cơ sở hạ tầng viễn thông của các nước này và nhằm
tăng khả năng tham gia của họ vào thương mại dịch vụ viễn thông
quốc tế. Khả năng này để ngỏ cho các nước đang phát triển; tùy
thuộc vào trình độ phát triển và nhu cầu cần thiết của mỗi nước để
đưa ra các điều kiện hợp lý (quy định trong lịch trình của từng nước)
về tiếp cận và sử dụng mạng lưới dịch vụ viễn thông. Ngoài ra, tất cả
các nước Thành viên đều được khuyến khích tham gia vào các hoạt
động hợp tác kỹ thuật, chương trình phát triển của các tổ chức quốc
tế và khu vực như Liên minh Viễn thông Quốc tế, Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra, hợp tác giữa các
nước đang phát triển cũng được khuyến khích, hỗ trợ; trong chừng
mực có thể, cung cấp thông tin cần thiết cho các nước này để họ hoàn
thiện, tăng cường khu vực viễn thông trong nước.
(Kraus, J. Đàm phán GATT: Một số hướng dẫn về kết quả Vòng đàm
phán Uruguay. Phòng Thương mại quốc tế, năm 1994, tr.49)



4
4
.
.
4
4
.
.


N
N
H
H


N
N
G
G


Y
Y


U
U



T
T




C
C
Ơ
Ơ


B
B


N
N


C
C


A
A



H
H
I
I


P
P


Đ
Đ


N
N
H
H


G
G
A
A
T
T
S
S



Hiệp định Chung về Thương mại D
ịch vụ (GATS) thiết lập một
khuôn khổ những định chế và nguyên tắc đa phương cho thương mại
dịch vụ với mục đích mở rộng thương mại dịch vụ trong những điều kiện
minh bạch và tự do hóa từng bước và là một công cụ xúc tiến tăng trưởng

155
kinh tế của mọi đối tác thương mại. Hiệp định GATS đưa ra các nguyên
tắc, chế độ, chuẩn mực pháp lý quốc tế để điều chỉnh những khía cạnh
thương mại trong việc cung cấp các dịch vụ giữa các Thành viên của
WTO và đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý toàn
diện hơn trong tương lai để điều chỉnh lĩnh vự
c còn rất mới, rất phức tạp
nhưng đầy triển vọng của thương mại quốc tế, đó là thương mại dịch vụ
và mở cửa thị trường dịch vụ thương mại, tiến tới tự do hoá thương mại
dịch vụ.
Tương tự như GATT, Hiệp định GATS gồm ba phần. Phần thứ
nhất bao gồm Hiệp đị
nh chính với 29 điều khoản quy định các nguyên
tắc, nghĩa vụ chung mà các Thành viên phải áp dụng và tuân thủ. Phần
thứ hai gồm một số phụ lục với các quy định riêng cho từng lĩnh vực. Đó
là các quy định về đi lại của các nhà cung cấp dịch vụ, dịch vụ vận
chuyển đường không, dịch vụ tài chính, dịch vụ vận chuyển hàng hải và
dịch vụ viễ
n thông. Phần thứ ba gồm các cam kết riêng của những nước
tham gia Vòng đàm phán Uruguay nhằm tạo khả năng tiếp cận thị trường
của những nước này. Ngoài ra, GATS đưa ra một số quy định về những
lĩnh vực mà các Thành viên có thể tạm thời chưa áp dụng MFN. Dưới
đây là một số nội dung chính của GATS.
4.4.1. Các phương thức cung cấp dịch vụ theo GATS

Các hoạt động thương mạ
i dịch vụ trong phạm vi quốc tế được
quy định trong GATS theo những quy chuẩn pháp lý quốc tế dựa trên 4
phương thức cung cấp dịch vụ (Điều I khoản 2 Hiệp định GATS). Đó là:
Phương thức 1: Cung cấp qua biên giới - dịch vụ được cung cấp
từ lãnh thổ một Thành viên sang lãnh thổ một Thành viên khác. Ví dụ
như một công ty tư vấn tài chính của Mỹ tư vấn cho một công ty Việt
Nam bằng điện thoại. Đặc điểm của loại hình cung cấp dịch vụ này là chỉ
có bản thân dịch vụ là đi qua biên giới, còn người cung cấp dịch vụ
không có mặt tại nước nhận dịch vụ.
Phương thức 2: Tiêu dùng ngoài lãnh thổ - người tiêu dùng của
một Thành viên (hoặc tài sản của họ) tiêu dùng dịch vụ tại lãnh thổ của
Thành viên khác. Ví dụ, người du lịch Việt Nam
đi du lịch sang Trung

