Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

SỞ HỮU TRÍ TUỆ - NHÃN HIỆU VÀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ - 4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.12 KB, 16 trang )

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
49
Câu hỏi tự đánh giá

Câu 17 Quốc hội của các nước có thể thông qua luật bảo hộ biểu tượng của
Olympic phù hợp với Điều 6ter hay không?

Tra lời. Chính xác đây là loại pháp luật được quy định theo Điều này.


(f) Hiệu lực ngoài giới hạn lãnh thổ của đăng ký tại nước xuất xứ

Các quy định của Điều 6quinquies có hiệu lự
c trong trường hợp một đăng ký tại nước
xuất xứ bị hủy bỏ tại nước đăng ký bảo hộ. Trong khi nguyên tắc đối xử quốc gia đối
với đơn đăng ký đòi hỏi phải có quy tắc thông thường về tính độc lập hoàn toàn của
nhãn hiệu (như được quy định tại Điều 6), thì trong trường hợp ngoại lệ được điều
chỉnh t
ại Điều 6quinquies lại áp dụng quy tắc ngược lại, quy định hiệu lực ngoài giới
hạn lãnh thổ của một đăng ký tại nước xuất xứ.

Để áp dụng Điều 6quinquies, điều cần thiết là nhãn hiệu có liên quan phải được đăng
ký một cách hợp pháp tại nước xuất xứ. Việc đơn thuần nộp đơn hoặc sử dụng nhãn
hiệu tại nước đó là không đủ. Hơn nữa, nước xuất xứ phải là nước thuộc Liên minh
mà ở đó người nộp đơn có sơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực thụ và có hiệu
quả hoặc nếu không có cơ sở như vậy thì là nước thành viên mà người nộp đơn có
chỗ ở cố định, hoặc nếu không có chỗ ở cố định thì là nướ
c thành viên mà người nộp
đơn là công dân.

Quy tắc được thiết lập bởi Điều 6quinquies


quy định rằng nhãn hiệu thỏa mãn các
điều kiện cần thiết phải được chấp nhận nộp đơn và bảo hộ như nó vốn có – as
is (sử
dụng thuật ngữ trong phiên bản tiếng Anh) hoặc telle
quelle (sử dụng thuật ngữ trong
phiên bản tiếng Pháp gốc)—tại các nước thành viên khác, phụ thuộc vào một số ngoại
lệ nhất định. Quy tắc này thường được gọi là nguyên tắc "telle
quelle".

Cũng cần ghi nhận rằng quy tắc này chỉ liên quan đến hình thức của nhãn hiệu. Theo
đó, quy tắc nêu trong Điều này không tác động đến vấn đề bản chất hoặc chức năng
của nhãn hiệu như được nhận thức tại các nước đăng ký bảo hộ. Do vậy, một quốc
gia thành viên không có nghĩa vụ đăng ký hoặc mở rộng sự bảo hộ cho một đối t
ượng
không phải là nhãn hiệu như được định nghĩa trong luật về nhãn hiệu của quốc gia đó.
Ví dụ, nếu theo luật của một quốc gia thành viên, vật thể ba chiều hoặc các nốt nhạc
thể hiện giai điệu không được coi là nhãn hiệu ở quốc gia đó, thì quốc gia này không
có nghĩa vụ phải chấp nhận đăng ký và bảo hộ đối tượng đó.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
50
Điều 6quinquies, Mục B, bao gồm một số ngoại lệ nhất định về nghĩa vụ chấp nhận
nhãn hiệu đã được đăng ký “như nó vốn có” để đăng ký tại các nước khác trong Liên
minh. Danh mục những ngoại lệ đó là đầy đủ để không thể viện dẫn các lý do khác để
nhằm từ chối hoặc hủy bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu. Các ngoại l
ệ đó là:

(i) Nếu nhãn hiệu xâm phạm các quyền của các bên thứ ba có được tại
nước yêu cầu bảo hộ. Các quyền này có thể là các quyền đối với nhãn hiệu
đã được bảo hộ tại nước có liên quan hoặc các quyền khác, như quyền đối

với tên thương mại hoặc quyền tác giả;
(ii) Khi nhãn hiệu thiếu các đặc điểm có khả năng phân biệt, hoặc ch

mang tính mô tả, hoặc bao gồm tên gọi chung;
(iii) Nếu nhãn hiệu trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng như quan niệm
ở nước yêu cầu bảo hộ. Căn cứ này bao gồm cả các nhãn hiệu mà có bản
chất lừa dối công chúng như một dạng đặc biệt;
(iv) Nếu đăng ký nhãn hiệu tạo thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
(v) Nếu nhãn hiệu được chủ s
ở hữu sử dụng theo hình thức khác đáng kể
với hình thức đã được đăng ký tại nước xuất xứ. Sự khác nhau không đáng
kểbản thì không thể được sử dụng làm lý do để từ chối hoặc hủy bỏ.

(g) Nhãn hiệu dịch vụ

Theo tinh thần Điều 6sexies, các quốc gia thành viên cam kết bảo hộ nhãn hiệu dịch
vụ, nhưng không buộc phải quy định v
ề việc đăng ký các nhãn hiệu đó. Quy định này
không buộc quốc gia thành viên phải quy định một cách rõ ràng về đối tượng nhãn
hiệu dịch vụ. Quốc gia thành viên có thể tuân thủ quy định này thông qua việc áp
dụng pháp luật đặc biệt về bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ, cũng như thông qua việc chấp
thuận bảo hộ bằng các công cụ khác, ví dụ, trong luật chống cạnh tranh không lành
mạnh của mình.

