Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 8 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.79 KB, 26 trang )

dành cho viện trợ lương thực cũng được đề cập trong tổng số sản lượng
và có chương trình hành động phát triển sản phẩm trong từng thời kỳ.
Tại Phụ lục của Hiệp định, các quốc gia Thành viên cũng đã
thống nhất một số điều kiện liên quan đến quy cách đóng gói các sản
phẩm sữa và giá bán tối thiểu các mặt hàng từ sữa. Điều này làm hạn chế
việc cạnh tranh phá giá giữa các quốc gia liên quan.
5.2.3.2. Việt Nam và các vấn đề liên quan đến các sản phẩm từ
sữa
Hiệp định về các Sản phẩm từ Sữa lập được trật tự giữa các quốc
gia sản xuất, chế biến các sản phẩm từ sữa. Nếu chiến lược sản xuất sữa
giữa các quốc gia là minh bạch, thì các nước có thể có chiến lược sản
xuất sữa của mình, từ đó có thể phát triển ngành cơng nghiệp của mình
mang tính chất dài hạn hơn.
Tuy nhiên, nếu số lượng quốc gia tham gia vào Hiệp định không
đủ để tạo nên một đối trọng quan trọng trong vấn đề sản xuất sữa, thì các
thoả thuận của các quốc gia Thành viên cũng khơng đủ để tạo tiếng nói
quan trọng trong ngành công nghiệp sản xuất sữa. Nhiều quốc gia sản
xuất sữa quan trọng đã không tham gia Hiệp định này, hệ thống giá tối
thiểu cũng bị bãi bỏ năm 1995 và khơng thực hiện được. Đó cũng là lý
do tại sao Hiệp định này không trở thành Hiệp định Thương mại đa
phương.
5.2.4. Hiệp định về các Sản phẩm từ Thịt bò
5.2.4.1. Nội dung Hiệp định
Hiệp định Quốc tế về các Sản phẩm từ Thịt bò ra đời nhằm thiết
lập cơ chế hợp tác giữa các Thành viên nhằm mục đích tự do hố thương
mại trong việc bn bán các sản phẩm từ thịt bị, minh bạch hố các cơ
chế chính sách thương mại nói trên, giúp Chính phủ các nước Thành viên
có thể hoạch định chính sách phát triển liên quan đến ngàng cơng nghiệp
sản xuất thịt bị, cũng như các tiêu chuẩn trong việc sản xuất thịt bò và
các sản phẩm liên quan. Việc đưa vấn đề sản phẩm từ thịt bò vào chương
189




trình nghị sự cho thấy sự quan tâm của các nước Thành viên trong lĩnh
vực này. Để có những chính sách dài hạn, các nước Thành viên cũng đã
thống nhất thành lập Hội đồng điều phối sản xuất sản phẩm từ thịt bò
(giống trường hợp Hiệp định quốc tế về các sản phẩm từ sữa).
Cũng giống như Hiệp định Quốc tế về các Sản phẩm từ Sữa, Hiệp
định Quốc tế về các Sản phẩm từ Thịt bị cũng có quy định về giá tối
thiểu các sản phẩm từ thịt bò, tiêu chuẩn thịt bò và cách thức kiểm
nghiệm các tiêu chuẩn trên. Trong trường hợp phát hiện một quốc gia
Thành viên vi phạm các quy định tại Hiệp định trên, Hội đồng có quyền
xử lý theo các chế tài quy định tại Hiệp định GATT 1994.
Để phân tích vị trí của Việt Nam trong thị trường toàn cầu về sản
phẩm từ thịt bị, chúng ta có thể xem hộp dưới đây.
Hộp 5.1. Tác động của việc gia nhập WTO đối với các sản phẩm từ thịt
Ðối với nông nghiệp, các nước Thành viên cũ, mức thuế nông nghiệp
khoảng 22%. Nhưng xu hướng các nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều
hơn để gia nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải mất vài chục
năm đấu tranh từ GATT để có thành quả như bây giờ. Các nước mới gia nhập
nhiều hay ít đều phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm thuế.
Nhưng, tổng thể với nơng nghiệp, Việt Nam có lợi thế là có nhiều mặt
hàng nơng nghiệp xuất khẩu. Ðã xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế
giới. Chúng ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bị, thịt lợn là
các mặt hàng từ chăn ni đơn lẻ, chưa có theo hình thức trang trại. Cho nên,
trong đàm phán rất khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ, Canada,
Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò
Việt Nam phần lớn là bị cóc, mỗi hộ ni 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh
tranh khơng cao. Giống bị của Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu, phần trợ
cấp của Nhà nước trong lĩnh vực này hầu như khơng có. Các nước cũng thấy
được khó khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5% so với mức

thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tơi cũng nói thẳng đàn bị cóc Việt Nam
chết, khơng tồn tại. Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển,
mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ không phải mở theo
bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng, các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm
phán với Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bị và thịt lợn, thuế
nơng nghiệp. Chúng tơi phải chấp nhận điều kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với

190


Australia và New Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều chỉnh.
Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước đều hưởng mức thuế như
nhau. Cuối cùng Ban Thư ký sẽ tổng hợp lại.
Nguồn: Trích từ báo cáo “Tiến trình gia nhập WTO – Cơ hội và thách thức
đối với đất nứơc ta” của Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự28).

5.2.4.2. Nền công nghiệp sữa và thịt bò của Việt Nam hiện nay
Do Hiệp định này đã bị hủy bỏ năm 1997, vì vậy, việc Việt Nam
tham gia các hiệp định Thương mại về sữa và thịt bị là điều chắc chắn
khơng xảy ra. Tuy nhiên, nền nơng nghiệp Việt Nam nói chung, và lĩnh
vực chăn ni bị sữa và chế biến sữa nói riêng, được coi là điểm yếu
nhất của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO. Vì vậy, việc phân tích
một số cảnh báo về tác động của WTO đến các ngành sản xuất trong
nước có lẽ là cần thiết. Nền sản xuất nhỏ, năng suât thấp, lực lượng lao
động quá đông song chưa nắm bắt kịp các kỹ thuật tiên tiến là những trở
ngại mà Việt Nam chưa thể vượt qua trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó,
nền kinh tế phát triển nhanh và nhu cầu hoàn thiện con người Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập đã khiến nền cơng nghiệp chế biến sữa của Việt
Nam có những bước tăng đột biến. Từ Tổng công ty Sữa Việt Nam
(Vinamilk), một trong những doanh nghiệp trong nước hàng đầu, đến các

cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi như Dutch Lady hay Campina đều có
kết quả kinh doanh rất khả quan trong những năm vừa qua. Mặc dù vậy,
kết quả phát triển đàn bò sữa trong nước vẫn còn hạn chế. Nhu cầu thị
trường lớn tất yếu dẫn đến việc các nước yêu cầu Việt Nam giảm mạnh
thuế đối với sản phẩm về sữa và thịt bị. Vì vậy, hai lĩnh vực sữa và thịt
bò cũng sẽ đối diện với số lượng lớn hàng ngoại nhập.
5.3. VIỆT NAM VÀ VIỆC THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH NHIỀU BÊN
Sự cần thiết gia nhập các hiệp định nhiều bên
Các hiệp định về Thịt bò và Sữa đã hết hiệu lực từ năm 1997. Các
quốc gia ký các hiệp định này đã quyết định rằng các lĩnh vực này nên
được đưa vào các hiệp định về hàng hố nơng sản và vệ sinh thực phẩm
28

/>
191


(Agriculture and Sanitary and Phytosanitary Agreements). Vì vậy, Việt
Nam khơng cần phải tham gia các hiệp định trên. Hơn nữa, mặc dù Việt
Nam chưa gia nhập các hiệp định Thương mại nhiều bên, song trong quá
trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết giảm mạnh thuế
suất các mặt hàng liên quan đến sữa và thịt bò. Theo cam kết của Việt
Nam, mức thuế nhập khẩu thịt bò "loại hai" (như nội tạng, phần thừa...)
sẽ ngay lập tức giảm từ 20% xuống còn 15%, và xuống 8% trong vòng 4
năm tiếp theo. Thuế đối với sản phẩm thịt bò lọc xương cũng sẽ giảm từ
20% xuống 14% trong vịng 5 năm. Xúc xích bị - hiện đang chịu mức
thuế 50% - cũng sẽ giảm ngay lập tức xuống 40% và xuống 22% trong
vòng 5 năm tới.29 Thuế đối với mặt hàng nước sữa nhập khẩu sẽ giảm
20-30% xuống cịn 10% theo lộ trình 5 năm. Pho mát sẽ ngay lập tức
được hưởng thuế 10% so với mức 20% hiện tại. Thuế đối với kem cũng

giảm từ 50% xuống cịn 20% sau 5 năm. Trước tình hình như trên, có thể
nói dù có hay khơng tham gia các hiệp định Thương mại về sữa và thịt
bị, thì nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của hàng
ngoại nhập đối với các mặt hàng trên. Vấn đề cịn lại là Việt Nam có nhất
thiết phải tham gia cơ chế theo đó giá tối thiểu các sản phẩm từ thịt bị
hay bơ sữa sẽ được quản lý khơng. Nếu Việt Nam không phải là nước
phát triển mạnh về sản xuất thịt bị hay bơ sữa, thì việc quy định giá tối
thiểu chỉ bất lợi cho người tiêu dùng. Mặc dù vậy, trong tương lai, khi
sản phẩm sữa và thịt bị của Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước
khác trên thế giới thì việc quy hoạch tốt sản xuất, trong đó quy định giá
bán hợp lý có thể giúp cho hàng hố Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh cao
hơn trên trường quốc tế, cũng như giúp Chính phủ quy hoạch phát triển
những ngành cơng nghiệp, nơng nghiệp có liên quan.
Riêng đối với Hiệp định về Mua sắm Máy bay và Hiệp định về
Mua sắm của Chính phủ, Việt Nam chưa tham gia Hiệp định Thương
mại nào. Tuy nhiên, các quy định hiện hành của Việt Nam về đấu thầu đã
dần đạt được các mức quy định của WTO và Hiệp định về Mua sắm của
Chính phủ. Hạn chế cuối cùng còn lại là việc bãi bỏ phân biệt đối xử
29

Thơng tin của Bộ Tài Chính ngày 31/10/2006 “Doanh nghiệp Mỹ nhiều cơ hội tiếp cận
thị trường Việt Nam”.

192


giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Từ trước đến
nay trong quá trình đàm phán, chúng ta ln muốn được cơng nhận là
một nước có nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp, để bảo vệ một số
ngành cơng nghiệp và dịch vụ cịn non trẻ. Vì vậy, khả năng mở rộng thị

trường trong lĩnh vực mua sắm chính phủ có thể cịn nhiều vấn đề phải
cân nhắc. Riêng đối với Hiệp định Thương mại Mua sắm máy bay, trên
thực tế ở Việt Nam chỉ có hai hãng hàng khơng, trong đó một là của Nhà
nước (Vietnam Airlines), vì vậy, việc giảm thuế khơng tác động lớn. Nếu
tăng thuế thì tiền đóng thuế cũng là tiền của Nhà nước (đối với trường
hợp của Vietnam Airlines), nên cũng không tăng được nguồn thu đáng kể
nào cho ngân sách.

193


Chương VI
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
VÀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
PGS. TS. Trần Văn Nam
Khoa Luật, Đại học Kinh tế Quốc dân
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những yêu cầu của WTO
mà các Thành viên phải thực hiện, do đó, các nước Thành viên phải ban
hành và tăng cường hệ thống luật pháp trong nước sao cho phù hợp tiêu
chuẩn của Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(TRIPs). Một quốc gia có chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mạnh sẽ
góp phần quan trọng vào việc thu hút đầu tư nước ngồi vào nước đó.
Đối với Việt Nam, sở hữu trí tuệ đang ngày càng đóng góp một
vai trị rất to lớn trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
và góp phần thực hiện đường lối chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế. Một hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, một cơ chế
chính sách đồng bộ, nhất quán, một bộ máy thực thi có hiệu quả, phù hợp
với yêu cầu của hoạt động sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của các cơ quan quản lý
nhà nước về sở hữu trí tuệ. Thực hiện mục tiêu này cũng là nhằm đáp

ứng kỳ vọng của các doanh nghiệp, của các nhà đầu tư nước ngoài, của
người tiêu dùng và của tồn xã hội.
6.1. TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

6.1.1. Khái niệm về Tài sản trí tuệ và Quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản trí tuệ là các thành quả do trí tuệ con người tạo ra thơng
qua hoạt động sáng tạo , bao gồm các tác phẩm văn học nghệ thuật, các
sáng tạo khoa học kỹ thuật và các giống cây trồng mới.