156
Quốc và tiêu dùng các dịch vụ du lịch do các cá nhân và công ty Trung
Quốc cung cấp. Tàu biển của Việt Nam được đưa ra nước ngoài để sửa
chữa chính là việc Việt Nam đã nhập khẩu dịch vụ từ nước ngoài.
Phương thức 3: Hiện diện thương mại - một công ty nước ngoài
thành lập chi nhánh hoặc công ty con để cung cấp dịch vụ tại một nước
khác. Ví dụ một ngân hàng của Mỹ lập chi nhánh tạ
i Việt Nam. Phương
thức này liên quan trực tiếp đến việc đầu tư tại thị trường nước khác để
thiết lập công việc kinh doanh.
Phương thức 4: Sự hiện diện của thể nhân một nước Thành viên
trực tiếp cung cấp dịch vụ tại nước Thành viên khác. Ví dụ, ca sỹ của
Hàn Quốc tới Việt Nam biểu diễn theo chương trình do các nhà tổ chức
Việt Nam thực hiệ
n.

Mục tiêu của GATS là coi dịch vụ là đối tượng điều chỉnh. Tương
tự như hàng hóa, dịch vụ cũng được đem ra trao đổi, mua bán nhằm thu
lợi nhuận. Để tạo thuận lợi cho thương mại hóa các hoạt động dịch vụ,
GATS yêu cầu các Thành viên phải mở cửa cho thương mại dịch vụ.
Thực hiện 4 phương thức cung cấp dịch vụ nói trên chính là mở cử
a về
thương mại dịch vụ. Thương mại quốc tế hàng hóa và dịch vụ thường
được hiểu là sự di chuyển hàng hoá và dịch vụ qua biên giới của một
quốc gia. Theo quan điểm của GATS, thương mại dịch vụ không chỉ bao
gồm việc cung cấp dịch vụ qua biên giới của quốc gia mà còn liên quan
đến sự di chuyển nguồn vốn và lao động, bởi vì việc cung cấp dịch vụ

cần có sự hiện diện của cá nhân người cung cấp hoặc của công ty cung
cấp. Do vậy, việc một chi nhánh công ty bảo hiểm của nước B có trụ sở ở
nước A bán bảo hiểm cho các công ty và cá nhân ở nước A chính là việc
xuất khẩu dịch vụ từ nước B sang nước A; những dịch vụ được cung cấp
bởi cá nhân nước B tại thị trường nội địa của nước A cũ
ng được coi là
một hoạt động xuất khẩu dịch vụ, mặc dù trong cả hai trường hợp trên, cả
người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ đều nằm trên lãnh thổ nước A
và không có sự dịch chuyển của bản thân dịch vụ qua biên giới quốc gia.
Việc yêu cầu các nước mở cửa thị trường cho thương mại dịch vụ
thế giới phát triển thông qua 4 phương thức cung cấ
p dịch vụ với các

157
nguyên tắc cơ bản của WTO về MFN, NT, kể cả cạnh tranh trong GATS
dẫn đến việc GATS sẽ có tác động lớn đến sự thay đổi và phát triển của
pháp luật của các Thành viên. Ví dụ, một quốc gia khi gia nhập Hiệp
định GATS, sẽ phải xem xét và điều chỉnh không chỉ các chính sách và

luật pháp trong lĩnh vực dịch vụ mà còn cả những quy định đối với hoạt
động đầu tư nước ngoài, công vi
ệc kinh doanh của công ty nước ngoài
hay của người nước ngoài cung cấp dịch vụ trong lãnh thổ nước mình.
Bởi vậy, những quy định liên quan đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài và đối
với cá nhân người nước ngoài cũng trực tiếp liên quan đến các nghĩa vụ
mà một Thành viên của Hiệp định GATS phải tuân thủ.
Tuy nhiên, GATS không điều chỉnh tất cả các loại hình dịch vụ.
GATS có loại trừ “dị
ch vụ được cung cấp trong thi hành thẩm quyền của
Chính phủ”, đó là những dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thương
mại, cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người
cung cấp dịch vụ (Điều I khoản 3 Hiệp định GATS). Những dịch vụ do
các cơ quan chữ thập đỏ hay cơ quan nhân đạo quốc tế cung c
ấp là không
trên cơ sở thương mại, không vì mục đích lợi nhuận và bị loại trừ khỏi
phạm vi điều chỉnh của GATS. GATS cũng không điều chỉnh các dịch
vụ công cộng mà các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ độc quyền
thực hiện trong khuôn khổ thực thi quyền lực nhà nước của mình. Những
loại trừ nói trên khẳng định rằng, theo quan niệm của GATS, nói
đến
thương mại dịch vụ là nói đến việc cung cấp dịch vụ, theo một hay tất cả
4 phương thức trên, vì mục đích thương mại, vì mục đích sinh lợi. Và để
có được lợi nhuận đó, các nhà cung cấp dịch vụ phải chấp nhận cạnh
tranh trên thị trường quốc gia cũng như thị trường thế giới.
Để cụ thể hóa hơn nữa các loạ
i hình dịch vụ mà Hiệp định GATS
điều chỉnh, WTO đưa ra danh mục phân loại các dịch vụ theo ngành
(Services Sectorial Classification List – GNS/W/120). Danh mục phân
loại các dịch vụ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hệ thống hóa