(h) Mố
i quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu và đại diện của chủ sở hữu đó

Điều 6septies Công ước quy định các trường hợp đại diện hoặc người đại lý của chủ
sở hữu nhãn hiệu nộp đơn hoặc có được đăng ký nhãn hiệu theo tên của mình hoặc sử
dụng nhãn hiệu mà không có sự cho phép của chủ sở hữu đó. Trong các trường hợ

p
đó, Điều này cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu quyền phản đối đăng ký hoặc yêu cầu
hủy bỏ đăng ký hoặc, nếu pháp luật quốc gia cho phép, yêu cầu chuyển nhượng đăng
ký đó cho mình. Ngoài ra, Điều 6septies cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu quyền phản
đối đại lý hoặc đại diện của mình sử dụng trái phép nhãn hiệu, dù cho đơn đăng ký
nhãn hiệu đã được làm hay đă
ng ký nhãn hiệu đã được cấp chứng nhận hay không.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
51

(i) Bản chất của hàng hóa được gắn nhãn hiệu

Điều 7 Công ước quy định rằng trong trường hợp bất kỳ, bản chất của hàng hóa được
gắn nhãn hiệu cũng không tạo ra trở ngại cho việc đăng ký nhãn hiệu. Mục đích của
nguyên tắc này cũng như nguyên tắc so sánh trong Điều 4quater liên quan đến bằng
độc quyền sáng chế là nhằm làm cho việc bảo hộ sở hữ
u công nghiệp độc lập với việc
liệu hàng hóa được bảo hộ có thể hay không thể được bán tại nước có liên quan.

Đôi khi, xảy ra trường hợp nhãn hiệu liên quan đến hàng hóa, ví dụ, không tuân thủ
các yêu cầu về an toàn theo pháp luật của một nước cụ thể. Ví dụ, pháp luật về thực
phẩm và dược phẩm của một nước có thể quy định các tiêu chuẩn liên quan đến thành
phần của thực phẩm ho
ặc tác dụng của dược phẩm và cho phép bán chúng chỉ sau khi
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở kiểm tra thực phẩm và thử nghiệm
lâm sàng các công dụng của dược phẩm đối với người và động vật. Trong tất cả các
trường hợp này, sẽ là không công bằng khi từ chối đăng ký một nhãn hiệu liên quan
đến những hàng hóa như vậy. Pháp luật về an toàn và chất lượng có thể thay đổi và
sản ph

ẩm có thể được phép bán sau đó. Trong các trường hợp đó, nếu không có dự
kiến thay đổi về pháp luật nhưng sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền của nước
có liên quan vẫn bị trì hoãn, thì sự phê duyệt đó, nếu bị áp đặt như một điều kiện để
nộp đơn hoặc đăng ký tại nước đó, có thể gây thiệt hại cho người nộp đơn mu
ốn nộp
đơn đúng hạn để bảo hộ tại quốc gia thành viên khác.

(j) Nhãn hiệu trưng bày tại các cuộc triển lãm quốc tế

Điều 11 quy định nguyên tắc: các quốc gia thành viên, theo luật quốc gia của mình,
có nghĩa vụ dành sự bảo hộ tạm thời đối với các nhãn hiệu cho hàng hóa trưng bày tại
các triển lãm quốc tế chính thức hoặc được công nhận là chính thức tổ chức tại mộ
t
quốc gia trong số các quốc gia thành viên.

Sự bảo hộ tạm thời có thể được quy định bằng nhiều hình thức khác nhau. Một là cấp
một quyền ưu tiên đặc biệt, tương tự như quyền được quy định trong Điều 4. Một khả
năng bảo hộ khác được ghi nhận trong một số luật quốc gia là việc thừa nhận quyền
sử dụng trước c
ủa người trưng bày hàng hóa mang nhãn hiệu tương phản với các
quyền có được của các bên thứ ba.

Để áp dụng luật pháp quốc gia về bảo hộ tạm thời, các cơ quan có thẩm quyền ở nước
đó có thể yêu cầu bằng chứng nhận biết hàng hóa được trưng bày và ngày bắt đầu
trưng bày hàng hóa ở triển lãm dưới dạng tài liệu bất kỳ mà cơ quan có thẩm quyền
cho là cần thi
ết.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
52


 Thoả ước và Nghị định thư Madrid

(a) Giới thiệu

Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu được điều chỉnh bởi hai điều ước, đó là Thoả ước
Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, có hiệu lực từ năm 1891, và Nghị định thư liên
quan đến Thoả ước Madrid, được thông qua năm 1989, có hiệu lực từ ngày
1/12/1995, và được thực thi từ ngày 1/4/1996. Quy ch
ế chung thi hành Thoả ước và
Nghị định thư cũng có hiệu lực từ ngày 1/4/1996.

Thoả ước Madrid tạo điều kiện thuận lợi cho một người nộp đơn đủ điều kiện - chủ sở
hữu đăng ký nhãn hiệu quốc gia ở nước sở tại của mình (đăng ký cơ sở ở nước xuất
xứ), được mở rộng sự b
ảo hộ đó tới một số hoặc tất cả các quốc gia khác tham gia
Thoả ước. Điều này được thực hiện bằng việc nộp một đơn duy nhất tới WIPO (Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới) ở Geneva, sau đó cơ quan này sẽ cấp một "Đăng ký quốc
tế" (IR) có chỉ ra ("sự chỉ định") các nước tham gia Thoả ước.

Nghị
định thư là một sự sửa đổi mang tính kỹ thuật của Thoả ước. Nó cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho những người nộp đơn có được một Đăng ký quốc tế, chỉ định các
nước tham gia Nghị định thư. Nghị định thư được lập ra nhằm thu hút các quốc gia,
như Hoa Kỳ, Nhật Bản và bốn nước EU không tham gia Thỏa ước (Anh, Ailen, Đan
Mạch và Hy Lạp). Nghị định thư có hiệu lực từ 1/12/1995 và được thực thi từ
1/4/1996. Các quy tắc và lệ phí được hoàn tất vào tháng 1/1996.

Những điểm khác biệt cơ bản giữa Nghị định thư và Thoả ước là:

(i) Một đơn đăng ký nộp theo Nghị định thư có thể dựa trên đơn quốc gia đang

chờ giải quyết, chứ không cần đợi một đăng ký quố
c gia được cấp.