194


Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản
trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là việc Nhà nước, thơng qua hệ thống
luật pháp và các cơ quan có thẩm quyền, xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản trí tuệ của tổ chức, cá nhân đã tạo ra hoặc nắm giữ tài sản trí tuệ đó
và thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm quyền đó được thực thi,
chống lại mọi sự xâm phạm của người khác.
6.1.2. Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: quyền tác giả và các quyền liên
quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Đối tượng của quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học; đối tượng của quyền liên quan đến quyền tác giả bao
gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, cuộc phát sóng, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hố.
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh

doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật
liệu nhân giống
6.1.3. Tổng quan về quá trình hình thành pháp luật quốc tế về
sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ khơng phải là một vấn đề mới trong thực tiễn hoạt
động kinh tế thế giới. Từ cuối thế kỷ XIX đã hình thành và phát triển
nhiều Điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ, trong đó quan trọng
nhất là Cơng ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (ký kết năm 1883,
được sửa đổi lần cuối cùng vào năm 1979); Công ước Berne về bảo hộ
các tác phẩm văn học và nghệ thuật (ký kết năm 1886, được sửa đổi lần
cuối cùng năm 1979); Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng (ký kết năm 1961) và Cơng
ước về bảo hộ giống cây trồng mới (ký kết năm 1961, được sửa đổi lần
cuối cùng vào các năm 1978 và 1991). Các Điều ước nói trên đều khẳng
195


định vai trò ngày càng quan trọng của sở hữu trí tuệ đối với hoạt động
đầu tư, sản xuất và thương mại ở từng quốc gia cũng như trong quan hệ
quốc tế.
Tuy nhiên, chỉ từ những năm 1980, sở hữu trí tuệ mới trở thành
mối quan tâm thường xuyên và có ảnh hưởng trực tiếp tới các thể chế
thương mại quốc tế 30. Các hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đã có ở các
quốc gia khác nhau được đánh giá lại và bị đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu
chuẩn thống nhất có tính chất quốc tế. Thực tế đã hình thành một tư duy
mới trên góc độ thương mại đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Các điều ước
quốc tế liên tục được sửa đổi, cùng với sự phát triển của khoa học, công
nghệ, kinh tế, văn hóa xã hội. Một Điều ước quốc tế mới về sở hữu trí tuệ
đã ra đời, đó là Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của

quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) trong khn khổ WTO được ký
kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1995. Hiệp định
TRIPs là kết quả của Vòng đàm phán Uruguay kéo dài từ năm 1986 đến
năm 1994 .
Cùng với sự phát triển của công nghệ, nguy cơ của một nền
thương mại thiếu lành mạnh dựa trên tệ đánh cắp các tài sản trí tuệ cũng
ngày càng trầm trọng. Tạo lập một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hữu
hiệu nhằm ngăn chặn nguy cơ này là một địi hỏi bức thiết và có tính chất
quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, Hiệp
định TRIPs "góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến
công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng cơng
nghệ cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng
giữa quyền và nghĩa vụ”. (Điều 7 Hiệp định TRIPs). Điều khoản này
nhằm đảm bảo sự bảo hộ không quá thiên lệch về quyền của chủ sở hữu
trí tuệ và lợi ích của các nước đang phát triển. Việc Việt Nam trở thành
Thành viên chính thức thứ 150 của WTO từ ngày 11/01/2007 buộc nước
ta phải tuân thủ mọi quy định của Hiệp định TRIPs.
Hiệp định TRIPs ra đời đã làm thay đổi bộ mặt của hệ thống sở
hữu trí tuệ thế giới. Về nguyên tắc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Hiệp định
30

Cục Sở hữu trí tuệ. Vấn đề sở hữu trí tuệ trong q trình hội nhập quốc tế và các vấn đề
pháp lý, thực tiễn đặt ra cho Việt Nam. Khóa tập huấn do Cục Sở hữu trí tuệ tổ chức tại
Phan Thiết, tháng 11/2006.

196


TRIPs tái khẳng định đồng thời mở rộng các quy định của Công ước
Paris và Công ước Berne. Hiệp định TRIPs đòi hỏi mọi quốc gia Thành

viên của WTO phải xây dựng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các tiêu
chuẩn tối thiểu thống nhất. Một cách tổng quát, các tiêu chuẩn tối thiểu
ấn định trong Hiệp định TRIPs nhằm bảo đảm cho mỗi Thành viên có
một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu quả.
Khi một hệ thống sở hữu trí tuệ đang vận hành có thể sản sinh ra
những lợi ích về văn hóa và kinh tế quan trọng, thì vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu cũng có thể đóng góp vào một xã hội dân chủ, một nền kinh tế
mạnh và sự tiến bộ của khoa học. Thúc đẩy việc truyền bá rộng rãi kiến
thức và thông tin đồng thời bảo đảm rằng các tác giả và nhà sáng chế
nhận được sự bảo vệ thích đáng đối với tác phẩm của họ là điều rất quan
trọng.
Với việc gia nhập WTO, các cam kết, nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ
trong TRIPS dường như thống nhất và chi phối hầu hết các quan hệ kinh
tế, thương mại song phương, đa phương khác giữa Việt Nam với các đối
tác đồng thời cũng chi phối hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, sản xuất,
kinh doanh của các chủ thể khác nhau trên cả nước. Đối với nền kinh tế
một nước, làm tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tạo ra một mơi
trường thuận lợi cho sự sáng tạo, bảo đảm động lực thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh và thương mại; khuyến khích nghiên cứu, phát triển cơng
nghệ, nâng cao chất lượng hàng hố và tạo uy tín cho sản phẩm. Hệ
thống sở hữu trí tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển cơng
nghệ và kinh doanh lành mạnh, có vai trị tích cực đối với cơng cuộc phát
triển kinh tế của mỗi Thành viên.
6.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
6.2.1. Quy định của Việt Nam về Quyền sở hữu trí tuệ trước
năm 2005
Từ năm 1995 đến năm 2005, toàn bộ hệ thống các quy định của
Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu được xây dựng trên cơ
sở Chương I và Chương II phần IV của Bộ Luật Dân sự năm 1995.
Ngồi ra cịn có một số quy định liên quan đến sở hữu trí tuệ (SHTT)