các ngành dịch vụ theo một tiêu chuẩn thống nhất, từ đó giúp cho các
quốc gia tiến hành đàm phán mở cửa thị trường với tiêu chuẩn thống nhất
đó với lộ trình, giải pháp phù hợp với thực ti
ễn nước mình.


158
4.4.2. Cách phân loại dịch vụ theo GATS
Cho đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, các hệ thống phân loại phổ
biến trên thế giới chủ yếu tập trung vào đối tượng là các hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc các sản phẩm hàng hoá hữu hình. Trên thế giới tồn
tại nhiều cách phân loại khác nhau như là cách phân loại của các nước
Tây Âu điển hình là Khối EC, của Liên hiệp quốc hay của các nước xã
hội chủ nghĩa (cũ) trong Hội đồng Tương trợ kinh tế. Sự không thống
nhất trong các cách phân loại nói trên đã cản trở không nhỏ tới công tác
thống kê và phân tích các số liệu dịch vụ của kinh tế thế giới và của từng
quốc gia.
Hệ thống Phân loại theo tiêu chuẩn công nghiệp quốc tế
(International Standard Industrial Classification - ISIC) và Phân loại các
sản phẩm chủ yếu (Central Products Classification - CPC) là kết quả của
những n
ỗ lực lâu dài của Uỷ ban Thống kê Liên hiệp quốc trong việc
thống nhất các hệ thống phân loại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới.
Về cơ bản, phân loại dịch vụ của WTO dựa theo CPC. WTO phân
loại dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ
được chia ra 12 ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân
ngành, trong các phân ngành có liệt kê các hoạt động dịch vụ c
ụ thể. Việc
phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp cho việc xúc tiến đàm phán về
mở cửa thị trường dịch vụ quốc tế. Bởi vì, bản chất của các đàm phán

thương mại quốc tế là loại bỏ các hạn chế đối với việc kinh doanh các sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ chứ không phải tập trung vào các qui tắc điều
chỉnh sản xu
ất ra các hàng hoá và dịch vụ đó.
Hệ thống phân loại của WTO phân chia dịch vụ thành 12 ngành:
1. Các dịch vụ kinh doanh
a. Các dịch vụ chuyên ngành
b. Các dịch vụ liên quan đến máy tính
c. Các dịch vụ nghiên cứu và triển khai (R&D)
d. Các dịch vụ bất động sản
e. Các dịch vụ cho thuê không qua môi giới
f. Các dịch vụ kinh doanh khác

159
2. Các dịch vụ truyền thông
a. Các dịch vụ bưu điện
b. Các dịch vụ đưa thư
c. Các dịch vụ viễn thông
d. Các dịch vụ nghe nhìn
e. Các dịch vụ truyền thông khác
3. Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư công trình
a. Tổng công trình xây dựng nhà cao ốc
b. Tổng công trình xây dựng cho các công trình dân sự
c. Công việc lắp đặt và lắp ráp
d. Công việc hoàn thiện và kết thúc xây dựng
e. Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư công trình khác
4. Các dịch vụ phân phối
a. Các dịch vụ đại lý hoa hồng
b. Các dịch vụ thương mại bán buôn
c. Dịch vụ bán lẻ

d. Dịch vụ cấp quyền kinh doanh
e. Các dịch vụ phân phối khác
5. Các dịch vụ giáo dục
a. Dịch vụ giáo dục tiểu học
b. Dịch vụ giáo dục trung học
c. Dịch vụ giáo dục đại học
d. Dịch vụ giáo dục người lớn
e. Các dịch vụ
giáo dục khác
6. Các dịch vụ môi trường
a. Dịch vụ cấp thoát nước
b. Dịch vụ thu gom rác
c. Dịch vụ vệ sinh
d. Các dịch vụ môi trường khác
7. Các dịch vụ tài chính