(ii) Trong trường hợp có sự phản đối thành công đối với đăng ký hoặc đơn
quốc gia cơ sở, chủ sở hữu Đăng ký quốc tế theo Nghị định thư có thể,
trong vòng 3 tháng kể từ ngày Đăng ký quốc tế đó bị huỷ, chuyển Đăng ký
quốc tế đó sang các đơn quốc gia với cùng ngày của Đăng ký quốc tế.
(Một Đăng ký qu
ốc tế theo Thoả ước bị ràng buộc bởi đăng ký quốc gia cơ
sở trong vòng 5 năm, và một phản đối bất kỳ đối với đăng ký quốc gia
trong thời gian này dẫn tới việc hạn chế, huỷ bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực
đăng ký quốc gia đó sẽ kéo theo việc hạn chế hoặc huỷ bỏ hiệu lực đăng
ký quốc tế
ở tất cả các lãnh thổ. Đặc điểm này trong Thoả ước được biết
đến như "Phản đối từ trung tâm").
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
53

(iii) Các đơn đăng ký theo Nghị định thư có thể được làm bằng tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp. (Thoả ước chỉ cho phép làm bằng tiếng Pháp).

(iv) Nghị định thư cho phép được thu lệ phí cao hơn, hầu như tương đương với
lệ phí nộp đơn và đăng ký quốc gia ở các nước được chỉ định. Tuy nhiên,
không phải chịu các phí luật sư trừ phi có phản đối đối với việc ch
ỉ định.

(v) Thời hạn mà các cơ quan nhãn hiệu quốc gia phải thông báo cho WIPO các
phản đối đối với việc đăng ký được mở rộng từ tối đa 12 tháng tới 18
tháng.


Các nước đã ký Nghị định thư nhưng chưa ký Thoả ước có thể chỉ sử dụng Nghị định
thư, trừ phi họ cư trú hoặc có cơ sở thương mại thực sự và hi
ệu quả tại một nước của
Liên minh Công ước Paris.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 18 (a) "Phản đối từ trung tâm" của một đăng ký là gì.

Trả lời Khi một đăng ký quốc tế được cấp theo Thoả ước Madrid bị đình chỉ
hiệu lực ở nước mà đơn gốc được nộp thì toàn bộ đăng ký quốc tế đó sẽ
bị mất hiệ
u lực. Ngược lại, Nghị định thư cho phép các đăng ký bị phản
đối từ trung tâm đó được tách thành các đơn quốc gia.

Câu 18(b) Một đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid có thể dựa trên một đơn
đang chờ giải quyết hay không?

Trả lời Không, nó phải dựa trên một đăng ký. Nghị định thư cho phép các đơn
đăng ký quốc tế được dựa trên một đơn quốc gia đ
ang chờ giải quyết.

(b) Hoạt động của Hệ thống đăng ký quốc tế

(i) Nộp đơn Đăng ký quốc tế

Một đơn đăng ký quốc tế ("đơn quốc tế") chỉ có thể được nộp bởi một thể nhân hoặc
một pháp nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả, hoặc
cư trú tại, hoặ
c là công dân của một quốc gia tham gia Thoả ước Madrid hoặc Nghị

định thư Madrid, hoặc thể nhân hay pháp nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp
thực sự và hiệu quả tại, hoặc cư trú tại lãnh thổ của một tổ chức liên chính phủ là
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
54
thành viên của Nghị định thư hoặc là công dân của một nước thành viên của tổ chức
đó.

Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế không thể được sử dụng bởi một thể nhân hoặc
pháp nhân không có mối liên hệ cần thiết với một thành viên của Liên minh Madrid
thông qua cơ sở thương mại, nơi cư trú, quốc tịch, cũng không thể được sử dụng để
bảo h
ộ một nhãn hiệu ngoài Liên minh Madrid.

Một nhãn hiệu có thể là đối tượng của một đăng ký quốc tế chỉ khi nhãn hiệu đó đã
được đăng ký (hoặc đã được nộp đơn đăng ký, nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh
của Nghị định thư) tại Cơ quan xuất xứ. Trong trường hợp đơn quốc tế chỉ ch
ịu sự
điều chỉnh của Thoả ước hoặc chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư,
Cơ quan xuất xứ là Cơ quan Nhãn hiệu của Bên tham gia nơi người nộp đơn có cơ sở
thương mại thực sự và có hiệu quả; nếu người nộp đơn không có cơ sở thương mại tại
một N
ước, Cơ quan xuất xứ là Cơ quan của Bên tham gia nơi người nộp đơn cư trú;
nếu người nộp đơn không cư trú tại một Nước thì Cơ quan xuất xứ là Cơ quan của
Bên tham gia mà người nộp đơn là công dân. Trong trường hợp đơn quốc tế chỉ chịu
sự điều chỉnh của Nghị định thư, những hạn chế về sự lựa chọ
n Cơ quan xuất xứ sẽ
không được áp dụng; Cơ quan xuất xứ có thể là Cơ quan của Bên tham gia bất kỳ mà
một pháp nhân hoặc thể nhân đáp ứng một hoặc một số tiêu chuẩn nêu trên.

Câu hỏi tự đánh giá


Câu 19 Những công dân nào có đủ tư cách để nộp đơn đăng ký quốc tế

Trả lời Người có đủ tư cách nộp đơn đăng ký quốc tế
là các thể nhân hoặc pháp
nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả, hoặc
cư trú tại, hoặc là công dân của một quốc gia tham gia Thoả ước Madrid
hoặc Nghị định thư Madrid, hoặc là thể nhân hoặc pháp nhân có cơ sở
thương mại hoặc cư trú tại lãnh thổ của một tổ chức liên chính chính phủ
tham gia Nghị định thư Madrid, hoặc là công dân của một Nướ
c là thành
viên của tổ chức đó.