197


được ghi nhận tại một số văn bản pháp luật thuộc các chuyên ngành khác
như: Bộ luật Hình sự, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Hải quan, Luật
Thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh giống cây trồng...Trước khi ban hành Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005, Việt Nam đã có hơn 40 văn bản liên quan đến quy định
việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, tạo cơ chế bảo hộ tương đối đầy đủ, tiếp cận
được với tiêu chuẩn bảo hộ trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống đó cũng
bộc lộ một số tồn tại như:
(i) Các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ cịn tản mạn, thiếu
đồng bộ, hiệu lực thi hành thấp.
(ii) Quy định về sở hữu trí tuệ của Bộ luật Dân sự chủ yếu mang
tính nguyên tắc chung, chưa đầy đủ và cụ thể, thiên về khía
cạnh dân sự mà chưa chú trọng đúng mức tới khía cạnh kinh
tế, thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
(iii) Các quy định về thực thi, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chưa
đủ cụ thể và minh bạch, chưa phù hợp với yêu cầu của quốc
tế.
6.2.2 Quy định hiện hành của Việt Nam về các đối tượng sở
hữu trí tuệ và tiêu chuẩn bảo hộ các đối tượng SHTT
Năm 2005, Việt Nam đã ban hành Bộ luật Dân sự số
33/2005/QH11 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Tại phiên họp ngày
18/11/2005, Quốc Hội cũng đã thơng qua Luật Sở hữu trí tuệ- Luật số
50/2005/QH11. Luật này có hiệu lực thi hành vào ngày 01/07/2006, bao
gồm 6 phần 18 chương và 226 điều. Luật Sở hữu trí tuệ điều chỉnh tất cả
các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ. Hai văn bản này đã tạo thành một
hệ thống các quy định hoàn chỉnh và thống nhất về quyền sở hữu trí tuệ
thay thế cho các quy định truớc đây. Xét ở phạm vi rộng, hai văn bản này

đều dựa trên cơ sở những quy định trước đây về sở hữu trí tuệ. Trong
trường hợp có sự xung đột giữa Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các quy
định về quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2005 sẽ được áp dụng.

198


Quyền tác giả và quyền liên quan
Theo Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm các tác phẩm văn học,
khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới
dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện
ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự; tác phẩm tạo
hình, mỹ thuật ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản
họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, cơng trình khoa
học; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu
tập dữ liệu
Đối với quyền tác giả hoặc quyền liên quan chưa được đăng ký,
nguồn gốc tác giả sẽ đuợc xác định trên cơ sở tên của tác giả xuất hiện
theo thông lệ trên bản sao của tác phẩm gốc. Đối với quyền tác giả đã
đăng ký, tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đã đăng ký sẽ khơng có
nghĩa vụ chứng minh khi có tranh chấp, trừ phi có tuyên bố về việc nộp
đơn đăng ký quyền tác giả là sai.
Sáng chế:
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình
nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy định
tự nhiên. Theo quy định tại các Điều từ 750 đến 753 của Bộ luật Dân sự
2005 và Phần III của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Sáng chế được bảo hộ

phải đáp ứng các yêu cầu sau: có tính mới so với tình trạng kỹ thuật thế
giới; có trình độ sáng tạo; có khả năng áp dụng cơng nghiệp. Sáng chế có
tính mới đối với thế giới, và có khả năng áp dụng cơng nghiệp - thậm chí
khơng có trình độ sáng tạo nhưng khơng phải là hiểu biết thơng thường –
có thể được bảo hộ theo Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Điều 58.2
của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Theo Hiệp định TRIPS, mẫu hữu íchgiải pháp hữu ích dạng cơ cấu, cũng phải được bảo hộ.
Nhãn hiệu:
Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, chữ cái, ảnh, hình ảnh – bao gồm cả
hình khối - hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
199


nhiều màu sắc (Điều 72 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Nhãn hiệu
được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750-753 của Bộ luật Dân sự
2005 và Phần III của Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Khơng có u cầu bắt
buộc đăng ký nhãn hiệu đối với bất kỳ hàng hoá và dịch vụ nào. Nhãn
hiệu chỉ được bảo hộ nếu được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ và việc
đăng ký nhãn hiệu là quyền của các chủ sở hữu nhãn hiệu.
Kiểu dáng công nghiệp:
Kiểu dáng cơng nghiệp - hình dáng bên ngồi của sản phẩm được
thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp của các yếu
tố đó, có tính mới đối với thế giới và có khả năng dùng làm mẫu để chế
tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp - được bảo hộ theo quy
định tại các Điều từ 750 đến 753 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Phần
III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Tên thương mại:
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức/cá nhân dùng để phân biệt
với tổ chức/cá nhân khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Sử
dụng tên thương mại là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương
mại bằng cách dùng tên thương mại trong các hoạt động kinh doanh, thể

hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm,
hàng hố, bao bì hàng hố và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo
(Điều 124.6 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005).
Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định nhằm giải quyết xung đột
quyền giữa tên thương mại với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ
trước. Tên thương mại không được bảo hộ nếu trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý
đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng (Điều 78.3
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005).
Chỉ dẫn địa lý:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý bao gồm cả tên
gọi xuất xứ hàng hóa được xác lập trên cơ sở đăng ký với Cục Sở hữu trí
tuệ. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vơ thời hạn. Điều 79 của Luật Sở hữu trí
200


tuệ 2005 quy định các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải (i) có nguồn
gốc từ khu vực, địa phương, lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn
địa lý đó và (ii) có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều
kiện địa lý của khu vực, địa phương, lãnh thổ hoặc nước tương ứng chỉ
dẫn địa lý đó quyết định. Chỉ dẫn địa lý tương ứng với khu vực và địa
phương thuộc một quốc gia hoặc lãnh thổ xuyên biên giới quốc tế được
bảo hộ nếu đáp ứng tất cả các yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Bí mật kinh doanh:
Bất cứ thơng tin nào có thể được sử dụng trong hoạt đơng kinh
doanh và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay
trong thực tại đều được coi là bí mật kinh doanh. Bí mật kinh doanh có
thể bao gồm bí mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm công thức sản xuất
ra các sản phẩm; việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh
cho một doanh nghiệp. Bí mật kinh doanh thậm chí cịn bao gồm cả

chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối. Khác với bằng sáng chế, bí
mật kinh doanh được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký
với cơ quan có thẩm quyền.
Các bí mật kinh doanh, được bảo hộ theo các quy định của Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005 về quyền sở hữu cơng nghiệp trong đó có các
Điều 4.4, 6.3(c) và Phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Bí mật
kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định
mà không phải đăng ký. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh có quyền cấm
việc sử dụng trái phép bí mật kinh doanh của mình và u cầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hành vi xâm phạm
và bồi thường thiệt hại
Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của
các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán
dẫn. Để được bảo hộ, thiết kế bố trí được phải có tính ngun gốc và có
tính mới thương mại. Ngun lý, quy trình, hệ thống, phương pháp được
thực hiện bởi mạch tích hợp bán dẫn, hoặc thơng tin, phần mềm chứa

201


trong mạch tích hợp bán dẫn khơng được bảo hộ với danh nghĩa thiết kế
bố trí.
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ theo các Điều
4.4, 6.3(a) và Phần III của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định
của Chính phủ số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng mới hiện nay được bảo hộ theo Phần I và Phần
IV của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Các quy định về nội dung của Luật

Sở hữu trí tuệ 2005 về bảo hộ giống cây trồng được dựa trên Công ước
quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV). Công dân Việt Nam và
người nước ngoài được hưởng sự bảo hộ theo quy định tại Điều 157 của
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Giống cây trồng được bảo hộ nếu có tính
mới, tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định.
6.2.3. Vấn đề bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo quy
định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005
Quy định chung
Nhìn chung, quy định pháp luật trước đây về bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp
định TRIPS 31.
Về nguyên tắc cơ bản của cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tổng quan các biện pháp xử lý hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ32, bao gồm các biện pháp dân sự, hành
chính hoặc hình sự. Ngồi ra cịn có các biện pháp khác mang tính hỗ trợ
áp dụng 3 loại chế tài nói trên bao gồm biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện
pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí
tuệ, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những
trường hợp cần thiết.

31

Bộ Tư pháp. Đề cương giới thiệu Luật Sở hữu trí tuệ 2005, truy cập tại trang web

32
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, Điều 199

202



Về quyền tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ coi
quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là quyền quan trọng,
xuất phát từ tính dân sự của quyền SHTT (quyền tài sản). Để quyền này
được được pháp luật bảo hộ, địi hỏi chủ thể quyền cần phải chủ động, tự
mình tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của chính
mình. Vì vậy, nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
Luật Sở hữu trí tuệ nhấn mạnh trách nhiệm của chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ trong việc tự bảo vệ quyền của mình bằng các biện pháp thích hợp,
khơng nên chỉ thụ động trông chờ vào sự hỗ trợ của các cơ quan thực thi
33
.
Về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Luật Sở
hữu trí tuệ xác định cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ (Tồ án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan,
Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp). Việc phân định phạm vi nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ quan này sẽ được cụ thể hóa tại các văn bản
dưới luật khác. Luật Sở hữu trí tuệ cũng đã bổ sung quy định về hoạt
động giám định về sở hữu trí tuệ34, tạo cơ sở cho việc triển khai hoạt
động này nhằm hỗ trợ cho cơng tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được
thực hiện có hiệu quả.
Biện pháp dân sự
Quy định pháp luật trước đây về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo
trình tự dân sự về cơ bản đã phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là
Hiệp định TRIPs. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bổ sung các quy định
cơ bản sau đây:
Về nghĩa vụ chứng minh, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã quy
định cụ thể hoá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 về
quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của đương sự trong
các vụ tranh chấp hoặc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 203). Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bổ sung quy định về nghĩa vụ chứng minh

của bị đơn trong vụ xâm phạm quyền đối với sáng chế sản phẩm mới
hoặc sáng chế quy trình (Điều 203.4).
33
34

Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, Điều 198
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, Điều 200, 201

203


Về các biện pháp chế tài dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
quy định cụ thể các biện pháp dân sự để xử lý tổ chức, cá nhân có hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 202), bao gồm các biện pháp
buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính cơng khai;
buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ
hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng khơng nhằm mục đích
thương mại đối với hàng hố, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được
sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ với điều kiện khơng làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác
quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005 quy định quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 206, Điều 208) và các biện pháp khẩn cấp
tạm thời có thể áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh
hàng hố đó (Điều 207), bao gồm thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay
đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm chuyển dịch quyền sở hữu; và các
biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được áp dụng theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bổ sung quy định về nguyên tắc
xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần, mức độ thiệt hại được xác định trên
cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra (Điều 204), đồng thời bổ
sung quy định về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ (Điều 205), tạo cơ sở cho Toà án quyết định trong
các vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Hầu hết nội dung nêu trên của Luật Sở hữu trí tuệ là các quy định
mới được bổ sung nhằm đáp ứng với yêu cầu của các điều ước quốc tế về
sở hữu trí tuệ và khắc phục các điểm bất cập trong quy định pháp luật
trước đây về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo trình tự dân sự.
Biện pháp hành chính và hình sự
Về trình tự hành chính và các biện pháp chế tài hành chính, Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định cụ thể về xử lý vi phạm hành chính,
204