160
a. Tất cả các dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm
b. Các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (không kể
bảo hiểm)
c. Các dịch vụ tài chính khác
8. Các dịch vụ xã hội và liên quan đến sức khoẻ
a. Các dịch vụ bệnh viện
b. Các dịch vụ y tế khác
c. Các dịch vụ xã hội
d. Các dịch vụ khác
9. Các dịch vụ du lịch và lữ hành
a. Khách sạn và nhà hàng
b. Các đại lý lữ hành và các dịch v
ụ hướng dẫn tour

c. Các dịch vụ hướng dẫn du lịch
d. Các dịch vụ du lịch và lữ hành khác
10. Các dịch vụ văn hoá và giải trí
a. Các dịch vụ giải trí
b. Các dịch vụ đại lý bán báo
c. Thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các dịch vụ văn hóa khác
d. Thể thao và các dịch vụ giải trí khác
e. Các dịch vụ văn hoá và giải trí khác
11. Các dịch vụ vận tải
a. Các dịch vụ vận tả
i biển
b. Vận tải đường thuỷ nội địa
c. Các dịch vụ vận tải đường hàng không
d. Vận tải vũ trụ
e. Các dịch vụ vận tải đường sắt
f. Các dịch vụ vận tải đường bộ
g. Vận tải theo đường ống dẫn
h. Các dịch vụ phụ trợ cho tất cả các loại vận tải
i. Các dịch vụ vận tải khác

161
12. Các dịch vụ khác không có tên ở trên
26

Trong mỗi phân ngành đều có mục “các dịch vụ khác”; đặc biệt,
ngành thứ 12 bao gồm “các dịch vụ khác không có ở trên”. Có thể thấy
rằng, tiến hành liệt kê tất cả các loại hình dịch vụ có khả năng tham gia
vào thương mại quốc tế là điều rất khó bởi sự đa dạng, phong phú và tính
chất phức tạp của dịch vụ. Việc đưa ra các mục nói trên giúp cho việc
sắp xếp, phân lo

ại dịch vụ vào các ngành và phân ngành được dễ dàng,
đồng thời tạo được tính “mở” cho danh mục phân loại của WTO. Điều đó
có nghĩa là, bất kỳ dịch vụ nào đang tồn tại hoặc các dịch vụ mới sẽ xuất
hiện trong tương lai, dù không được liệt kê trong danh mục của WTO,
cũng sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS nếu những dịch vụ này
được cung c
ấp trên cơ sở thương mại, cạnh tranh và theo một trong 4
phương thức được quy định tại Điều I Hiệp định GATS.
Các phân tích ở trên cho thấy rằng thương mại dịch vụ, theo
GATS, bao gồm các hoạt động cung cấp dịch vụ qua 4 phương thức
(cung cấp qua biên giới, tiêu dùng ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại,
hiện diện của thể nhân), trong đó dịch vụ được hiểu theo nghĩa “m
ở”, bao
gồm “bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào” được cung cấp trên
cơ sở thương mại, cạnh tranh (Điều I khoản 3 Hiệp định).
4.4.3. Những nguyên tắc cơ bản của GATS
Với mục đích thiết lập một khuôn khổ Đa phương cho hoạt động
thương mại dịch vụ nhằm mở rộng thương mại trong lĩnh v
ực này trong
điều kiện minh bạch và tự do hóa dần dần, GATS đưa ra các nguyên tắc
pháp lý mà các quốc gia Thành viên phải tuân thủ khi tham gia vào
GATS. Các nguyên tắc này, một mặt, thúc đẩy tự do hóa và mở cửa thị
trường về thương mại dịch vụ, mặt khác, tạo sự cân bằng về quyền và
nghĩa vụ của các Thành viên, đặc biệt là dành cho các nước đang và kém
phát triển những cơ hội tham gia vào thương mại dịch vụ qu
ốc tế.
Các nguyên tắc cơ bản quy định trong GATS bao gồm:
4.4.3.1. Nguyên tắc tối huệ quốc

26

Trung tâm Thương mại quốc tế. Hướng dẫn doanh nghiệp về Hệ thống thương mại thế
giới. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001, tr.279.

×