Một đơn quốc tế phải chỉ định một hoặc một số Bên tham gia (trừ Bên tham gia mà
Cơ quan của Bên đó là Cơ quan xuất xứ) nơi nhãn hiệu cần được bảo hộ. Các Bên
tham gia khác có thể được chỉ định sau. Một Bên tham gia chỉ có thể được chỉ định
khi Bên tham gia đó và Bên tham gia có Cơ quan là Cơ quan xuất xứ đều tham gia
cùng một điề
u ước, tức là Thoả ước hoặc Nghị định thư.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
55
Việc chỉ định một Bên tham gia nhất định được thực hiện theo điều ước ràng buộc
chung cho cả Bên tham gia đó và Bên tham gia có Cơ quan là Cơ quan xuất xứ. Nếu
cả hai Bên tham gia đều là thành viên của cả Thoả ước và Nghị định thư thì Thoả ước
sẽ là điều ước điều chỉnh việc chỉ định đó; điều này được thực hiện theo quy định gọ
i
là điều khoản "bảo vệ", Điều 9sexies của Nghị định thư. Theo đó, có 3 loại đơn quốc
tế:


– đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước; có nghĩa là mọi sự chỉ
định đều được thực hiện theo Thoả ước;
– đơn quốc tế chỉ chịu sự đ
iều chỉnh của Nghị định thư; có nghĩa là tất cả
mọi chỉ định đều được thực hiện theo Nghị định thư;
– đơn quốc tế chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư; có nghĩa
là một số chỉ định được thực hiện theo Thoả ước và một số chỉ định
được
thực hiện theo Nghị định thư.

Đơn quốc tế phải được nộp cho Văn phòng quốc tế thông qua Cơ quan xuất xứ. Đơn
phải có, trong số những nội dung khác, một mẫu nhãn hiệu (phải trùng với nhãn hiệu
trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở) và danh mục những hàng hoá và dịch vụ cần
được bảo hộ, được phân loại theo Bảng phân loại quố
c tế về hàng hoá và dịch vụ
(Bảng phân loại Nice). Nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước thì đơn
phải được làm bằng tiếng Pháp; nếu đơn chỉ chịu sự điều chỉnh của Nghị định thư
hoặc chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư
thì đơn có thể được làm
bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, dù cho Cơ quan xuất xứ có thể hạn chế sự lựa chọn
của người nộp đơn đối với một trong số hai ngôn ngữ này.

Đơn quốc tế có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên theo Điều 4 của Công ước Paris, trên
cơ sở đơn nộp cho Cơ quan xuất xứ hoặc cũng có thể trên cơ sở
đơn nộp trước đó cho
một Cơ quan khác, không nhất thiết phải là Cơ quan của một bên tham gia Thoả ước
hoặc Nghị định thư.

Câu hỏi tự đánh giá


Câu 20 Đơn phải được nộp bằng (những) ngôn ngữ nào?

Trả lời Nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước Madrid thì đơn đó
ph
ải làm bằng tiếng Pháp; nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của
Nghị định thư hoặc của cả Thoả ước và Nghị định thư thì đơn đó có thể
làm bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, dù cho Cơ quan xuất xứ có thể hạn
chế sự lựa chọn của người nộp đơn đối với một trong số hai ngôn ng

này.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
56

Đơn quốc tế phải chịu những khoản lệ phí sau:

– lệ phí cơ bản

– lệ phí bổ sung đối với mỗi Bên tham gia được chỉ định trong trường hợp
không phải nộp lệ phí riêng;

– lệ phí riêng đối với mỗi Bên tham gia nào được chỉ định theo Nghị định
thư và đã tuyên bố rằng mình muốn nhận được một khoản lệ phí riêng
(mức lệ phí riêng được xác định bởi các Bên tham gia tương ứng và được
công bố trong Công báo);

– phụ phí đối với mỗi nhóm hàng hoá và dịch vụ vượt quá 3 nhóm; tuy nhiên
sẽ không phải nộp phụ phí nếu tất cả các chỉ định thuộc loại phải nộp lệ
phí riêng.

Các khoản lệ phí này có thể được nộp trực tiếp cho Văn phòng quốc tế hoặc, nếu Cơ

quan xuất x
ứ chấp nhận thu và chuyển các khoản lệ phí đó thì nộp thông qua Cơ quan
đó. Các khoản lệ phí dành riêng cho những bên tham gia nào sẽ được Văn phòng
quốc tế chuyển cho các Bên tham gia đó, còn các khoản phụ phí và lệ phí bổ sung
được phân chia cho các Bên tham gia không nhận các khoản lệ phí riêng theo tỷ lệ số
lần chỉ định đối với Bên tham gia đó.

Cơ quan xuất xứ phải xác nhận rằng: nhãn hiệu đăng ký quốc tế chính là nhãn hiệu
trong
đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, rằng thông tin bất kỳ, ví dụ, phần mô tả nhãn
hiệu hoặc yêu cầu bảo hộ màu sắc như đặc điểm phân biệt của nhãn hiệu đều trùng
với những thông tin đó trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, và rằng hàng hoá và dịch
vụ nêu trong đơn quốc tế đều thuộc danh mục hàng hoá và dịch vụ trong đăng ký c
ơ
sở hoặc đơn cơ sở. Cơ quan xuất xứ cũng phải xác nhận ngày nhận được yêu cầu nộp
đơn quốc tế; với điều kiện Văn phòng quốc tế nhận được đơn trong vòng 2 tháng kể
từ ngày đó (và với điều kiện có đầy đủ các thông tin và tài liệu thiết yếu), ngày đó sẽ
là ngày đăng ký quốc tế.