đặc biệt là các hành vi xâm phạm bị xử lý. Các hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính bao gồm hành vi thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc
cho xã hội; không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mặc
dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu
chấm dứt hành vi đó; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, bn bán hàng
hố giả mạo về sở hữu trí tuệ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi
này; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu,
chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi
này. Trên thực tế, biện pháp hành chính được áp dụng đối với những
hành vi xâm phạm có tính cố ý, gây mất ổn định trật tự của cộng đồng

kinh doanh, trong khi phần lớn các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ gây ra các xung đột trong thực thi các quyền dân sự.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị xử lý về hành
chính theo quy định của Luật Cạnh tranh, hoặc bị xử lý về dân sự theo
quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (xem hộp 6.1).
Hộp 6.1. Hà Nội thu 51 máy tính vi phạm bản quyền phần mềm!
Ngày 24/5/2005, Thanh tra Bộ Văn hố Thơng tin phối hợp với Cục
cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (Bộ Công an) đã
tiến hành thanh tra hai cơng ty máy tính lớn ở Hà Nội là cơng ty Máy tính Vĩnh
Xn (trụ sở tại 39 Trần Quốc Toản, HN) và công ty TNHH Thương mại và
Dịch vụ Trần Anh (trụ sở tại 95 Lý Nam Đế, HN).
Đoàn thanh tra liên ngành đã lập biên bản vi phạm hành chính tại Cơng
ty Máy tính Vĩnh Xuân; tạm thu giữ 21 chiếc CPU và 25 đĩa CD ROM có chứa
các phần mềm vi phạm bản quyền. Tại Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ
Trần Anh, đoàn thanh tra tạm thu giữ 30 chiếc CPU (trong đó, có 2 màn hình và
2 chiếc CPU là phương tiện sao chép phần mềm khơng có bản quyền) và 65 đĩa
CD ROM.
Các phần mềm vi phạm bản quyền trong các đĩa CD ROM này gồm: hệ
điều hành Microsoft Windows XP, Microsoft Office 2003, bộ Từ điển Lạc Việt,
bộ gõ Vietkey và phần mềm diệt Virus Norton Antivirus.
Trong các máy tính bán cho khách hàng, đồn thanh tra cũng phát
hiện nhiều phần mềm khơng có bản quyền được cài đặt, chủ yếu gồm những ứng

205


dụng phổ biến như trên: hệ điều hành, từ điển, bộ gõ, phần mềm chống virus...
Thơng tin từ đồn thanh tra cho biết, tổng giá trị các phần mềm bất hợp
pháp ước tính lên tới hơn 200 triệu đồng. Điều này cho thấy không chỉ những
phần mềm của các doanh nghiệp phần mềm nước ngồi bị xâm hại mà ngay

chính những sản phẩm phần mềm trong nước cũng đang bị sao chép tràn lan.
Đợt kiểm tra này là một trong những hoạt động tiếp theo nằm trong chiến dịch
xoá bỏ nạn vi phạm bản quyền phần mềm. Chủ trương của Chính phủ và các Bộ
ngành liên quan là nhất quán trong việc đẩy mạnh thực thi quyền sở hữu trí tuệ,
trong đó có phần mềm, nhằm tạo một mơi trường kinh doanh lành mạnh; đồng
thời, thúc đẩy đầu tư sản xuất, thu hút đầu tư nước ngoài và phục vụ cho công
cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Những cuộc thanh tra này là một hành động nghiêm túc thể hiện cam kết
của Chính phủ về đẩy mạnh hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh
vực phần mềm.
Nguồn: Hoàng Hùng, Vietnamnet, 25/3/2005

Về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp
ngăn chặn hành chính, Luật Sở hữu trí tuệ quy định chỉ những tổ chức, cá
nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều
211.1 của Luật này mới bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị
áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính gồm cảnh cáo; phạt tiền,
và tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm cịn có thể bị áp dụng một hoặc
các hình thức xử phạt bổ sung gồm tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu
trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản
xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ có thời hạn
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm. Ngoài ra, tổ
chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cịn có thể bị áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả (Điều 214).
Nhằm phát huy tác dụng răn đe và trừng phạt đối với những người
có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính, Luật
Sở hữu trí tuệ quy định nâng mức tiền phạt so với trước đây, theo đó mức
tiền phạt cần được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát
hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi
phạm đã phát hiện được (Điều 214.4).

Liên quan tới các biện pháp kiểm sốt về sở hữu trí tuệ đối với
206


hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ bản Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các
quy định pháp luật trước đây, trong đó quy định cụ thể các biện pháp
kiểm sốt về sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cũng
như trong thị trường nội địa theo hướng xác định rõ nội dung biện pháp
(Điều 216), điều kiện và trình tự thực hiện biện pháp (Điều 217; 218).
Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định trong trường hợp người
yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan có lý do chính đáng thì thời hạn
tạm dừng có thể kéo dài, nhưng khơng được quá 20 ngày, với điều kiện
người yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan phải nộp khoản bảo đảm theo
quy định. Quy định cho phép kéo dài thời hạn tạm dừng thủ tục hải quan
nhằm đảm bảo việc bồi thường cho chủ hàng trong trường hợp chủ sở
hữu trí tuệ lạm dụng quyền của mình. Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ
cũng quy định mang tính nguyên tắc về việc kiểm tra, giám sát để phát
hiện hàng hố có dấu hiệu xâm phạm (Điều 219), theo đó khi phát hiện
lơ hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan
thông báo ngay cho người yêu cầu kiểm tra, giám sát. Trong thời hạn 3
ngày làm việc tính từ ngày được thơng báo, nếu người u cầu kiểm tra,
giám sát khơng có u cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan và cơ quan hải
quan không quyết định xem xét việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đối với người xuất khẩu, nhập khẩu lơ hàng thì cơ quan hải quan có trách
nhiệm tiếp tục làm thủ tục hải quan cho lơ hàng đó. Quy định này là cần
thiết nhằm tránh sự lạm dụng thủ tục của người yêu cầu kiểm tra, giám
sát và phù hợp với tập quán quốc tế.
Điều 212 Luật Sở hữu trí tuệ quy định trong trường hợp cá nhân
thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội
phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.