Văn phòng quốc t
ế kiểm tra xem đơn có đáp ứng hay không đáp ứng các yêu cầu của
Thoả ước hay Nghị định thư và Quy chế chung, bao gồm cả các yêu cầu về việc chỉ ra
hàng hoá và dịch vụ và phân loại hàng hoá và dịch vụ, và kiểm tra xem lệ phí theo
quy định đã được nộp hay chưa. Cơ quan xuất xứ và người nộp đơn được thông báo
về sai sót bất kỳ và những sai sót đó phải được sửa chữ
a trong vòng 3 tháng, nếu
không đơn sẽ bị coi là được rút bỏ. Nếu đơn quốc tế đáp ứng các yêu cầu quy định,
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
57
nhãn hiệu sẽ được ghi nhận vào Đăng bạ quốc tế và công bố trên Công báo. Sau đó,

Văn phòng quốc tế sẽ thông báo cho từng Bên tham gia được yêu cầu bảo hộ.

Đăng ký quốc tế có hiệu lực trong 10 năm. Đăng ký quốc tế có thể được gia hạn nhiều
lần, mỗi lần 10 năm với điều kiện phải nộp lệ phí theo quy định.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 21 Cơ quan xuất xứ có những chức năng gì?

Trả lời Cơ quan xuất xứ xác nhận ngày mà cơ quan đó nhận được yêu cầu nộp
đơn quốc tế và xác nhận rằng nhãn hiệu đăng ký quốc tế chính là nhãn
hiệu trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, rằng bất cứ thông tin nào
chẳng hạn phần mô tả nhãn hiệu hoặc yêu cầu bảo hộ màu s
ắc như đặc
điểm phân biệt của nhãn hiệu đều trùng với những thông tin trong đăng
ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, và rằng hàng hoá và dịch vụ nêu trong đơn
quốc tế đều thuộc danh mục hàng hoá và dịch vụ trong đăng ký cơ sở
hoặc đơn cơ sở.

(ii) Hiệu lực của đăng ký quốc tế

Kể từ ngày đăng ký quốc tế, việc b
ảo hộ nhãn hiệu tại từng nước của các Bên tham
gia được chỉ định sẽ tương tự như thể nhãn hiệu đó là đối tượng của một đơn đăng ký
nộp trực tiếp cho Cơ quan của Bên tham gia đó. Nếu không có thông báo từ chối gửi
cho Văn phòng quốc tế trong thời hạn quy định thì việc bảo hộ nhãn hiệu tại mỗi Bên
tham gia được chỉ định sẽ
tương tự như thể nhãn hiệu đó được đăng ký bởi Cơ quan
của Bên tham gia đó.


Hiệu lực của đăng ký quốc tế có thể được mở rộng tới một Bên tham gia không được
chỉ định trong đơn quốc tế bằng cách nộp đơn chỉ định sau. Việc chỉ định sau có thể
được thực hiện đối với Bên tham gia mới tham gia Thoả ước hoặc Ngh
ị định thư sau
thời điểm nộp đơn quốc tế.

(iii) Từ chối bảo hộ

Mỗi Bên tham gia được chỉ định có quyền từ chối bảo hộ. Sự từ chối bất kỳ cũng đều
phải được Cơ quan của Bên tham gia có liên quan thông báo cho Văn phòng quốc tế
trong thời hạn quy định tại Thoả ước hoặc Nghị định thư. Việ
c từ chối được ghi nhận
vào Đăng bạ quốc tế và được công bố trên Công báo và một bản sao được gửi cho
chủ sở hữu đăng ký quốc tế. Thủ tục bất kỳ sau đó, như xem xét lại hoặc khiếu nại,
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
58
được tiến hành một cách trực tiếp giữa chủ sở hữu và Cơ quan của Bên tham gia có
liên quan, còn Văn phòng quốc tế sẽ không liên quan đến các thủ tục đó. Tuy nhiên,
Bên tham gia có liên quan phải thông báo cho Văn phòng quốc tế quyết định cuối
cùng về việc xem xét lại hoặc khiếu nại đó. Quyết định này cũng được ghi nhận vào
Đăng bạ quốc tế và được công bố trên Công báo.

Thời hạn dành cho mỗi Bên tham gia để
thông báo từ chối thường là 12 tháng. Tuy
nhiên, theo Nghị định thư, mỗi bên có thể tuyên bố rằng thời hạn này là 18 tháng hoặc
dài hơn trong trường hợp từ chối dựa trên cơ sở phản đối.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 22 Hiệu lực của đăng ký ở từng nước được chỉ định như thế nào?


A. Việc bảo hộ nhãn hiệu ở các nước đó t
ương tự như thể nhãn hiệu là đối
tượng của đơn đăng ký được nộp trực tiếp cho cơ quan nhãn hiệu của
nước đó.

(iv) Sự phụ thuộc vào Nhãn hiệu cơ sở

Trong thời hạn năm năm kể từ ngày đăng ký, đăng ký quốc tế phụ thuộc vào nhãn
hiệu được đăng ký hoặc được nộp đơn tại Cơ quan xuất xứ
. Nếu đăng ký cơ sở bị mất
hiệu lực, bất kể do bị huỷ bỏ theo quyết định của Cơ quan xuất xứ hay toà án hay do
sự từ bỏ tự nguyện hoặc không gia hạn, trong thời hạn năm năm đó, đăng ký quốc tế
sẽ bị đình chỉ. Tương tự, đối với đăng ký quốc tế dựa trên cơ sở đơ
n nộp tại Cơ quan
xuất xứ, đăng ký đó sẽ bị đình chỉ trong trường hợp đơn đó bị từ chối hoặc rút bỏ
trong thời hạn năm năm, hoặc trong trường hợp và trong phạm vi đăng ký cấp theo
đơn đó bị mất hiệu lực trong thời hạn đó. Cơ quan xuất xứ phải thông báo cho Văn
phòng quốc tế về các sự kiệ
n và quyết định liên quan đến việc đình chỉ hoặc huỷ bỏ
hiệu lực hoặc từ chối đơn và, nếu phù hợp, phải yêu cầu đình chỉ (trong phạm vi thích
hợp) đăng ký quốc tế đó. Việc huỷ bỏ này được công bố trên Công báo và được thông
báo cho Các bên tham gia được chỉ định.

Sau khi khi kết thúc thời hạn năm năm, đăng ký quốc tế sẽ trở thành độ
c lập với đăng
ký cơ sở hoặc đơn cơ sở.

Câu hỏi tự đánh giá


Câu 23. Thời hạn dễ bị từ chối bảo hộ của một đăng ký là bao lâu?

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
59
Trả lời Năm năm kể từ ngày đăng ký ở nước xuất xứ.

(v) Thay đổi và Huỷ bỏ đăng ký quốc tế

Sự thay đổi về tên hoặc địa chỉ của chủ sở hữu có thể được ghi nhận vào Đăng bạ
quốc tế theo yêu cầu. Tương tự, sự thay đổi về quyền sở hữu đối với một đăng ký
quốc tế có thể được ghi nhận đối với tất cả hoặc một số hàng hoá và dịch vụ và đối
với tất cả hoặc một số Bên tham gia được chỉ định. Tuy nhiên, một người có thể được
ghi nhận là chủ sở hữu của một đăng ký quốc tế đối với một Bên tham gia nhất định
chỉ khi người đó được phép (do có cơ sở thươ
ng mại, nơi cư trú hoặc quốc tịch) chỉ
định Bên tham gia đó trong đơn quốc tế.

Những thông tin dưới đây cũng có thể được ghi nhận vào Đăng bạ quốc tế:

– giới hạn danh mục hàng hoá và dịch vụ đối với tất cả hoặc một số Bên
tham gia được chỉ định;

– từ bỏ đăng ký đối với một số
Bên tham gia được chỉ định đối với tất cả
hoặc một số hàng hoá và dịch vụ;

– huỷ bỏ đăng ký quốc tế đối với tất cả các Bên tham gia được chỉ định đối
với tất cả hàng hoá và dịch vụ.

Những thay đổi và huỷ bỏ này được công bố trên Công báo và thông báo cho các Bên

tham gia được chỉ định khác.

Không thể thay đổi nhãn hiệu là đối tượ
ng của đăng ký quốc tế khi gia hạn cũng như
ở thời điểm bất kỳ khác. Danh mục hàng hoá và dịch vụ cũng không được thay đổi
nếu việc thay đổi dẫn đến việc mở rộng phạm vi bảo hộ.

(c) Tham gia Thoả ước hoặc Nghị định thư

Nước bất kỳ là thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp đều có
thể tham gia Thoả ước hoặc Nghị định thư hoặc cả hai điều ước đó. Ngoài ra, một tổ
chức liên chính phủ cũng có thể tham gia Nghị định thư (nhưng không thể tham gia
Thoả ước) nếu đáp ứng được những điều kiện sau: ít nhất một trong số những Nước
thành viên của tổ chức đó là thành viên của Công ước Paris và tổ chức đó có mộ
t cơ
quan khu vực có chức năng đăng ký nhãn hiệu với hiệu lực trong lãnh thổ của tổ chức
đó.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
60
Nước tham gia Thoả ước và/hoặc Nghị định thư và các tổ chức tham gia Nghị định
thư được gọi chung là các Bên tham gia. Mỗi thành viên của Liên minh Madrid là
một thành viên của Hội đồng Liên minh đó.

(d) Những ưu điểm của Hệ thống

Sau khi đăng ký nhãn hiệu, hoặc nộp đơn đăng ký vào Cơ quan xuất xứ, chủ nhãn
hiệu chỉ phải nộp một đơn, bằng một ngôn ngữ, cho m
ột Cơ quan và chỉ phải nộp các
khoản lệ phí cho một cơ quan; thủ tục này thay thế cho việc phải nộp đơn riêng biệt

cho từng Cơ quan nhãn hiệu của các Bên tham gia khác nhau bằng những ngôn ngữ
khác nhau, và phải trả các khoản lệ phí riêng biệt cho từng Cơ quan. Khi gia hạn hoặc
sửa đổi đăng ký cũng được hưởng những lợi ích tương tự.

Đăng ký quốc tế cũng có lợi cho các Cơ
quan nhãn hiệu. Ví dụ, các Cơ quan nhãn
hiệu sẽ không cần xem xét việc tuân thủ các yêu cầu về mặt hình thức của đơn hoặc
không cần phân loại hàng hoá và dịch vụ hoặc công bố nhãn hiệu. Như trên đã trình
bày, các khoản lệ phí riêng biệt và các khoản lệ phí chỉ định khác được thu bởi Văn
phòng quốc tế được chuyển cho các Bên tham gia được yêu cầu bảo hộ. Hơn nữa, nếu
Dịch vụ đă
ng ký quốc tế đóng tài khoản sau 2 năm mà có lợi nhuận thì lợi nhuận sẽ
được chia cho các bên tham gia.

 Hiệp ước Luật Nhãn hiệu (TLT)

(a) Giới thiệu

Hiệp ước Luật Nhãn hiệu được thông qua ngày 27/10/1994 tại một Hội nghị ngoại
giao ở Geneva. Mục đích của Hiệp ước là đơn giản hoá và hài hoà hoá các thủ tục
hành chính liên quan đến đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu quốc gia. Mỗi quốc gia riêng
biệt cũng như các tổ chức liên chính phủ có Cơ quan đăng ký nhãn hiệu với hiệu lực
trong lãnh thổ các nước thành viên, như Cộng đồng châu Âu (EU) và Tổ chức SHTT
châu Phi (OAPI) đều có thể trở thành thành viên của Hiệp ước. Các điều khoản của
Hiệp ước được bổ sung bằng các Quy chế và các Mẫu đơn Quốc tế. Hiệp ước bắt đầu
có hiệu lực từ 01/8/1996.