6.2.4. Các điều ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
do Việt Nam ký kết hoặc tham gia
Luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều uớc quốc tế năm 2005
quy định việc áp dụng trực tiếp, toàn bộ hay một phần các điều ước quốc
tế mà Việt Nam là Thành viên do Quốc hội quyết định. Trong trường hợp
có quy định khác nhau giữa luật pháp Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ
và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, quy định của điều ước
207


quốc tế sẽ được áp dụng theo quy định tại Điều 5.3 của Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005.
Việt Nam đã tham gia Công ước Paris từ năm 1949 và gần đây đã
ký kết tham gia thêm nhiều điều ước quốc tế song phương, Đa phương
quan trọng về sở hữu trí tuệ.
Việt Nam là Thành viên của Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế
nhãn hiệu từ năm 1949; Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới từ năm 1976; Hiệp ước Hợp tác bằng sáng chế từ tháng 3/1993. Việt
Nam là Thành viên chính thức của Công ước Berne từ ngày 26/10/2004,
Công ước Geneva từ ngày 6/7/2005, Công ước Brussels từ ngày
12/1/2006 và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid về đăng ký
quốc tế nhãn hiệu từ ngày 11/7/2006. Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp
định song phương về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Hoa Kỳ và Thuỵ Sĩ. Gần
đây, Việt Nam đã tham gia Công ước Rome và Công ước quốc tế về bảo
hộ giống cây trồng mới (UPOV) vào tháng 11/2006.
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế song
phương và đa phương quan trọng liên quan đến sở hữu trí tuệ sau:
6.2.4.1. Cơng ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Công ước này được ký tại Paris năm 1883 và đã có tới 155
nước Thành viên tính đến ngày 22/06/1999. Việt Nam trở thành Thành

viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp kể từ ngày
08/03/1949. Công ước quy định một số điều khoản bắt buộc mà các
nước Thành viên tuân thủ như tính độc lập của Bằng độc quyền sáng
chế do nhiều nước cấp cho cùng một sáng chế, quyền được ghi tên vào
Văn bằng bảo hộ của tác giả... Những điều khoản chủ yếu của Công
ước này là:
Đối xử quốc gia: Mỗi nước Thành viên của Công ước phải bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp cho công dân của các nước Thành viên khác
như bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp cho chính cơng dân nước mình.
Quyền ưu tiên: Nếu người nộp đơn yêu cầu bảo hộ cùng một đối
tượng sở hữu công nghiệp tại nhiều nước Thành viên khác nhau của
Cơng ước thì trong thời hạn nhất định sau ngày nộp đơn đầu tiên (12
208


tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối với nhãn hiệu và kiểu
dáng công nghiệp) và những đơn nộp sau được xem như có ngày nộp
đơn là ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
6.2.4.2. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật
Việt Nam đã chính thức trở thành Thành viên thứ 156 của Cơng
ước Berne từ năm 2004. Có thể nói, Công ước Berne về bảo hộ các tác
phẩm văn học và nghệ thuật là cơng ước quốc tế có vị trí quan trọng hàng
đầu trong việc quy định các thơng lệ quốc tế cơ bản nhằm bảo hộ bản
quyền tác giả. Theo Công ước, bất kỳ sáng tác nào thuộc lĩnh vực văn
học, khoa học và nghệ thuật phải được bảo hộ kể từ khi tác phẩm ra đời,
nếu đó là tác phẩm nguồn gốc của tác giả thuộc một nước tham gia Công
ước. Các quyền độc quyền tổng quát bao gồm việc sao chép, dịch thuật,
cải biên, ngâm đọc hoặc biểu diễn công khai, và truyền đạt cho công
chúng. Các quyền này được công nhận tại tất cả các nước Thành viên đối

với sáng tác của bất kỳ tác giả nào thuộc một trong các nước đó.
Với việc tham gia Công ước, các nhà xuất bản Việt Nam khi
muốn xuất bản tác phẩm của người nước ngoài dưới mọi hình thức đều
phải được phép bằng văn bản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm hoặc tổ
chức đại diện hợp pháp quyền tác giả. Xét về mặt tổng thể, việc tham
gia Công ước Berne là một trong những mốc quan trọng trong việc tôn
trọng và bảo vệ quyền cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật nước
ngoài, đồng thời nó cũng là cơ sở để thúc đẩy việc bảo vệ và thực thi
bản quyền trong nước.
6.2.4.3. Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm
chống lại sự sao chép không được phép
Từ năm 2005, Việt Nam chính thức triển khai thực hiện các quy
định của Cơng ước Geneva về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm, nhằm
chống lại việc sao chép, nhập khẩu và phát hành trái phép bản ghi âm có
xuất xứ từ các nước thành viên. Việt Nam cam kết sẽ bảo hộ nhà sản xuất
bản ghi âm là công dân của các nước Thành viên khác chống lại việc làm
bản sao và nhập khẩu bản sao mà không được sự đồng ý của nhà sản xuất
bản ghi âm đó.
209


6.2.4.4. Cơng ước về phân phối tín hiệu mang chương trình
truyền qua vệ tinh
Cơng ước Brussels 1974 về phân phối tín hiệu mang chương trình
truyền qua vệ tinh có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 12/01/2006,
quy định nghĩa vụ của mỗi quốc gia Thành viên tiến hành các biện pháp
thích đáng, để ngăn chặn việc phân phối khơng được phép trên hoặc từ
lãnh thổ của nước mình các tín hiệu mang chương trình được truyền qua
vệ tinh. Việc phân phối là không được phép, nếu như không được tổ
chức phát sóng giữ vai trị quyết định nội dung chương trình phát sóng

cho phép. Cơng ước khơng bảo hộ đối với chương trình được truyền
phát, nếu đối tượng của sự bảo hộ là những tín hiệu được phát ra bởi tổ
chức gốc. Công ước cho phép việc phân phối các tín hiệu mang chương
trình bởi những người khơng có thẩm quyền, nếu các tín hiệu này là phần
trích ngắn bao gồm tin tức thời sự, đoạn trích, các trích dẫn ngắn của
chương trình được truyền bằng tín hiệu đã được phát ra, hoặc trong
trường hợp đối với các nước đang phát triển, chương trình truyền phát
được phân phối chỉ với mục đích giảng dạy, kể cả việc giảng dạy cho
người lớn hoặc nghiên cứu khoa học.
Năm 2006, bên cạnh việc tham gia Công ước Brussels 1974 về
phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Việt Nam cũng
đã tham gia một số công ước khác như Cơng ước UPOV về bảo hộ
giống cây trồng mới.
Ngồi ra, một số Hiệp định Thương mại song phương (BTAs) do
Việt Nam ký kết với các nước như Hiệp định Thương mại song phương
Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định Thương mại song phương Việt NamThụy sỹ, cũng có các quy định cụ thể về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
chủ sở hữu có liên quan.
Bên cạnh các điều ước quốc tế có tính bảo hộ lẫn nhau về quyền
sở hữu trí tuệ như trên, cịn có các điều ước được ký kết nhằm thuận lợi
hóa việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi quốc tế như Thoả ước Madrid
về đăng ký quốc tế nhãn hiệu; Hiệp ước về hợp tác sáng chế (PCT).
6.2.4.5. Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và Nghị
định thư liên quan đến thoả ước về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
210


Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định
việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phịng quốc tế của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Tính đến ngày 22/06/1999 Thoả
ước Madrid có 51 thành viên. Việt Nam tham gia Thoả ước này từ ngày

08/03/1949. Tính đến nay đã có khoảng 50 000 nhãn hiệu hàng hố của
người nước ngồi được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam thông qua Thoả
ước Madrid.
Theo Thoả ước Madrid, công dân của một nước Thành viên của
Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu của mình tại nhiều nước Thành
viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu hàng hố của mình tại Cơ
quan Sở hữu cơng nghiệp quốc gia, sau đó thơng qua Cơ quan Sở hữu
cơng nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng
quốc tế của WIPO. Văn phịng quốc tế sẽ cơng bố đơn đăng ký quốc tế
và chỉ rõ những nước Thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn
hiệu của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian
một năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
trên lãnh thổ của mình. Nếu sau một năm nước được chỉ định khơng có ý
kiến thì nhãn hiệu coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó.
6.2.4.6. Hiệp ước về hợp tác sáng chế (PCT)
Hiệp ước này được ký tại Washington năm 1970. Tính đến ngày
22/.06/1999 đã có 103 nước thành viên. Việt Nam tham gia Hiệp ước từ
ngày 10/03/1993. Hiệp ước này tạo khả năng cho người nộp đơn đăng ký
sáng chế thuộc một quốc gia Thành viên có thể nhận được sự bảo hộ cho
sáng chế của mình ở mỗi nước trong số nhiều nước Thành viên khác
bằng việc nộp một đơn duy nhất (gọi là đơn quốc tế) tại Cơ quan Sở hữu
công nghiệp quốc gia của nước Thành viên Hiệp ước mà người nộp đơn
là cơng dân hoặc có chỗ ở thường trú hoặc nộp đơn cho Văn phòng quốc
tế của WIPO tại Geneva. Hiệp ước Hợp tác sáng chế còn quy định chi
tiết các yêu cầu đối với đơn quốc tế, tra cứu đơn quốc tế và thủ tục xử lý
những đơn này ở Cơ quan Sở hữu công nghiệp của nước Thành viên.
Hiện nay phần lớn đơn đăng ký sáng chế của nước ngoài nộp vào Việt
Nam là thông qua Hiệp ước Hợp tác sáng chế.

211



6.2.4.7. Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức Sở hữu
trí tuệ Thế giới
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) được thành lập trên cơ
sở Công ước ký tại Stockholm này 14/07/1967 gọi là Công ước về việc
thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới. Là một tổ chức liên chính phủ
có trụ sở tại Geneve, Thụy Sỹ và là một trong 16 Tổ chức chun mơn
của Liên hiệp quốc, WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ trên phạm vi tồn thế giới thơng qua sự hợp tác giữa các quốc
gia và quản lý các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía
cạnh luật pháp và quản lý sở hữu trí tuệ. Tính đến ngày 22/06/1999 số
Thành viên của WIPO là 171. Việt Nam là Thành viên của WIPO từ
ngày 02/07/1976.
6.2.4.8. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1995.
Đây là Hiệp định đa phươngtổng thể nhất về lĩnh vực sở hữu trí tuệ, ràng
buộc tất cả các Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

6.3. CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO (TRIPS) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
6.3.1 Phạm vi, nội dung và các nguyên tắc của Hiệp định
TRIPs
Theo TRIPs, các Thành viên có thể, nhưng khơng bị bắt buộc, áp
dụng trong luật mức bảo hộ cao hơn so với các yêu cầu của Hiệp định,
nghĩa là việc bảo hộ ở mức cao hơn, không trái với các điều khoản của
Hiệp định.
Các đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc sự điều chỉnh của Hiệp định
này bao gồm: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn hiệu hàng hóa;

chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng công nghiệp; sáng chế và giống cây trồng; thiết
kế bố trí mạch tích hợp; các thơng tin bí mật;
212


Các nguyên tắc của Hiệp định TRIPs 35:
Đãi ngộ Tối huệ quốc: Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kì
một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền, hoặc sự miễn trừ nào được một
Thành viên dành cho cơng dân của bất kì một Thành viên nào khác cũng
phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân tất cả các Thành
viên khác.
Đãi ngộ quốc gia: Mỗi Thành viên phải dành cho công dân của
các Thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử
mà Thành viên đó dành cho cơng dân của mình trong việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, các ngun tắc này cũng cịn những ngoại lệ, theo đó,
các Thành viên có thể dựa vào để miễn trừ nghĩa vụ tuân thủ Hiệp định
TRIPs. Các trường hợp ngoại lệ được quy định cụ thể trong Công ước
Paris (về bảo hộ sở hữu công nghiệp); Công ước Berne (về bảo hộ các
tác phẩm văn học và nghệ thuật); Công ước Rome (về bảo vệ người biểu
diễn, người xuất bản, ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình) và
Hiệp ước Washington (về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp).
6.3.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang
phát triển
Tuy nhiên, Hiệp định TRIPs cho phép các Thành viên có một
khoảng thời gian chuyển đổi thích hợp để đảm bảo việc thực thi đầy đủ
các nghĩa vụ. Các nước phát triển được phép trì hỗn thực hiện Hiệp định
trong vịng một năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Thời hạn này đối
với các nước đang phát triển là năm năm và các nước kém phát triển là
mười một năm.

Những nước đang phát triển đang trong quá trình gia nhập WTO
cũng đàm phán về giai đọan chuyển tiếp các nghĩa vụ của TRIPs, tuy
35

Trần Văn Nam, Treatment of IPRs in regional trade agreements with particular
reference to ASEAN, Collection of Research Papers - 2004, WIPO Publication, No 790 (E),
ISBN 92-805-1467-9, Page 549 - 550

213


×