(b) Các loại nhãn hiệu mà Hiệp ước này được áp dụng

Theo Điều 2, Hiệp ước này được áp dụng cho các nhãn hiệ

u hàng hoá và dịch vụ.
Không phải tất cả các nước hiện nay đều đăng ký nhãn hiệu dịch vụ và vì vậy khi
tham gia Hiệp ước, Nước thành viên phải có nghĩa vụ đăng ký nhãn hiệu dịch vụ.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
61
Thêm vào đó, theo Điều 16, Nước thành viên đó cũng có nghĩa vụ tuân thủ các quy
định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu dịch vụ.

Nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu bảo đảm không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Hiệp ước này bởi vì việc đăng ký các loại nhãn hiệu này thường đòi
hỏi phải đáp ứng các điều kiện đặc biệt,
đa dạng ở các nước khác nhau khiến cho việc
hài hoà hoá rất khó khăn. Nhãn hiệu ba chiều và nhãn hiệu vô hình, như nhãn hiệu âm
thanh và nhãn hiệu mùi không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước này bởi vì
chúng không dễ dàng tạo mẫu các nhãn hiệu đó bằng phương pháp đồ hoạ và rất ít
quốc gia quy định trong luật quốc gia của mình về việc bảo hộ các loại nhãn hiệu này.

Nhãn hiệu có khả năng đượ
c đăng ký phải bao gồm các dấu hiệu có thể nhìn thấy
được và liên quan tới nhãn hiệu ba chiều thì chỉ những nước chấp nhận đăng ký nhãn
hiệu ba chiều mới có nghĩa vụ phải tuân theo Hiệp ước đối với các nhãn hiệu loại này.

(c) Đơn

Điều 3 Hiệp ước gồm toàn bộ danh mục các thông tin mà Cơ quan được phép yêu cầu
đối với đơn đăng ký nhãn hiệu. Ví dụ, những thông tin này là tên và địa ch
ỉ của người
nộp đơn và của đại diện, tuyên bố yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp
sớm hơn (nếu có), một hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là
nhãn hiệu màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp theo

nhóm của Bảng phân loại Nice, hoặc khai báo về việc dự định sử dụng nhãn hiệ
u
hàng hoá hoặc về việc sử dụng thực tế. Ngoài những thông tin được quy định trong
Hiệp ước, không được yêu cầu những thông tin khác, như Đăng ký kinh doanh, chứng
cứ về việc người nộp đơn đang tiến hành hoạt động kinh doanh hoặc lĩnh vực kinh
doanh liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn.

Cùng một đơn có thể đăng ký cho nhiều hàng hóa và dịch vụ. Theo Điều 6 c
ủa Hiệp
ước, Cơ quan phải chấp nhận đơn đăng ký cho dù các hàng hóa hoặc dịch vụ thuộc
nhiều nhóm khác nhau trong Bảng phân loại Nice. Trong trường hợp này, đơn phải
tương ứng với một đăng ký duy nhất.

Cơ quan không được từ chối đơn bằng bản giấy nếu đơn đó được làm theo mẫu tương
ứng với mẫu đơn nêu trong Quy chế hoặc, nếu việc g
ửi tài liệu tới Cơ quan bằng fax
là được phép thì bản sao bằng giấy từ bản chuyển đó phải đúng với mẫu đơn.

Câu hỏi tự đánh giá

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
62
Câu 24 Cơ quan nhãn hiệu có thể yêu cầu các thông tin gì theo quy định của
TLT?

A. Tên và địa chỉ của người nộp đơn và của đại diện, tuyên bố yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp sớm hơn (nếu có), một
hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là nhãn hiệu
màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp
theo nhóm c

ủa Bảng phân loại Nice, hoặc khai báo về việc dự định sử
dụng nhãn hiệu hàng hoá hoặc về việc sử dụng thực tế.

(d) Đại diện

Điều 4 Hiệp ước cho phép Bên tham gia yêu cầu đại diện của người nộp đơn hoặc chủ
sở hữu phải là người được phép hoạt động đại diện trước Cơ quan của Bên tham gia
đó, và người không có cơ
sở công nghiệp hoặc thương mại thực sự và có hiệu quả,
hoặc thường trú trên lãnh thổ nước đó phải có đại diện. Theo quy định này, giấy ủy
quyền có thể liên quan đến nhiều đơn hoặc đăng ký hiện có hoặc trong tương lai.


(e) Ngày nộp đơn

Việc ghi nhận ngày nộp đơn có ý nghĩa quan trọng bởi vì các quyền phát sinh trên cơ
sở ngày đó, và vì có thể đòi hỏi quyền
ưu tiên từ ngày đó đối với đơn được nộp sau ở
những nước khác. Điều 5 của Hiệp ước quy định những thông tin tối đa mà Cơ quan
có thể yêu cầu đối với việc ghi nhận ngày nộp đơn. Những thông tin này bao gồm các
thông tin về người nộp đơn, thông tin đủ để liên lạc với người nộp đơn hoặc người đại
diện của người nộ
p đơn, mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hóa và dịch vụ yêu cầu đăng
ký nhãn hiệu, v.v Ngoài ra, để ghi nhận ngày nộp đơn, Cơ quan có thể yêu cầu nộp
lệ phí nếu luật nhãn hiệu của quốc gia áp dụng điều kiện này trước khi tham gia Hiệp
ước.

(f) Tách Đơn và Đăng ký

Nếu việc đăng ký một nhãn hiệu bị từ chối đối với một số hàng hóa hoặc dịch vụ nh

ất
định, Điều 7 Hiệp ước quy định người nộp đơn có thể tách đơn để tránh bị chậm trễ
trong việc thực hiện đăng ký nhãn hiệu cho những hàng hóa hoặc dịch vụ không bị từ
chối và vẫn giữ được ngày nộp đơn đầu tiên hoặc ngày ưu tiên nếu có. Đồng thời,
người nộp đơn có thể tiến hành khiếu nại đối với đơn có hàng hóa ho
ặc dịch vụ bị từ
chối.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
63
Cũng có sự lựa chọn tương tự đối với việc tách đăng ký khi mà hiệu lực của đăng ký
bị một bên thứ ba phản đối, hoặc trong trường hợp có khiếu kiện nào đó chống lại
quyết định của Cơ quan Sở hữu công nghiệp liên quan đến thủ tục này.

(g) Chữ ký

Điều 8 Hiệp ước có các quy định về chữ ký và các dấu hiệu khác cho phép xác định
nguồn của một thông tin như việc nộp một đơn vào Cơ quan, cụ thể là khi việc
chuyển tài liệu được thực hiện bằng fax hoặc các phương tiện điện tử. Thay vì chữ ký
viết tay, Cơ quan có thể chấp nhận chữ ký dưới hình thức in, dán tem hoặc đóng dấu.
Điều quan trọng là không được phép yêu cầu chứng thực, công chứng, xác nhận, hợp
pháp hóa hay hình thức xác nhận chữ
ký bất kỳ khác, trừ trường hợp chữ ký liên quan
đến việc hủy bỏ một đăng ký nếu pháp luật quốc gia quy định như vậy.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 25 TLT có cho phép nộp đơn điện tử không?

Trả lời Có. Điều này được phép theo quy định tại Điều 8.


(h) Những thay đổi và sửa chữa liên quan đến Đơn và Đăng ký

Điều 10 và 11 Hiệp ướ
c quy định về những yêu cầu đối với việc ghi nhận sự thay đổi
về tên, địa chỉ và quyền sở hữu. Điều 12 có những yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể
yêu cầu nhằm sửa chữa những thiếu sót của người nộp đơn hoặc chủ sở hữu trong tài
liệu gửi cho cơ quan – những nội dung sẽ được in trong đăng bạ. Các quy định từ

Điều 10 đến Điều 12 được áp dụng cho cả việc thay đổi hoặc sửa chữa đơn và đăng
ký. Các điều khoản này quy định một đơn duy nhất có thể yêu cầu ghi nhận việc thay
đổi hoặc sửa chữa liên quan đến nhiều đơn hoặc đăng ký hoặc cả hai. Đơn yêu cầu
phải chỉ ra một cách rõ ràng những thông tin có liên quan được thực hiện bởi Cơ quan
đăng ký và nh
ững thay đổi hoặc sửa chữa được yêu cầu.

Cơ quan không thể yêu cầu các thông tin thêm ngoài những thông tin đã được đề cập
trong Hiệp ước, trừ khi Cơ quan có cơ sở nghi ngờ tính xác thực của thông tin, ví dụ,
khi cơ quan đó nghi ngờ về việc thay đổi tên và địa chỉ thực tế lại là sự thay đổi
quyền sở hữu. Đặc biệt, Cơ quan không được phép yêu cầu cung cấp tài liệu xác nhậ
n
việc thay đổi tên hoặc địa chỉ, chứng cứ về việc chủ sở hữu mới tiến hành hoạt động
kinh doanh liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ được thay đổi quyền sở hữu, hoặc
chủ sở hữu quyền chuyển giao cơ sở thương mại của mình cho chủ sở hữu mới.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
64
Theo Điều 11, đối với yêu cầu ghi nhận việc thay đổi quyền sở hữu, Cơ quan có thể
yêu cầu nộp bản sao hoặc bản trích sao hợp đồng có xác nhận, văn bản xác nhận việc
chuyển giao và tài liệu chuyển giao. Nếu sự thay đổi quyền sở hữu là kết quả của việc

sát nhập hoặc thực thi luật hoặc quyết định của toà án, ví dụ, trong trường hợ
p thừa kế
hoặc phá sản, Cơ quan có thể đòi hỏi nộp yêu cầu kèm với bản sao có xác nhận tài
liệu chứng minh việc thay đổi quyền sở hữu.

Thiếu sót của Cơ quan đăng ký phải được Cơ quan sửa chữa một cách chủ động
hoặc
theo yêu cầu.

(i) Thời hạn và Gia hạn Đăng ký

Điều 13 Hiệp ước quy định đăng ký nhãn hiệu có thời hạn 10 năm đối với kỳ hạn hiệu
lực đầu tiên và có thể gia hạn nhiều lần, mỗi kỳ hạn là 10 năm. Đối với việc gia hạn,
điều này liệt kê những yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể đặt ra. Những yêu cầu này
tươ
ng ứng với các yêu cầu về nộp đơn. Đặc biệt, Cơ quan không được vì các mục
đích ảnh hưởng tới việc gia hạn mà tiến hành thẩm định nội dung đăng ký hoặc yêu
cầu nộp mẫu nhãn hoặc cung cấp những chứng cứ liên quan đến việc sử dụng nhãn
hiệu đó.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 26 Thời hạn của đăng ký nhãn hiệu theo Hiệp ướ
c Luật Nhãn hiệu là bao
lâu?

Trả lời Thời hạn đầu tiên là 10 năm, và có thể gia hạn nhiều lần tiếp theo với
mỗi kỳ hạn là 10 năm

(j) Các quy định khác trong Hiệp ước


Theo Điều 14, trong trường hợp dự định từ chối đơn yêu cầu ghi nhận việc thay đổi
tên, địa chỉ và quyền sở hữu hoặc đơn yêu cầu sửa chữa thiếu sót hoặ
c đơn yêu cầu
gia hạn, Cơ quan phải dành cho người yêu cầu một thời hạn thích hợp để có cơ hội
đưa ra ý kiến về dự định từ chối đó.

Nói chung, mặc dù Hiệp ước đặt ra các yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể yêu cầu đối
với đơn, đại diện, gia hạn, v.v. nhưng Cơ quan cũng có quyền yêu cầu cung cấp thêm
các thông tin nếu có cơ sở nghi ngờ v
ề tính xác thực của thông tin nhận được.

×